LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử Việt Nam qua suốt mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước đã
trải nhiều triều đại phong kiến. Mỗi triều đại đều mang dấu ấn riêng nhưng
gặp nhau ở điểm chung là luôn lập ngôi Thái tử là người kế vị vương quyền
khi vua cha qua đời hoặc nhường ngôi. Quan niệm thế tục được duy trì từ
đời này qua đời khác theo kiểu cha truyền con nối. Các vị hoàng đế thường
chọn trong số các con trai của mình một người có đủ tài trí lập lên làm thái
tử, sau khi vua cha nhường ngôi sẽ lên làm vua, tiếp tục cai trị đất nước, duy
trì vương quyền của dòng họ.
Đông cung Cảnh là một trong số những hoàng tử có những nét khác
biệt so với các hoàng tử khác. Hoàng tử đã qua đời khi chưa một ngày lên
ngai vàng. Cuộc đời hoàng tử không dài, và vì chưa lên ngôi vua nên sử
sách ghi lại về hoàng tử cũng rất hạn chế. Vấn đề đặt ra ở đây gây khá nhiều
tranh cãi: cuộc đời và di nghiệp của ông như thế nào? Bản thân tôi là thế hệ
hậu thế, quan tâm đến vấn đề cha ông, muốn góp phần nhỏ sức mình vào
dòng chảy chung tìm về nguồn cội.
Sử sách ghi lại diễn biến thời kỳ này khá đầy đủ, do nhà Nguyễn sau
khi giành chính quyền đã quan tâm đến việc chép lại sử cha ông. Một cơ
quan chuyên về việc này được thành lập, biên soạn cuốn Đại Nam Thực Lục-
bộ sử của Quốc sử quán triều Nguyễn, mục đích là ghi lại chân thực về lịch
sử triều đại nhà Nguyễn từ thời chúa Nguyễn Hoàng di dân khai hoang vùng
Thuận Quảng đến năm Gia Long thứ 18, 1819.
Với niềm đam mê tìm hiểu về nhà Nguyễn cùng sự giúp đỡ nhiệt tình
của các thầy cô, các bạn, đặc biệt là, đã giúp tôi thực hiện đề tài: Đông cung
hoàng tử Cảnh qua Đại Nam Thực Lục. Do khuôn khổ của một bài niên
luận và lượng kiến thức của cá nhân chưa thật đầy đủ, bài viết chắc chắn
không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ý và trao đổi
của mọi người để bài viết hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn!
1
NỘI DUNG
1. Vài nét về lịch sử Việt Nam giai đoạn 1771-1802
Trong lịch sử Việt Nam, thế kỷ XVIII được mệnh danh là"Thế kỷ
chiến tranh nông dân". Cuộc khủng hoảng trầm trọng bắt đầu từ Đàng
Ngoài. Chính quyền Lê Trịnh tỏ ra hoàn toàn bất lực trước các vấn đề kinh
tế xã hội. Triều chính mục nát suy đồi. Sự bất bình của mọi tầng lớp nhân
dân cuối cùng đã tụ hội lại dưới ngọn cờ khởi nghĩa của anh em nhà Tây
Sơn. Phong trào Tây Sơn đã đạt tới một tầm cao mới, trở thành lực lượng
đại diện cho lợi ích của dân tộc. Đất nước đang phát triển đi lên trong một tư
thế mới thì Quang Trung đột ngột qua đời vào năm 1792, khi mới 39 tuổi,
bỏ lại cả một sự nghiệp lớn còn dang dở. Người kế vị ông là Quang Toản đã
không đủ sức gánh vác trọng trách được giao phó.
Trước đó, ngay từ năm 1788, lợi dụng sự bất hoà trong anh em Tây
Sơn, Nguyễn Ánh đã bí mật đưa lực lượng trở lại Gia Định. Thất vọng trước
sự bất lực của quân Xiêm, Nguyễn Ánh tăng cường tìm kiếm sự giúp đỡ của
người Pháp.
Ý đồ cầu viện Pháp xuất hiện từ 1777. Trong khi lẩn trốn sự truy đuổi
của quân Tây Sơn Nguyễn Ánh gặp gỡ và được sự che chở của cha cố
Georges Pigneau de Behaine (trong sử thường gọi là Bá Đa Lộc). Năm 1784,
trong khi còn đang cầu cạnh vua Xiêm, Nguyễn Ánh đã nhờ Bá Đa Lộc
mang thư cùng người con trai 4 tuổi của mình là hoàng tử Cảnh làm con tin
sang cầu cứu nước Pháp. Đựợc sự uỷ nhiệm của Nguyễn Ánh, Bá Đa Lộc đã
ký với triều đình Pháp một bản hiệp ước vào năm 1787. Theo đó vua Pháp
cam kết giúp Nguyễn Ánh về quân sự để khôi phục lại đất đai, đổi lại họ
được quyền lợi ở cảng Hội An và đảo Côn Lôn.
Dựa vào sự giúp đỡ của Pháp và các thế lực đại địa chủ Gia Định, lực
lượng của Nguyễn Ánh ngày càng mạnh. Lợi dụng mâu thuẫn nội bộ ngày
càng nặng nề của quân Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã dần chiếm được vương
quyền. Tháng 6 năm 1801, Nguyễn Ánh chiếm được thành phú Xuân, quân
2
Tây Sơn tan vỡ, quang Toản phải bỏ chạy ra Thăng Long. Tháng 7, thành
Thăng Long rơi vào tay quân Nguyễn Ánh. Triều đại Tây Sơn chấm dứt.
Nguyễn Ánh lên ngôi, lấy niên hiệu là Gia Long, tiếp tục thời kỳ trị vì
bị đứt quãng của các chúa Nguyễn trước đây. Đóng góp vào sự nghiệp
chung ấy phải kể đến công lao của rất nhiều vị danh tướng, sự viện trợ của
phương Tây trong đó nổi lên vai trò của Bá Đa Lộc. Dưới danh nghĩa truyền
giáo, Bá Đa Lộc như là "sứ giả của hai nước". Cho nên khi phong trào giao
thương Âu-Á vẫn tiếp tục mà nhà Tây Sơn bị ném sang bên lề một phần nào
thì Gia Định thay mặt Đại Việt nhận lãnh tất cả những ưu thế được đưa đến.
Tất nhiên họ đến và mang theo cả văn hoá của họ. Bá-đa-lộc mang hoàng tử
Cảnh đi cầu viện, đem về Gia Định không phải chỉ một hiệp ước tuy không
thi hành nhưng cũng kêu gọi người tới mà còn một ông hoàng trừ nhị biết
đọc kinh và quả quyết hứa rằng sứ mệnh của ông là'làm cho dân chúng tôi
trở lại đạo". Đặt trong bối cảnh chung của lịch sử lúc này, cuộc đời Hoàng
tử Cảnh đã có những biến động, nhất là từ khi ông theo Bá-đa-lộc. Tuy mất
sớm nhưng những năm tháng tuổi trẻ ông cũng đã đóng góp rất nhiều trong
quá trình giành lại vương triều Nguyễn. Cùng lật lại sách sử cũ, mà chính
yếu ở đây là qua Đại Nam Thực Lục chúng ta sẽ có cái nhìn toàn diện hơn.
3
2. Đông cung Hoàng tử Cảnh
2. 1. Cuộc đời và thân thế hoàng tử
Đại Nam Thực Lục có chép về hoàn cảnh ra đời của hoàng tử Cảnh
khá rõ nét: "Năm Canh Tý, lại năm thứ 1 [1780] (Lê - Cảnh Hưng năm thứ 41,
Thanh -Càn Long năm thứ 45, năm ấy vua mới lên ngôi nên lại chép năm thứ
1) mùa xuân, tháng Giêng, ngày Quý Mão, vua lên ngôi vương. Tháng 3,
ngày Tân Tỵ, hoàng tử cả Cảnh (tức là Anh Duệ Hoàng thái tử) sinh, do
nguyên phi Tống thị (tức là Thừa thiên Cao hoàng hậu ;phi là con gái ngoại
tả chưởng dinh Tống Phước Khuông, tổ tiên là người Bùi Xá, huyện Tống
Sơn, buổi đầu theo Thái tổ vào Nam trấn, ở tại An Quán dinh Quảng Nam.
Khi Duệ Tông vào Nam, phi theo Phước Khuông vào Gia Định. Năm Mậu
tuất vua sửa lễ cưới, tấn phong làm nguyên phi). "
1
Đại Nam Thực Lục đã trích dẫn "Bá Đa Lộc là người Phú Lãng Sa,
thường qua lại khoảng Chân Lạp và Gia Định, nhân đến yết kiến vua và xin
giúp sức. Vua lấy lễ khách mà đãi. Đến đây vua mời đến, dụ rằng : “Hiện
nay giặc Tây Sơn chưa dẹp được, bốn mặt kinh đô còn nhiều đồn lũy mà đảo
Thổ Châu và đảo Phú Quốc không chỗ nào ở yên được, vận nước ta gặp
bước gian truân, khanh đã rõ rồi. Khanh có thể vì ta đi sứ sang Đại Tây, nhờ
đem quân sang giúp ta được không ?”. Bá Đa Lộc xin đi. Hỏi lấy gì làm tin.
Vua nói : “Đời xưa các nước giao ước cùng nhau, lấy con làm tin. Ta lấy
con là Cảnh làm tin. Cảnh 4 tuổi, mới lìa lòng mẹ, ta đem ủy thác cho
khanh, mong khanh khéo bảo hộ. Non sông cách trở, đường sá gian nan, nếu
có biến cố thì khanh nên giữ Cảnh mà tránh”
2
. Như vậy, hoàng tử Cảnh đi theo
cha cố Bá-đa-lộc từ khi còn là một đứa trẻ 4 tuổi. Tiếp xúc với văn minh nước
ngoài và đạo Thiên Chúa mà các vua nhà Nguyễn sau này vẫn dùng với chữ "tả
đạo"- hoàng tử chắc chắn có sự ảnh hưởng mạnh nếu không muốn nói là đã
tiếp thu.
1
Đại Nam Thực Lục, tập 1, phần 5, trang 208.
2
Đại Nam Thực Lục, tập 1, phần 5, trang 216-218
4
Sau khi trở về quê hương, hoàng tử được chính thức sắc phong làm
Đông cung hoàng tử. Vua sắc rằng : “Cha có con như trời có nguyên khí.
Nguyên khí lớn lên, thì đạo trời mới thịnh. Họ có ngành như sông có nhánh,
nhánh trên mà sâu, thì dòng sông càng xa. Cho nên thánh đế minh vương,
đương lúc thái bình, còn nghĩ lập ngôi thái tử; huống nay đánh đông đánh
tây, đương lúc dẹp loạn, há quên dựng người nối ngôi ! Nguyễn Phúc Cảnh
là con cả của nhà, là vua sau của nước. Học thì lo cầu văn chương lễ nhạc,
gần theo những bực hiền lương; đạo thì lo tìm tâm pháp thánh hiền, nhờ cậy
các quan sư phó. Tuy trạc tuổi hãy còn non trẻ, việc nên chăng chẳng khác
mọi người; nhưng gian hiểm đã từng trải quan, lịch số trời tất ở con đó. Nay
lập làm Đông cung Cảnh quận công, để thống nhất lòng dân, hợp lời nghị
luận. Phải làm cho tâm đức xứng ánh sáng của Tiền tinh
(1)
; khiến cho người
đời thấm ơn sâu của Tiểu hải
(2)
. Mưu hay để cho con cháu, hoa vàng rõ như
nhật nguyệt sáng thêm; điềm lành vun đắp cơ đồ, lịch ngọc dài như càn khôn
muôn thuở”.
Rõ ràng việc Hoàng tử Cảnh được sắc phong làm hoàng tử là mong
muốn của Nguyễn Ánh dựa trên thực tế con người và tài năng ,cả những
thăng trầm đã có trong cuộc đời của ông. Việc để ông làm con tin đi cùng
Bá-đa-lộc sang cầu cứu vua Pháp cũng chứng tỏ tầm quan trọng của ông
trong con mắt vua Nguyễn Ánh, là người được chọn sẽ nối nghiệp cơ đồ sau
này.
2.2. Sự nghiệp của Đông cung Hoàng tử Cảnh
Những năm tháng sống trên đất khách quê người, tiếp xúc với một nền
văn hoá hoàn toàn xa lạ so với khuôn phép đạo lý của vương triều, Hoàng tử
Cảnh đã tiếp thu đạo giáo-thứ đạo bị coi là"tả đạo" ở xứ An Nam này, mà
biểu hiện rõ nhất, gây bàng hoàng cho cả vương triều Nguyễn Ánh là việc
ông nhất định không chịu quỳ lạy trước tổ tiên. Chính vì vậy việc quan trọng
nhất lúc này là làm sao kéo hoàng tử trở về với nguồn cội bản gốc cha ông
và ngăn cách bớt sự gần gũi với các cha cố, cha đạo (ở đây người có ảnh
(
1, 2. Tiền tinh là sao trước; Tiểu hải là biển nhỏ, đều chỉ ngôi Thái tử.
5
hưởng lớn nhất đến hoàng tử chính là Bá-đa-lộc). Sau những nỗ lực nhất
định, ông cũng đã quay trở lại đúng với bản chất của một ông hoàng Đông
phương, học kinh thư lễ nghĩa và có 3 vợ - thay vì tuyên bố theo đạo và sẽ
đưa đất nước này theo đạo như ban đầu mới trở về.
Hoàng tử dần được vua cha ban cho quyền lực và tham gia trực tiếp
vào các trận đánh với quân Tây Sơn như trận đánh Chiêm Dinh,La Qua thu
nhiều thắng lợi. Ông được giao trấn giữ thành Diên Khánh, là nơi hiểm yếu
mà trước khi đi vua đã căn dặn “ Đất Diên Khánh bốn mặt đều là chiến
trường, dân chúng lầm than lắm rồi. Ta ngày đêm vất vả, nếm đủ đắng cay
mới giành được miếng đất ấy. Con nên chuyên tâm, trong giữ yên dân, ngoài
lo chống giặc, để đáp tấm lòng mong mỏi của dân và khiến quân giặc phải
sợ. Con phải gắng làm như chính ta trông thấy”. Như thế đã thấy phần nào
vị trí của hoàng tử trong vua.Việc chăm lo để Đông cung xa rời dần đạo,
quay về với nếp cũ gia phong cũng được coi trọng .Vua lại nói : “Đế vương
từ xưa chưa ai là không học. Thế cho nên Thái Giáp làm được cháu hiền của
Vua Thang, Thành Vương làm được vua giỏi của nhà Chu, cũng đều nhờ
học mà nên đức. Khi việc binh rỗi con nên vâng theo sư phó, chăm đọc kinh
sách, khiến cho sự học được sáng tỏ, nghiệp đức được tiến lên. Đến như đối
với xung quanh thì nên gần người ngay thẳng, xa kẻ gian tà, thế mới gọi là
sáng suốt biết người".
3
Hoàng tử còn tham gia viết sách Hiển trung chư thần liệt truyện nhằm
khích lệ lòng binh sĩ, hay dâng tấu lên vua những việc không phải và cũng
có thể coi là người khá quan tâm đến đời sống nhân dân.
Đại Nam Thực Lục trích dẫn: "Hà Tiên đói, Mạc Tử Thiêm sai dân
đong thóc ở Kiên Giang, viên quản thủ không cho. Tử Thiêm xin ở Gia
Định. Đông cung Cảnh nói: “Buôn thóc ra ngoài biển thì có lệnh cấm.
Nhưng dân ở Hà Tiên cũng là con đỏ của triều đình, sao nỡ thấy đói kém mà
không cứu?”. Bèn hạ lệnh cho đạo Long Xuyên bán cho 10 xe thóc. Gia
Định được mùa, trong cõi yên ổn. Đông cung Cảnh dâng sớ tâu và nói:
3
Đại Nam Thực Lục.Tập 1, phần 7, trang 303
6
“Nhân nay mùa rỗi, xin bắt 10. 000 dân phu và số người đồn điền lấy ba
phần mười, ủy cho Công bộ Trần Văn Thái đem đi Quang Hóa lấy gỗ ván
chở về, đóng thêm 50 chiếc thuyền đi biển, để sẵn cho quân dùng”.
4
"Đông cung Cảnh cho quân đi đánh giặc ở La Qua, giết được voi giặc,
giặc vỡ chạy. Báo tin thắng trận"
5
Bộ binh của Đông cung từ thượng đạo đánh úp phá được ba bảo Hà
Nha, Thị Dã và Chủ Sơn, bắt được hơn 2. 000 quân giặc.
6
Sau vua truyền ông về trấn Gia Định. Cuộc đời ông chỉ kéo dài được
đến năm 22 tuổi thì mất, truy đặt thụy là Anh duệ hoàng thái tử (năm Gia
Long thứ 4).
4
Đại Nam Thực Lục, tập 1, quyển 10, trang 417
5
Đại Nam Thực Lục, tập 1, quyển 8, trang 353-354
6
Đại Nam Thực Lục, tập 1, quyển 7, trang 309-310
7
KẾT LUẬN
Có thể thấy cuộc đời hoàng tử Cảnh không dài so với một đời người
nhưng ông cũng đã trải qua nhiều thăng trầm, tham gia trực tiếp vào cuộc
chiến giữa triều Tây Sơn và Nguyễn Ánh, được sắc phong làm Đông cung
hoàng tử chờ ngày lên ngôi kế vị ngai vàng.
Những tưởng Hoàng tử Cảnh qua 4 năm tuổi thơ sống bên Bá-đa-lộc
(đồng thời cũng là một cố vấn trực tiếp mang đến cho Nguyễn Ánh những
thành tựu của phương Tây), cũng như bao đứa trẻ khác đã theo khuynh
hướng tự nhiên mà hướng về Thiên Chúa giáo. Nhưng cuối cùng ông vẫn trở
về đúng nghĩa một ông hoàng Đông phương. Điều này hoàn toàn có thể lý
giải được, theo như lời bà Thái hậu: "Có gì lạ đâu, thằng bé vừa mới về chưa
nhận được chút giáo dục phong tục của ta, chỉ thấy toàn những điều trái lại
thì làm sao nó làm theo lời ta bảo được. Để yên rồi lâu ý tưởng nó sẽ giống
như của chúng ta."
7
Đóng góp của ông vào cuộc chiến của quân Nguyễn Ánh cũng không
phải là nhỏ. Ông cũng được vua cha giao phó rất nhiều trọng trách và giao
cho trấn giữ những vị trí hiểm yếu như thành Diên Khánh, đất Gia Định.
Bên cạnh việc chỉ đạo Đông cung việc quân cơ,vua còn chú ý dạy ông cách
cai quản tướng lĩnh,khuyên dạy cách tu thân thành tài.
Hoàng tử có thể coi là người đầu tiên trong số các hoàng tử triều đại
phong kiến ra nước ngoài,mà ra đi từ rất sớm - năm 4 tuổi. Với thân phận
của mình, tuổi thơ ông sống trong sự dạy bảo, chở che của một vị cha cố
đạo Thiên chúa thay vì vòng tay cha mẹ -hay vua và hoàng hậu. Đây là điều
kiện khách quan để hoàng tử tiếp xúc sớm với phương tây và đi theo Đạo
thay vì các lễ nghi phong kiến. Để rồi chính việc ông theo Đạo đã kéo theo
hàng loạt các sự kiện triều chính, mà tiêu biểu là vụ viên đại thần Tống
Phúc Đạm trước vốn là người sùng Nho mà nay xin theo được theo đạo
Thiên chúa.
8
7
Tạ Chí Đại Trường, Lịch sử nội chiến (1771-1802), trang 338
8
Tạ Chí Đại Trường,Lịch sử nội chiến(1771-1802), trang 345
8
Rõ ràng chúng ta không thể phủ nhận vai trò của các nhà truyền giáo
vào Việt Nam, đặc biệt là thời gian này. Thiên chúa giáo đã có chỗ đứng khá
vững chắc trong dân chúng. Nó xâm nhập vào chính những vị hoàng thân
quốc thích, và từ đó lan rộng ra theo mô hình dây truyền, người này truyền
người kia. Hoàng tử Cảnh chính là một trong những vị hoàng thân quốc
thích ấy,nếu không muốn nói là người chủ đất nước của nhà Nguyễn trong
tương lai.Những đặc tính của đạo đe doạ đến quyền hành tối cao của vua
nên việc để hoàng tử Cảnh tiếp tục theo đạo là điều không tưởng, mà dần
đưa ông về với phong tục tập quán cha ông là điều cấp thiết.Để trả ơn công
lớn của Bá-đa-lộc, vua vẫn để ông ta bên cạnh hoàng tử nhưng cũng dần
tách ông,tách khỏi ảnh hưởng của đạo với đông cung Cảnh.Điều đó lỳ giải vì
sao traong thời gian đầu ông ta luôn cận kề hoàng tử, về sau lại ít xuất hiện
hoặc tìm cớ thoái thác đi theo Đông cung Cảnh hành quân chinh chiến. Có
thể nói cuối cùng thì truyền thống vẫn chiến thắng sự du nhập mới,hoàng tử
vẫn trở về theo Nho gia.
9
PHỤ LỤC
Hoàng tổ ta là Thánh tổ Nhân hoàng đế, ngửa trông công trước, tỏ rõ
phép đời, năm Minh Mệnh thứ 2 mở đặt Sử quán, sai quan soạn sách Liệt
thánh thực lục, chia ra từng kỷ, từ Thái tổ Gia dụ hoàng đế đến Hiếu định
hoàng đế làm Tiền biên, tỏ rõ nguyên ủy của đức nhà ; từ Thế tổ Cao hoàng
đế trung hưng về sau làm Chính biên, để nêu lớn cái nghĩa nhất thống. Cân
nhắc thể lệ, quyết định tự ý trên, thật là cách đúng đắn của nghìn xưa, để
làm phép cho muôn đời noi theo vậy.
Hoàng khảo ta là Hiến tổ Chương hoàng đế, xa noi lòng hiếu, lo rạng
gương xưa, khi mới lên ngôi, rộng tìm sách cũ, đầu mở Sử cục, sai nho thần
vào quán biên chép cho có chuyên trách, các tổng tài đại thần qua lại sửa
chữa cho chóng thành công. Mấy lần đã soạn dạng bản dâng trình, và kính
vâng sửa định càng được tinh tế.
Thiệu Trị năm thứ 4 [1844], sách Liệt thánh thực lục tiền biên hoàn
thành. Sai đem khắc in, đóng thành từng quyển, đã đem chứa vào kho sách
Hoàng sử rồi. Duy bộ Thực lục chính biên về Thế tổ Cao hoàng đế đã hai ba
lần sắc bảo, gia công cứu xét nhuận chính, để đợi in tiếp. Tính từ năm Minh
Mệnh thứ 2 cho đến năm Triệu Trị thứ 7, trải 27 năm, mấy lần soạn chép
mới được thành biên, nay đã hoàn bị. Nhận thấy thánh nhân lưu ý việc soạn
chép sử sách, thực là thận trọng đến thế ! Nay ta đức mỏng gánh chịu nghiệp
to, nghĩ công sách nghiệp đã khó khăn, lo việc thủ thành cũng không dễ.
Kính nghĩ, bộ sử này trải từ hoàng tổ và hoàng khảo ta trước sau xét định,
đối với bao nhiêu mối lớn phép lớn trong sự sáng nghiệp, bao nhiêu công
đức thần thánh rất cao rất dày của Thế tổ Cao hoàng đế ta, thực đã rõ như
trăng sao, vang lừng trời đất, cần phải khắc in để rạng rỡ mãi mãi, ngõ hầu
thỏa chút lòng hiếu thảo của ta. Gần đây bộ Thực lục về Hoàng tổ Thánh tổ
Nhân hoàng đế và Hoàng khảo Hiến tổ Chương hoàng đế biên soạn đã xong,
lần lượt kính đem khắc in, để vào kho sách, dùng để sáng tỏ thêm những văn
mô võ liệt của nước Đại Nam ta tới muôn muôn đời không cùng.
10