Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

phong tục ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.52 KB, 19 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
"Phong" là nền nếp đã lan truyền rộng rãi; "Tục" là thói quen lâu đời. Nội
dung "phong tục" bao hàm theo đó mọi mặt sinh hoạt xã hội.
Nhắc đến "phong tục", ta luôn có thể hình dung ra rất nhiều những nền nếp,
thói quen vô cùng quen thuộc, gần gũi nhưng cũng vô cùng da dạng và phong phú.
Bởi lẽ, phong tục có thứ đã trở thành luật tục, ăn sâu, bén rễ trong nhân dân rất bền
chặt, có sức mạnh hơn cả những đạo luật. Hơn thế nữa, trong truyền thống văn hóa
của dân tộc ta, có nhiều thuần phong mỹ tục cần cho đạo lý làm người, cho kỷ
cương xã hội. Tuy vậy, trên một đất nước với 54 dân tộc, sinh sống trên khắp mọi
miền đất nước thì việc tìm hiểu về phong tục dân tộc dường như là một công việc
vô cùng hấp dẫn và cũng thật khó khăn! Bởi lẽ đó, em chỉ xin bước đầu tìm hiểu
một vài phong tục gần gũi, quen thuộc nhất của dân tộc nói chung, cụ thể là lễ Tết
Nguyên Đán. Trong khả năng của mình, mong muốn tìm hiểu về một vài phong
trong lễ tết Nguyên Đán cổ truyền của dân tộc mà bản thân được chứng kiến, được
tìm hiểu qua sách vở, được trải nghiệm thực tế và nhất là cảm thấy tâm đắc với
những điều mình được học, được tìm hiểu và được chứng kiến!
***
Phong tục không ngừng biến đổi theo trào lưu biến đổi văn hóa xã hội,
nhưng là những biến đổi có quy luật, không dễ dàng được mọi nguời, mọi nhà tuân
theo. Vì phong tục hay thì sẽ được mọi người bắt chước, lưu truyền, còn phong tục
dở thì nhiều người cũng bắt chước nhau bỏ dần. Bản thân trong mỗi phong tục cũng
lại có những thói quen được dần cải biến cho phù hợp với thời đại mà vẫn giữ cái
cốt lõi mang tính bản chất của từng phong tục. Lễ tết cũng không tách mình khỏi
những qui luật phát triển đó. Chính bởi thế, khi nói đến bất kể một lễ tết nào cũng
không thể quên nhắc đến những sự tích được coi như khởi nguồn lý giải cho sự ra
đời của nó, và hơn thế, còn để diễn tả ý nghĩa sâu sắc, giá trị văn hóa tốt đẹp của
dân tộc.
1
***
Nói đến lễ tết Việt Nam gắn liền với một nét đặc trưng của lao động truyền
thống ở Việt Nam. Đó là nghề lúa nước mang tính thời vụ cao. Người nông dân khi


có việc hay theo vụ mùa thì làm lụng tất bật, tối tăm mặt mũi, miếng ăn cái ở cũng
đại khái, cho nên lúc rảnh rỗi, người nông nghiệp có tâm lý chơi bù, ăn bù. Chính
vì lẽ đó mà ở Việt Nam ta, Tết nhất cũng nhiều mà hội hè cũng lắm.
Theo nghiên cứu, chữ "Tết" là biến âm từ chữ "tiết" mà ra ("Cơ sở văn hóa
Việt Nam - Trần Ngọc Thêm). Các ngày lễ tết được phân bố theo thời gian trong
năm, xen vào khoảng trống trong lịch thời vụ. Lễ Tết gồm có hai phần: Cúng tổ tiên
và ăn uống bù cho những lúc lao động vất vả. "Tết" đi liền với "ăn Tết".
Dưới đây xin được đi vào cụ thể một vài phong tục trong lễ Tết Nguyên Đán
truyền thống tiêu biểu.
***
2
NỘI DUNG
Tết Nguyên Đán (hay Tết Cả) là lễ hội cổ truyền lớn nhất, lâu đời nhất, có
phạm vi phổ biến rộng nhất, từ Nam Quan đến Cà Mau và cả vùng hải đảo, tưng
bừng và nhộn nhịp nhất của dân tộc. Từ những thế kỷ xa xưa thời Lý, Trần, Lê, ông
cha ta đã cử hành lễ Tết hàng năm một cách trang trọng.
1. Tết Nguyên Đán có từ bao giờ?
Nguồn gốc Tết Nguyên Đán có từ đời Ngũ Đế, Tam Vương.
Đời Tam Vương, nhà Hạ, chuộng mẫu đen, nên chọn tháng đầu năm, tức
tháng Giêng, nhằm tháng Dần. Nhà Thương, thích màu trắng, lấy tháng Sửu (con
trâu), tháng chạp làm tháng đầu năm. Qua nhà Chu (1050 - 256 trước công
nguyên), ưa sắc đỏ, chọn tháng Tý (con chuột), tháng mười một làm tháng Tết.
Các vua chúa nói trên, theo ngày giờ, lúc mới tạo thiên lập địa: nghĩa là giờ
Tý thì có trời, giờ Sửu thì có đất, giờ Dần sinh loài người mà đặt ra ngày tết khác
nhau. Đến đời Đông Chu, Khổng Phu Tử ra đời, đổi ngày tết vào một tháng nhất
định: tháng Dần. Mãi đến đời Tần (thế kỷ III trước Công nguyên), Tần Thủy Hoàng
lại đổi qua tháng Hợi (con lợn), tức tháng Mười.
Cho đến khi nhà Hán trị vì, Hán Vũ Đế (140 trước Công nguyên) lại đặt
ngày Tết vào tháng Dần (tức tháng Giêng) như đời nhà Hạ, và từ đó về sau, trải qua
bao nhiêu thời đại, không còn nhà vua nào thay đổi về tháng Tết nữa. Đến đời

Đông Phương Sóc, ông cho rằng ngày tạo thiên lập địa có thêm giống Gà, ngày thứ
hai có thêm Chó, ngày thứ ba có Lợn, ngày thứ tư sinh Dê, ngày thứ năm sinh Trâu,
ngày thứ sáu sinh Ngựa, ngày thứ bảy sinh loại Người và ngày thứ tám mới sinh ra
ngũ cốc.
Vì thế, ngày Tết thường được kể từ ngày mồng Một cho đến hết ngày mồng
bảy.
2. Tết Nguyên Đán - nét đẹp truyền thống dân tộc
Tết Nguyên Đán là khâu đầu tiên và quan trọng nhất trong hệ thống lễ hội
Việt Nam, mà phần "lễ" cũng như phần "tết" đều rất phong phú cả nội dung cũng
3
như hình thức, mang một giá trị nhân văn sâu sắc và đậm đà. Việc ông cha ta xác
định Tết Cả đúng vào thời điểm kết thúc một năm cũ, mở đầu một năm mới theo
âm lịch, thời điểm kết thúc mùa màng, mọi người rảnh rỗi nghỉ ngơi vui chơi, thăm
viếng lẫn nhau... và cũng là lúc giao thời của đông tàn xuân tới, là một chu kỳ vận
hành vũ trụ, đã phản ánh tinh thần hòa điệu giữa con người với thiên nhiên (Đất-
Trời-Sinh vật), chữ NGUYÊN có nghĩa là bắt đầu, chữ ĐÁN có nghĩa là buổi ban
mai, là khởi điểm của năm mới. Đồng thời, Tết cũng là dịp để gia đình, họ hàng,
làng xóm, người thân xa gần sum họp, đoàn tụ, thăm hỏi, cầu chúc nhau và tưởng
nhớ tri ơn ông bà, tổ tiên.
Xét ở góc độ mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên, Tết - do tiết (thời
tiết) thuận theo sự vận hành của vũ trụ, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới,
giữa một chu kỳ vận hành của đất trời, vạn vật cỏ cây, biểu hiện ở sự chu chuyển
lần lượt các mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông - có một ý nghĩa đặc biệt đối với một xã hội
mà nền kinh tế vẫn còn dựa vào nông nghiệp làm chính. Theo tín ngưỡng dân gian
bắt nguồn từ quan niệm "Ơn trời mưa nắng phải thì", người nông dân còn cho đây
là dịp để tưởng nhớ đến các vị thần linh có liên quan đến sự được, mất của mùa
màng như thần Đất, thần Mưa, thần Sấm, thần Nước, thần Mặt trời... người nông
dân cũng không quên ơn những loài vật, cây cối đã giúp đỡ, nuôi sống họ, từ hạt
lúa đến trâu bò, gia súc, gia cầm trong những ngày này.
Về ý nghĩa nhân sinh của Tết Nguyên Đán, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng

trước hết đó là Tết của gia đình, Tết của mọi nhà. Người Việt Nam có tục hằng năm
mỗi khi Tết đến, dù làm bất cứ nghề gì, ở bất cứ nơi đâu, kể cả những người xa xứ
cách hàng ngàn kilômét, vẫn mong được trở về sum họp dưới mái ấm gia đình
trong 3 ngày Tết, được khấn vái trước bàn thờ tổ tiên, nhìn lại ngôi nhà thờ, ngôi
mộ, giếng nước, mảnh sân nhà, nơi mà gót chân một thời bé dại đã tung tăng và
được sống lại với bao kỷ niệm đầy ắp yêu thương ở nơi mình cất tiếng chào đời.
"Về quê ăn Tết", đó không phải là một khái niệm thông thường đi hay về, mà là một
cuộc hành hương về nơi cội nguồn, mảnh đất chôn nhau cắt rốn.
4
Theo quan niệm của người Việt Nam, ngày Tết đầu xuân là ngày đoàn tụ,
đoàn viên, mối quan hệ họ hàng làng xóm được mở rộng ra, ràng buộc lẫn nhau
thành đạo lý chung cho cả xã hội : tình gia đình, tình thấy trò, con bệnh với thầy
thuốc, ông mai bà mối đã từng tác thành đôi lứa, bè bạn cố tri, con nợ và chủ nợ...
Tết cũng là dịp "tính sổ" mọi hoạt động của một năm qua, liên hoan vui mừng chào
đón một năm với hy vọng tốt lành cho cá nhân và cho cả cộng đồng. Nhưng rõ nét
nhất là không khí chuẩn bị Tết của từng gia đình. Bước vào bất cứ nhà nào trong
thời điểm này, cũng có thể nhận thấy ngay không khí chuẩn bị Tết nhộn nhịp và
khẩn trương, từ việc mua sắm, may mặc đến việc trang trí nhà cửa, chuẩn bị bánh
trái, cỗ bàn, đón tiếp người thân ở xa về... Đối với các gia đình lớn, họ hàng đông,
có quan hệ xã hội rộng, đông con cháu, dâu rể, thì công việc chuẩn bị càng phức
tạp hơn.
Không biết Tết cổ truyền của dân tộc xuất hiện từ bao giờ, nhưng đã trở nên
thiêng liêng, gắn bó trong tâm hồn, tình cảm của mỗi người dân Việt Nam. Những
tục lệ trò vui trong dịp Tết, chiếc bánh chưng xanh, mâm ngũ quả trên bàn thờ gia
tiên, cành đào, chậu quất khoe sắc trong mỗi gia đình đã trở thành một phần hình
ảnh của quê hương để mỗi người Việt Nam dù sống ở nơi đâu mỗi độ xuân về lại
bồi hồi nhớ về đất nước với bao tình cảm nhớ nhung tha thiết. Làm sao quên được
thuở ấu thơ cùng đám trẻ con ngồi vây quanh nồi bánh chưng sôi sùng sục chờ giờ
vớt bánh! Làm sao có thể quên được những phiên chợ Tết rợp trời hoa!
3. Một số phong tục đi liền với Tết Nguyên Đán

3.1. Tết Táo Quân
Tết Táo quân vào ngày 23 tháng Chạp - người ta coi đây là ngày "vua bếp"
lên chầu Trời để tâu lại việc bếp núc, làm ăn, cư xử của gia đình trong năm qua.
Có nhiều tích lý giải về xuất xứ tập tục này. Trong đó có truyền thuyết như
sau xưa có hai vợ chồng nghèo khổ quá, phải bỏ nhau. Sau đó, người vợ lấy được
chồng giàu. Một hôm, đang đốt vàng mã ngoài sân, thấy một người vào ăn xin,
nhận ra chính là chồng cũ nên người vợ động lòng, đem cơm gạo, tiền bạc ra cho.
5
Người chồng mới biết chuyện, nghi ngờ vợ. Người vợ đâm khó xử, lao vào bếp lửa
tự vẫn. Người chồng cũ nặng tình, cũng nhảy vào lửa chết theo. Người chồng mới
ân hận, đâm đầu vào lửa nốt! Trời thấy ba người đều có nghĩa nên phong cho họ
làm "vua bếp". Từ tích đó mới có tục thờ cúng "Táo quân" và trong dân gian có
câu: "Thế gian một vợ một chồng, không như vua bếp hai ông một ba". Ngày nay cứ
đến phiên chợ 23 tháng Chạp hàng năm, mỗi gia đình thường mua hai mũ ông, một
mũ bà bằng giấy và 3 con cá làm "ngựa" (cá chép hóa rồng) để Táo quân lên chầu
trời. Sau khi cúng trong bếp, mũ được đốt và 3 con cá chép được mang thả ở ao,
hồ, sông...
Theo tập tục, đến ngày 23 tháng chạp là ngày đưa tiễn ông Táo về trời để tâu
việc trần gian, thì không khí Tết bắt đầu rõ nét. Ngày xưa dưới thời phong kiến, từ
triều đình đến quan chức hàng tỉnh, hàng huyện đều nghĩ việc sau lễ "Phất thức"
(tức lễ rửa ấn, rửa triện). Ở cấp triều đình, trong lễ này có sự hiện diện của nhà
vua, các quan đều mặc phẩm phục uy nghiêm. Xem thế đủ biết rằng ngày tết được
coi trọng như thế nào. Sau đó, các quan cất vào tủ, niêm phong cẩn thận. Không
một văn bản nào được kiềm ấn, mọi pháp đình đều đóng cửa. Con nợ không thể bị
sai áp, các tội tiểu hình không bị trừng phạt, tội nặng thì giam chờ đến ngày mồng 7
tháng giêng (lễ khai hạ) mới tiến hành giải quyết. Như vậy, Tết Cả kéo dài từ ngày
23 tháng chạp (một tuần trước giao thừa) đến mồng 7 tháng giêng (một tuần sau
giao thừa).
Tập tục này vốn dĩ được lý giải bởi sự tích mang đậm dấu ấn trọng tình trọng
nghĩa, được lưu truyền đến hiện nay vẫn không hề mất đi giá trị văn hóa. Hơn thế

nữa, câu chuyện Táo quân lên chầu Trời còn nhằm giáo con người ta vào việc rèn
luyện, cố gắng sống tốt, sống thiện trong suốt năm để cuối năm được báo cáo công
trạng, thành tích. Đó cũng là tính nhân văn sâu đậm trong tâm hồn người Việt và là
nét đẹp của truyền thống dân tộc.
3.2. Chuẩn bị đón Tết
6
Tết Nguyên Đán là một dịp lễ tết quan trọng nhất trong năm. Chính bởi ý
nghĩa đó mà người người, nhà nhà đều bắt tay chuẩn bị đón một cái Tết sung túc,
đầm ấm.
Những ngày giáp Tết, nơi nơi đều nhộn nhịp khác thường. Nhà nào cũng tấp
nập sửa soạn. Đàn ông, con trai lớn thu dọn nhà cửa, quét vôi, đánh bóng đồ đồng,
treo tranh, câu đối mới, lau quét bàn thờ tổ tiên. Các bà, các cô lo việc ăn Tết, bày
khay ngũ quả, dâng lên trời đất, tổ tiên, ông bà để tỏ lòng thành kính "ăn quả nhớ
người trồng cây".
Sau khi tiễn đưa ông Táo người ta bắt đầu dọn dẹp nhà cửa, lau chùi đồ cúng
ông bà tổ tiên, treo tranh, câu đối, và cắm hoa ở những nơi trang trọng để chuẩn bị
đón tết. Cùng với tranh (tranh dân gian, câu đối), hoa quả là yếu tố tinh thần cao
quý thanh khiết của người Việt Nam trong những ngày đầu xuân. Miền Bắc có hoa
Ðào, miền Nam có hoa Mai, hoa Ðào, hoa Mai tượng trưng cho phước lộc đầu
xuân của mọi gia đình người Việt Nam. Ngoài cành Ðào, cành Mai, mấy ngày tết
người ta còn "chơi" thêm cây Quất chi chít trái vàng mọng, đặt ở phòng khách như
biểu tượng cho sự sung mãn, may mắn, hạnh phúc...
"Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ.
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh"
Câu thơ kia vang vọng gợi nhớ lại đôi nét của Tết truyền thống xưa.
Tết trên bàn thờ tổ tiên của mọi gia đình, ngoài các thứ bánh trái đều không
thể thiếu mâm ngũ quả. Mâm ngũ quả ở miền Bắc thường gồm có nải chuối xanh,
quả bưởi, quả cam (hoặc quít), hồng, quất. Còn ở miền Nam, mâm ngũ quả là dừa
xiêm, mãng cầu, đu đủ, xoài xanh, nhành sung hoặc một loại trái cây khác. Ngũ quả
là lộc của trời, tượng trưng cho ý niệm khát khao của congười về sự đầy đủ, sung

túc.
Đặc biệt, ở mỗi gia đình đều làm bữa cơm tất niên, là dịp để mọi thành viên
trong gia đình sum vầy, quây quần bên mâm cơm gia đình, vui vẻ tiễn năm cũ qua
đi, đón chào năm mới. Chính bởi ý nghĩa đó mà ai ai cũng cố gắng thu xếp mọi
7

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×