Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Thực trạng và giải pháp phát triển làng nghề gò đúc đồng ở đại bái trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (279.92 KB, 39 trang )

Trường chính trị Nguyễn Văn Cừ Tiểu luận tốt
nghiệp
A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của đất nước Việt
Nam, đất Kinh Bắc xưa, nay là tỉnh Bắc Ninh là một trong những cái nôi của
nền văn minh dân tộc Việt.
Từ xa xưa khi nền kinh tế còn thuần nông, người dân nơi đây đã biết tự
sản xuất và sinh hoạt. Trong quá trình vận động và phát triển của nền kinh tế-
xã hội đã hình thành dần những làng nghề sản xuất công nghiệp – tiểu thủ
công nghiệp phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và đời sống dân cư nông thôn.
Làng nghề của tỉnh Bắc Ninh đã và đang có tác động rất lớn vào đời sống kinh
tế - xã hội của tỉnh, cần được quan tâm tổ chức, khuyến khích giúp đỡ để phát
triển đúng hướng và có hiệu quả. Theo thống kê, Bắc Ninh có 62 làng nghề
đang hoạt động ở các lĩnh vực khác nhau, trong đó có 49 làng nghề sản xuất
công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, với hàng vạn lao động đang sản xuất kinh
doanh tại các làng nghề ở nông thôn. Tổng giá trị sản lượng công nghiệp của
các làng nghề chiếm tỷ trọng không nhỏ trong giá trị sản lượng công nghiệp
trên địa bàn. Hơn nữa trong nông thôn tỉnh Bắc Ninh số lượng người đến độ
tuổi lao động là rất lớn, diện tích đất bình quân trên đầu người thấp và ngày
càng thu hẹp dần do dân số ngày một tăng nhanh. Vì vậy, phát triển sản xuất
tại các làng nghề là một việc làm rất quan trọng.
Làng nghề Đại Bái là một trong những làng nghề truyền thống của tỉnh
Bắc Ninh, nó ra đời các đây hàng nghìn năm, trải qua nhiều thăng trầm nhưng
đến nay vẫn tồn tại và phát triển. Sản phẩm của làng rất nổi tiếng cả trong và
ngoài nước và được nhiều thế hệ biết đến. Tuy nhiên, trong quá trình phát
triển, làng nghề Đại Bái nói riêng và làng nghề nói chung vẫn còn gặp rất
_Nguyễn Công Đoàn Lớp: K31
1
Trường chính trị Nguyễn Văn Cừ Tiểu luận tốt
nghiệp


nhiều khó khăn tồn tại, cần phải có nhiều biện pháp để giải quyết. Để đáp ứng
yêu cầu của thực tiễn đặt ra mà em chọn đề tài: “Thực trạng và giải pháp
phát triển làng nghề gò đúc đồng ở Đại Bái trong giai đoạn hiện nay” làm
Tiểu luận tốt nghiệp chương trình Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính
của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
Mục đích nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu nhằm hệ thống hoá một số vấn đề lý luận và thực tiễn
về làng nghề truyền thống trong giai đoạn hiện nay; Đánh giá đúng thực trạng
phát triển làng nghề gò đúc đồng ở Đại Bái trong những năm gần đây; Đề ra một
số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển làng nghề gò đúc đồng ở Đại Bái hiện
nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá một số vấn đề về lý luận và thực tiễn của nghề truyền
thống.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng làng nghề gò đúc đồng ở Đại Bái từ 2006
đến 2011.
- Đề ra phương hướng và một số giải pháp chủ yếu để phát triển làng
nghề gò đúc đồng ở Đại Bái hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu về sự phát triển làng
nghề gò đúc đồng ở Đại Bái hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tiến hành khảo sát, đánh giá thực trạng làng
nghề gò đúc đồng ở Đại Bái từ 2006 đến 2011 và đề ra phương hướng, giải
pháp cho những năm tới.
4. Phương pháp nghiên cứu.
_Nguyễn Công Đoàn Lớp: K31
2
Trường chính trị Nguyễn Văn Cừ Tiểu luận tốt
nghiệp

Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả có sử dụng một số phương
pháp nghiên cứu, như: Phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử; Kết hợp với việc sử dụng các phương pháp: logic, thống kê,
phân tích, so sánh và tổng hợp…trên cơ sở quán triệt quan điểm Đảng và nhà
nước về phát triển làng nghề.
5. Kết cấu của đề tài.
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn.
Chương 2: Thực trạng phát triển làng nghề gò đúc - đồng Đại Bái hiện
nay.
Chương 3: Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển
làng nghề Đại Bái trong những năm tiếp theo.
_Nguyễn Công Đoàn Lớp: K31
3
Trường chính trị Nguyễn Văn Cừ Tiểu luận tốt
nghiệp
B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Làng nghề và vai trò của nó trong đời sống kinh tế - xã hội đất
nước
Lịch sử đã ghi nhận làng nghề truyền thống đã ra đời cùng với sự phát
triển của quốc gia dân tộc, các làng nghề là sản phẩm của nền văn hoá và văn
minh dân tộc. Những sản phẩm của làng nghề đều gắn liền với văn hoá của
dân tộc, là dấu ấn tự hào của lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước.
Thời kỳ đổi mới đặc biệt là từ những năm 1990 trở lại đây, với những
chính sách khuyến khích thúc đẩy mọi thành phần kinh tế phát triển và việc
xác lập kinh tế hộ gia đình làm đơn vị tự chủ, giao quyền sở hữu đất lâu dài
cho nông dân, giải toả nhiều khâu trong lưu thông phân phối đã làm cho nhiều

làng nghề, ngành nghề được khôi phục và phát triển đồng thời còn mở rộng
thêm nhiều làng nghề mới ở các địa phương. Hiện nay, Bắc Ninh có 62 làng
nghề, tốc độ tăng trưởng của nhiều làng nghề lên tới 20% 1 năm. Nhiều làng
nghề truyền thống phát triển mạnh và nhiều làng nghề mới được ra đời đã thúc
đẩy công nghiệp nông thôn ở nhiều vùng được phát triển.
1.1.1. Quan niệm về làng nghề.
Làng nghề là một hình thức tổ chức đặc thù của nông thôn, trong làng
nghề đại bộ phận người dân (30 – 40%) ngoài nông nghiệp ra họ còn làm nghề
phi nông nghiệp, các nghề đó đã xuất hiện trước hết nhằm tận dụng thời gian
_Nguyễn Công Đoàn Lớp: K31
4
Trng chớnh tr Nguyn Vn C Tiu lun tt
nghip
nụng nhn bng cỏc cụng c sn xut n gin cũn gi l ngh th cụng lao
ng gia nụng nghip v cụng nghip trong xó hi nụng thụn. Trong giai
on trớc cơ chế mở của thị trờng cỏc ngh ngy càng đợc khôi phục và phát
triển và c tỏch ra khi nụng nghip. Mc dự hot ng kinh t c lp nh-
ng bn cht lng ngh vn xut phỏt t nụng nghip nụng thụn. Lng ngh
c hỡnh thnh v phỏt trin trc ht l phc v i sng ti ch nhm to
vic lm, tng thu nhp v ci thin i sng nhõn dõn.
1.1.2. Vai trũ ca lng ngh trong i sng kinh t - xó hi t nc
Lng ngh cú vai trũ to ln trong i sng klinh t - xó hi ca t nc.
iu ú c biu hinu nhng khớa cnh sau:
+ Gúp phn gii quyt vic lm v tng thu nhp cho ngi dõn nụng
thụn. Hin nay trong nụng thụn cú khong 10,88 triu lao ng cú hot ng
ngnh ngh phi nụng nghip (K c lao ng kiờm v chuyờn) chim khong
29,45% lc lng lao ng trong nụng thụn. Trong s lao ộng ngnh ngh cú
ti 89,80% hot ng trong cỏc h trong ú 40,76% thuc nhúm cụng nghip-
TTCN gii quyt ỏng k s lao ng d tha trong nụng thụn. Bỡnh quõn mt
c s ngnh ngh to vic lm cho 27- 30 lao ng, mi h ngnh ngh cho 4-

6 lao ng. Ngoi lao ng thng xuyờn, cỏc h, c s ngnh ngh cũn thu
hỳt lao ng mựa v trong nụng thụn bỡnh quõn 2-5 ngi/ 01 h v 8- 10
ngi/c s.
+ Phỏt trin lng ngh úng gúp cho s phỏt trin ca a phng chuyn
dch c cu kinh t núi chung, c cu lao ng núi riờng nụng thụn theo
hng ngy cng hp lý hn. Bởi vy, để phỏt trin tiu th cụng nghip nhm
tn dng nhng tim nng sn cú ( t ai, lao ng, vn) sn xut ra khi
lng hng húa ln ỏp ng th trng trong nc v xut khu, Cỏc lng
_Nguyn Cụng on Lp: K31
5
Trường chính trị Nguyễn Văn Cừ Tiểu luận tốt
nghiệp
nghề đã đóng góp vai trò quan trọng trong việc phát triển KTXH ở địa phương
đồng thời làm tăng thu nhập cho người dân trong vùng.
+ Phát triển sản xuất nông nghiệp mà đặc biệt là làng nghề có ý nghĩa
thiết thực trong việc từng bước giải quyết tốt mối quan hệ giữa nông nghiệp
nông thôn và nông dân góp phần tăng cường củng cố khối liên minh công
nông.
+ Việc duy trì và phát triển làng nghề còn có ý nghĩa quan trọng đó là
góp phần vào bảo tồn và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Sản phẩm của làng
nghề làm ra không chỉ tiêu dùng trong nước mà một số sản phẩm mỹ nghệ còn
xuất khẩu và được rất nhiều khách nước ngoài đánh giá cao, ngoài viÖc gi¶i
quyÕt vÊn ®Ò vÒ kinh tÕ, quan trọng hơn còn giúp bạn bè thế giíi hiểu rõ
hơn về con người Việt Nam. Tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam hội nhập
với thế giới.
Làng nghề truyền thống thường là những làng nghề xuất hiện lâu đời
trong lịch sử và còn tồn tại đến ngày nay, là những làng nghề đã tồn tại hàng
trăm năm, thậm trí hàng ngàn năm, có liên quan chặt chẽ đến yếu tố truyền
thống và kinh nghiệm dân gian vốn có qua nhiều thế hệ.
Ngày nay khái niệm về làng nghề không chỉ còn bó hẹp ở những làng chỉ

có những người chuyên làm các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp mà nó được
mở rộng ra theo hướng hiểu là những làng nghề có các ngành nghề phi nông
nghiệp chiếm ưu thế về số hộ số lao động và số thu nhập so với nghề nông.
1.2. Sự cần thiết phải khôi phục và phát triển làng nghề.
Từ thực tế trong nước và của tỉnh Bắc Ninh trong những năm vừa qua.
Quán triệt sâu sắc các kỳ Đại hội của Đảng, vận dụng sáng tạo các quan điểm
đổi mới của Đảng và tình hình thực tế của địa phương. Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh
_Nguyễn Công Đoàn Lớp: K31
6
Trường chính trị Nguyễn Văn Cừ Tiểu luận tốt
nghiệp
đã có các chủ trương góp phần khôi phục, duy trì và phát triển làng nghề của
tỉnh thông qua các Nghị quyết.
Nghị quyết số 04/NQ-TU ngày 25/5/1998 của BCH Đảng bộ của tỉnh về
“Phát triển làng nghề tiểu thủ công nghiệp”.
Đặc biệt, là Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ XVII đã
khẳng định “ Phát huy truyền thống tự lực, tự cường, năng động, sáng tạo,
tranh thủ thời cơ, phát huy thuận lợi, khắc phục khó khăn, huy động mọi
nguồn lực tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý nhằm mục đích đẩy mạnh công
cuộc CNH- HĐH để sớm đưa Bắc Ninh trở thành tỉnh công nghiệp vào năm
2015”.
Để đạt được mục tiêu trên, ngành công nghiệp tỉnh Bắc Ninh cần phải có
kế hoạch đổi mới về cơ cấu và tập trung phát triển mạnh các ngành có ưu thế
điều kiện và các sản phẩm có lợi thế của địa phương. Coi đây là khâu đột phá,
tuy nhiên trong quá trình thực hiện tỉnh Bắc Ninh cần phân tích, đánh giá cụ
thể và thận trọng với những cản trở, thách thức có thể ảnh hưởng để đạt được
những mục tiêu phát triển công nghiệp đề ra, sẵn sàng hội nhập kinh tế quốc tế
một cách vững chắc.
Với vị trí và tầm quan trọng như vậy, việc phát triển tiểu thủ công nghiệp
nói chung và phát triển các làng nghề truyền thống nói riêng là rất cần thiết

trong quá trình CNH- HĐH đất nước. Tuy nhiên, cũng phải xem xét tiềm năng
của từng vùng, từng địa phương, từng sản phẩm của làng nghề để có phương
hướng phát triển tốt nhất thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển theo con
đường XHCN mà Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn.
_Nguyễn Công Đoàn Lớp: K31
7
Trường chính trị Nguyễn Văn Cừ Tiểu luận tốt
nghiệp
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ
GÒ ĐÚC - ĐỒNG ĐẠI BÁI HIỆN NAY
2.1. Vài nét khái quát về làng nghề truyền thống gò - đúc đồng Đại
Bái.
2.1.1. Về lịch sử:
Theo gia phả sắc phong ghi chép của làng thì vị tiền tiên sư của làng nghề
truyền thống Đại Bái là cụ Nguyễn Công Truyền sinh năm 989 tại làng Đại
Bái, ông xuất thân trong một gia đình nho học. Năm 995 ông theo gia đình vào
Thanh Hóa để sinh sống, khi lớn lên ông vào quân ngũ. Năm 25 tuổi làm quan
Đô Úy của triều đình Nhà Lý được phong hàm Điện Tiền tướng Quân. Tháng
3 năm 1018 ông về Đại Bái thăm họ hàng quê hương. Do cha bị bệnh mất, ông
xin từ quan đưa mẹ về quê cũ (làng Đại Bái) từ đây ông bắt đầu truyền nghề
gò- đúc đồng cho dân làng, dân làng noi theo ông học nghề và lập nghiệp. Lúc
đầu chỉ vài hộ làm đóng vai trò là nghề phụ nhưng sau đó nghề gò đồng đã trở
thành nghề chính của làng. Khi ông mất ( năm 1069) được phong làm các tên:
Dịch Bảo Trung, Hưng Linh Phù Tôn Thần; Quang úy dịch bảo trung hưng
trung thần; Doãn túc tôn thần, dân làng đã đưa ra các hình thức quy ước rất
chặt chẽ để chứng minh cho lòng thành kính ấy, người dân Đại Bái rất coi
_Nguyễn Công Đoàn Lớp: K31
8
Trường chính trị Nguyễn Văn Cừ Tiểu luận tốt

nghiệp
trọng các ngày lễ tết, ngày hội làng, đặc biệt là ngày giỗ tổ dạy nghề 29-9 âm
lịch hàng năm.
Từ khi dân làng có nghề, kinh tế của làng dần dần phát triển mạnh, đời
sống của người dân dần được cải thiện và là một trung tâm sôi động, trải qua
các thế hệ hậu tiên sư như: Nguyễn Viết Lai, Nguyễn Xuân Nghĩa, Vũ Viết
Thái, Phạm Ngọc Thanh, Nguyễn Công Tâm…làng nghề ngày càng được
hoàn thiện, sản phẩm phong phú đa dạng hơn.
Sách Kinh Bắc phong thổ ký diễn quốc sự viết về làng Đại Bái có câu “
Đại Bái Gia Định chi đả thau nhi, thau bồn, thau ấm, thau điếu, hàm tinh kỳ
cự” nghĩa là làng Đại Bái huyện Gia Định có nghề đập thau, làm đủ các mâm
thau, ấm thau, chậu thau đều rất khéo.
Trong thời chiến cũng như trong thời kỳ xây dựng CNXH người Đại Bái
đã không ngừng từng bước mở rộng quy mô sản xuất và tìm tòi cho ra nhiều
sản phẩm mới như: Hàng dân dụng, hàng quân dụng, đồ mỹ nghệ, các sản
phẩm đặt của các Nhà máy với các hình thức sản xuất ngày càng phong phú
như: Công ty TNHH, HTX, doanh nghiệp tư nhân, hộ sản xuất chuyên. Ngày
nay, do nhu cầu của xã hội tăng cao mà sản phẩm của làng nghề càng hoàn
thiện hơn, đẹp hơn, mẫu mã, chủng loại phong phú, sản phẩm không chỉ nổi
tiếng trong nước mà còn bán ra nước ngoài.
Với ưu thế làng nghề gò đúc đồng truyền thống kết hợp với các di tích
lịch sử, thiên nhiên như: Núi Thiên Thai, đền thờ Trạng nguyên khai khoa Lê
Văn Thịnh thuộc xã Đông Cứu, làng nghề Đại Bái nói riêng, huyện Gia Bình
nói chung trong một tương lai không xa sẽ là một điểm thăm quan du lịch hấp
dẫn cho khách trong và ngoài nước.
2.1.2. Điều kiện địa lý tự nhiên- KTXH.
_Nguyễn Công Đoàn Lớp: K31
9
Trường chính trị Nguyễn Văn Cừ Tiểu luận tốt
nghiệp

2.1.2.1. Vị trí địa lý.
Xã Đại Bái nằm ở phía Tây nam của huyện Gia Bình. Phía Bắc giáp xã
Đông Cứu, phía Nam giáp xã Quảng Phú ( Huyện Lương Tài), phía Tây giáp
xã An Bình (Huyện Thuận Thành), thôn Đại Bái nằm ở trung tâm của xã Đại
Bái.
Làng nghề gò đúc đồng Đại Bái thuộc xã Đại Bái- huyện Gia Bình- tỉnh
Bắc Ninh, tên gọi cổ là làng Bưởi Nồi. Đây là làng nghề truyền thống với các
nghề chính: Đúc đồng, gò đồng, đúc nhôm, gò nhôm, ngoài ra làng Đại Bái
còn có nghề dát mỏng kim loại, gia công cơ khí, kim khí, hoàn chỉnh các chi
tiết, trạm, trổ khắc kim loại…Đại Bái cách thủ đô Hà Nội 35 Km về phía
đông, cách Thành phố Bắc Ninh 25Km, cách huyện lỵ Gia Bình 4Km.
Thôn Đại Bái có tổng diện tích đất tự nhiên là 385,2 ha, trong đó đất
nông nghiệp chiếm 63% ( 242,7ha), đất chuyên dùng là 29,5% ( 113,2ha), đất
khu dân cư là 7,5% ( 29,3ha)
(Theo số liêu thống kê xã Đại Bái tháng 01/2012)
Đại Bái là một vùng chiêm trũng, dân số đông do đó diện tích bình quân
trên đầu người rất thấp so với tổng diện tích tự nhiên. Điều đáng lo ngại của
Bắc Ninh cũng như của Đại Bái là dân số cứ ngày một tăng lên dẫn đến đất
thổ cư cũng ngày một tăng theo lên làm giảm diện tích đất nông nghiệp, diện
tích đất chuyên dùng ( Đất xây dựng cơ bản, giao thông, thủy lợi, đất lịch sử
văn hóa, nghĩa địa…) Qua 03 năm tăng 4,9 ha bằng 7,01% dẫn đến bình quân
đất nông nghiệp trên đầu người giảm dần từ 373,2m
2
(năm 2009) xuống còn
353,6m
2
(năm 2011), đất canh tác bình quân trên hộ cũng giảm rõ rệt từ
1697,2m
2
xuống còn 1462,9m

2
/hộ. Đặc biệt là diện tích đất canh tác bình quân
cũng giảm rõ rệt. Bình quân 01 lao động chỉ có 353,58m
2
diện tích đất canh
_Nguyễn Công Đoàn Lớp: K31
10
Trường chính trị Nguyễn Văn Cừ Tiểu luận tốt
nghiệp
tác, đây là diện tích đất rất thấp so với một số vùng ở Bắc bộ (608 m
2
/lao
động).
2.1.2.2. Đặc điểm kinh tế xã hội.
Dân số lao động là một tiềm lực lớn mạnh cña một quốc gia và cũng là
một nỗi lo trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Theo số liệu thống kê năm
2011, làng Đại Bái có 1652 hộ với 6864 nhân khẩu. Trong đó có 203 hộ làm
thuần nông (chiếm tỷ lệ 12,28%), số hộ ngành nghề kiêm nông nghiệp là 932
hộ (chiếm tỷ lệ 56,42%), Số hộ chuyên TTCN và dịch vụ 517 hộ (chiếm tỷ lệ
31,3%).
Trong 3 năm trở lại đây ( 2009- 2011) cơ cấu ngành nghề trong nông
thôn ở Đại Bái có sự chuyển dịch rõ rệt. Số hộ thuần nông có xu hướng giảm
dần, nhưng số hộ chuyên ngành nghề TTCN cũng tăng lên qua 3 năm, chứng
tỏ rằng xu hướng của Đại Bái là phát triển TTCN. Ngoài hai loại hộ trên thì số
hộ ngành nghề kiêm nông nghiệp tăng nhanh và chiếm ưu thế. Chính là nhờ
chính sách khôi phục và phát triển làng nghề của Đảng và Nhà nước đã tạo cơ
hội và thế mạnh cho người dân vươn lên sản xuất tăng thu nhập, cải thiện đời
sống xã hội người dân.
Tuy vậy dân số của làng nghề có xu hướng tăng dần qua 03 năm với tốc
độ tăng 5,26% thể hiện: Tổng số nhân khẩu tăng từ 6503 người ( năm 2009)

đến 6864 người năm 2011, qua 3 năm tăng 361 người.
Một thế mạnh của Đại Bái được tận dụng tương đối triệt để đó là lao
động. Lao động của Đại Bái được bổ sung tăng dần trong 03 năm. Số người
trong độ tuổi lao động đạt 3325% ( năm 2009) so với tổng số lao động và
b»ng 3569 lao động (Năm 2011), bình quân lao động/hộ là 1,92 lao động đáp
ứng tương đối cho phát triển ngành nghề TTCN của làng, đa dạng các khâu
_Nguyễn Công Đoàn Lớp: K31
11
Trường chính trị Nguyễn Văn Cừ Tiểu luận tốt
nghiệp
trong quá trình sản xuất, lao động trong thu gom nguyên liệu, gia công, sản
xuất, tiêu thụ, maketing…
Ngoài ra qua điều tra thực tế trình độ văn hóa, bậc thợ làng Đại Bái (xem
Biểu 2.1 – tr 12).
Ngoài số lao động làm nghề ở làng hiện nay còn có hàng ngàn người dân
gốc ở Đại Bái đang sản xuất kinh doanh, phát huy truyền thống tại các thành
phố: Hà Nội, Hải Phòng, TP Hồ Chí Minh…Đây là một thế mạnh khẳng định
tay nghề của người dân Đại Bái, với danh tiếng vang xa, tạo ra những sản
phẩm phong phú đáp ứng yêu cầu của xã hội.
Biểu 2.1: Trình độ học vấn và tay nghề của lao động
ở làng nghề Đại Bái.
Tổng
số LĐ
CĐ – ĐH TCCN THPT Thợ lành nghề Ghi
chú
Số
lượng
Tỷ lệ Số
lượng
Tỷ lệ Số

lượng
Tỷ lệ Số
lượng
Tỷ lệ
3569 08 0,22% 13 0.36% 1382 38,72% 432 1,18%
*Kết cấu hạ tầng: Đại Bái có đường quốc lộ 282 và tỉnh lộ 284 chạy qua
đã trải toàn bộ nhựa lên rất thuận lợi cho việc qua lại, giao lưu hàng hoá của
nhân dân. 100% số đường giao thông nông thôn đã được bê tông hóa.
Năm 2002, được sự quan tâm của tỉnh, huyện, Đảng bộ chính quyền và
nhân dân thôn Đại Bái đã thực hiện dự án xây dựng cụm công nghiệp làng
nghề trên diện tích 6,2ha với tổng kinh phí xây dựng hạ tầng gần 10 tỷ đồng,
có 164 hộ đăng ký thuê đất = 38,820 m
2
. Hiện tại có 15 công ty và 80 hộ đã
xây dựng nhà xưởng vµ đi vào sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
- Hệ thống lưới điện ổn định với 11 trạm biến áp hoạt động thường xuyên
đảm bảo cho sản xuất TTGN và sinh hoạt của nhân dân.
_Nguyễn Công Đoàn Lớp: K31
12
Trường chính trị Nguyễn Văn Cừ Tiểu luận tốt
nghiệp
- Làng Đại Bái có 25 công ty và 02 HTX của tư nhân chuyên sản xuất
ngành nghề TTCN cùng trên 887 hộ sản xuất nằm xen kẽ với khu dân cư được
phân bổ ở 05 xóm ( Xóm Sôn, Xóm Tây Giữa, Xóm Ngoài, Xóm Trại, Xóm
Làng Mới).
* Đặc điểm về văn hóa - xã hội.
Trước sự tác động về nhiều mặt do nền kinh tế thị trường nên việc phát
triển văn hóa xã hội cũng có nhiều biến đổi. Đảng ủy- HĐND- UBND đã chú
trọng quan tâm, chỉ đạo ngành chuyên môn, ra Nghị quyết sát thực, cụ thể việc
tuyên truyền vận động quần chúng chấp hành nghiêm mọi chủ trương, đường

lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
Công tác thông tin tuyên truyền phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ chính trị
của địa phương. Việc thực hiện nếp sống văn hóa, quy ước làng văn hóa có
nhiều tiến bộ. Các thủ tục mê tín dị đoan, các tệ nạn xã hội giảm đáng kể. Một
số thôn nhiều năm liền đạt danh hiệu làng văn hóa cấp tỉnh, huyện ( Thôn
Ngọc Xuyên, thôn Đoan Bái), năm 2010 xóm Làng Mới thuộc thôn Đại Bái
được công nhận là khu dân cư tiên tiến.
Số gia đình văn hóa ở làng nghề Đại Bái ngày càng được tăng lên. Nếu
như năm 2009 có 1006 hộ đạt gia đình văn hóa ( Bằng 64,12%) thì năm 2011
là 1162 hộ ( Bằng 74,05%)
2.1.2.3. Hệ thống chính trị xã hội.
- Đảng bộ xã Đại Bái có 159 đảng viên, được tổ chức thành 07 chi bộ,
trong đó có 03 chi bộ nhà trường và 03 chi bộ nông thôn, 1 chi bé c¬ quan.
BCH Đảng ủy xã có 09 đ/c, Ban thường vụ Đảng ủy có 03 đ/c.
- Có 05 tổ chức đoàn thể là: MTTQ, hội CCB, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh
niên và hội nông dân.
_Nguyễn Công Đoàn Lớp: K31
13
Trường chính trị Nguyễn Văn Cừ Tiểu luận tốt
nghiệp
- Ngoài ra còn có các tổ chức xã hội khác như: Hội ngời cao tuổi, hội
quân nhân, hội khuyến học, hội đồng niên, Ban quản lý di tích, C©u l¹c bé
®àn ca tµi tö.
Chi bộ thôn Đại Bái có 32 đảng viên, trong đó có đa phần đảng viên là
các cán bộ hưu, một phần là các đảng viên trẻ được phát triển trong quân ngũ
và trưởng thành trong các phong trào địa phương. Thôn Đại Bái có 01 HTX
nông nghiệp làm công tác quản lý, hướng dẫn bà con nông dân về kỹ thuật và
cung cấp dịch vụ cho sản xuất.
*Những thuận lợi, khó khăn tác động vào quá trình khôi phục, phát
triển làng nghề truyền thống gò đúc đồng Đại Bái.

- Thuận lợi.
Làng nghề Đại Bái là một trong những làng nghề truyền thống đang trên
đà phát triển, các hình thức tổ chức sản xuất đang được hình thành đa dạng.
Đời sống vật chất tinh thần của nhân dân ổn định, cơ sở vật chất kỹ thuật về
cơ bản tương đối đầy đủ, tiềm năng phát triển là rất lớn. Do đó tạo điều kiện
cho việc phát triển làng nghề, phát triển kinh tế ở mức cao.
+ Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn đang diễn ra nhanh, cơ
cấu nông nghiệp có xu hướng giảm, công nghiệp- TTCN và dịch vụ đang tăng
lên góp phần CNH- HĐH nông nghiệp nông thôn.
+ Vị trí địa lý: Đại Bái nằm trong vùng tam giác trọng điểm kinh tế: Hà
Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, giáp quốc lộ 282 lên Đại Bái rất sôi động trong
việc giao lưu, trao đổi hàng hóa, từ đó sản xuất làng nghề ở đây có điều kiện
phát triển mạnh.
+ Trình độ khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển trên cả thế giới và
trong nước từ đó có ảnh hưởng, tác động tích cực trực tiếp đến làng nghề. Do
_Nguyễn Công Đoàn Lớp: K31
14
Trường chính trị Nguyễn Văn Cừ Tiểu luận tốt
nghiệp
nằm ở vúng tam giác trọng điểm Đại Bái rễ có điều kiện tiếp cận khoa học,
tiếp thu nhanh các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới.
Với những thuận lợi trên đã tạo cho làng nghề Đại Bái có điều kiện phát
triển kinh tế tổng hợp, phát triển bền vững.
- Khó khăn:
Mặc dù trong sản xuất kinh doanh ở làng nghề Đại Bái có thể xem là
thuận lợi trong quá trình phát triển. Nhưng trong quá trình thuận lợi đó, các
đơn vị sản xuất cũng như các hộ gia đình gặp phải không ít khó khăn đó là:
+Về vốn: Việc mở rộng sản xuất kinh doanh trong làng nghề trước mắt
đòi hỏi phải có một lượng vốn lớn, trong khi đó làng nghề đi lên từ nông
nghiệp nếu như muốn vay vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh thì việc vay

vốn đối với họ đặc biệt khó khăn. Trong quá trình vay vốn có thể lãi xuất rất
cao, đôi khi tới 20 - 25% ( Đối với vay vốn ngoài) vì vậy khó có thể cung cấp
đủ vốn để mở rộng sản xuất.
- Về thị trường tiêu thụ: Tuy một số sản phẩm đã bắt đầu thâm nhập
được vào thị trường nhưng nhìn chung chưa ổn định, cho đến nay Đại Bái vẫn
chưa có biện pháp tích cực như tiếp thị, khai thác và mở rộng thị trường một
các hợp lý đối với các hộ gia đình vẫn bị tư thương ép giá, từ đó dẫn đến hạn
chế một phần nào quá trình phát triển sản xuất trong làng nghề,
- Về nguồn nguyên liệu: Để cung cấp nguyên, nhiên vật liệu cho sản
xuất TTCN ở làng Đại Bái nhiều khi rất khó khăn vì không có nguyên liệu tại
chỗ, giá nguyên liệu không ổn định, nhiều khi tăng giảm trong từng ngày lên
rất khó cho việc ổn định sản xuất. Việc áp dụng công nghệ mới vào sản xuất
diễn ra chưa đồng bộ, thiếu sáng tạo, sản phẩm làm ra còn hạn chế về mẫu mã,
thiếu sự tinh sảo dẫn đến việc tiêu thụ chậm.
_Nguyễn Công Đoàn Lớp: K31
15
Trường chính trị Nguyễn Văn Cừ Tiểu luận tốt
nghiệp
- Về trình độ học vấn và chuyên môn của người lao động: Qua điều tra
nhìn chung trình độ văn hóa của người lao động trong làng nghề là rất thấp.
Phần lớn là trình độ cấp 1, cấp 2, trình độ chuyên môn kỹ thuật không có, đặc
biệt là trình độ kỹ sư, tốt nghiệp đại học là rất ít, từ đó đã hạn chế khả năng áp
dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ mới vào sản xuất.
- Ô nhiễm môi trường là một vấn đề nổi cộm hiện nay ở làng nghề Đại
Bái, tình trạng ô nhiễm nguồn nước, nguồn không khí ngày càng nặng. Trong
khi đó quy trình sử lý rác thải chưa có, ý thức bảo vệ của người dân còn thấp
kém, từ đó ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân.
Những khó khăn trên cần sớm khắc phục nếu không sẽ ảnh hưởng lớn
đến sự phát triển kinh tế của làng nghề Đại Bái.
2.2. Thực trạng phát triển làng nghề truyền thống gò - đúc đồng Đại

Bái hiện nay.
Từ những năm 90 của thế kỷ XX trở lại đây, hầu hết các làng nghề trong
tỉnh Bắc Ninh đã trở lại hoạt động và phát triển mạnh, trong đó có làng nghề Đại
Bái. Do mới phát triển, mặc dù đạt được nhiều thành tựu trong quá trình sản xuất,
nhưng làng nghề Đại Bái vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn cần được giải quyết.
2.2.1. Quy mô và hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh của làng
nghề.
Quy mô sản xuất của làng nghề có tác động rất lớn đối với sự phát triển
của làng nghề. Hiện nay ở hầu hết các làng nghề trong nước nói chung và làng
nghề ở tỉnh Bắc Ninh nói riêng, sự phân bố của làng nghề đều nhỏ lẻ manh
mún, phân bố xen kẽ dân cư, quy mô diện tích sử dụng cho ngành nghề còn
thấp. Làng nghề Đại Bái cũng ở trong tình trạng trên.
_Nguyễn Công Đoàn Lớp: K31
16
Trường chính trị Nguyễn Văn Cừ Tiểu luận tốt
nghiệp
Quy mô đất dùng cho sản xuất ngành nghề đã tăng qua các năm, nhưng
diện tích được sử dụng cho sản xuất ngành nghề vẫn rất nhỏ bé, hơn nữa diện
tích này chủ yếu lại là diện tích đất ở của dân cư.
Về giá trị sản xuất của làng nghề. Năm 2009 tổng giá trị sản xuất công
nghiệp tiểu thủ công nghiệp của làng nghề là 26,38 tỷ đồng (chiếm 63,95 tổng
giá trị sản xuất của làng) thì đến năm 2011, giá trị này tương ứng là 63,2 tỷ
đồng chiếm 71,25%. Tốc độ tăng năm 2011 so với năm 2009 đạt trên 200%.
Đây là một kết qủa khá tốt cho sự phát triển mở rộng sản xuất làng nghề.
Giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của làng nghề năm
2011 đã tăng 55%, giá trị sản xuất của làng do đó đã làm tăng giá trị này hơn
nữa thì diện tích dùng cho sản xuất nông nghiệp cần chuyển bớt sang diện tích
dùng làm ngành nghề, nhằm tận dụng triệt để mọi tiềm năng sẵn có, tạo điều
kiện cho làng nghề ngày càng phát triển.
2.2.2. Loại hình sản xuất trong làng nghề.

Trước thời kỳ đổi mới, hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh của làng
nghề gồm các xí nghiệp quốc doanh, hợp tác xã, tổ sản xuất Sau thời kỳ đổi
mới hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh của làng chỉ bao gồm hai loại hình
sản xuất đó là hợp tác xã và hộ sản xuất kinh doanh cá thể (Biểu 2.2: Các loại
hình tổ chức sản xuất của làng nghề - tr 16).
Đối với loại hình hợp tác xã. ở Đại Bái gồm 3 HTX ngành nghề đó là.
- Hợp tác xã Hợp Thành – chuyên đúc và gia công các chi tiết khoá.
Hiện có 45 lao động thường xuyên làm việc, mức thu nhập bình quân đạt từ
1.700- 1.900 ngàn đồng/1 tháng. Doanh thu của hợp tác xã Hợp Thành năm
2011 đạt 12,5 tỷ đồng bằng 128% so với năm 2009. Đây là hợp tác xã có thế
mạnh phát triển nhất trong 3 HTX, mức chi trả lương cho người lao động cũng
như doanh thu của hợp tác xã cũng cao hơn, điều kiện kỹ thuật cũng tốt hơn.
_Nguyễn Công Đoàn Lớp: K31
17
Trường chính trị Nguyễn Văn Cừ Tiểu luận tốt
nghiệp
- Hợp tác xã Quyết Thắng – chuyên gò, đúc, cán đồng, nhôm các loại,
thu hút 25 lao động thường xuyên làm việc. Thu nhập bình quân đạt từ 600-
800 ngàn đồng/1 người/1 tháng. Doanh thu hợp tác xã Quyết Thắng năm 2011
đạt trên 7,8 tỷ bằng 160% so với năm 2009. HTX này đang trên đà phát triển.
Tuy doanh thu nhỏ hơn HTX Hợp Thành nhưng tốc độ tăng doanh thu của
HTX này lớn hơn.
- Hợp tác xã Tân Tiến chuyên gò, đúc, cán đồng, nhôm, thu hút 30 lao
động thường xuyên làm việc. Thu nhập bình quân đạt từ 600- 900 ngàn
đồng/1 người/1 tháng. Doanh thu của hợp tác xã năm 2011 đạt trên 6,2 tỷ
đồng bằng 160% so với năm 2009. So với 2 HTX trên, thì Tân Tiến là HTX
làm ăn kém hơn cả, quy mô sản xuất của HTX còn nhỏ bé, doanh thu còn
chưa cao.
Năm 2011, trong làng có 1.240 hộ. Trong đó, có 223 hộ thuần nông, 620
hộ sản xuất công nghiệp, TCNT và dịch vụ với thu nhập bình quân trong 1

năm là 22,4 triệu đồng/người trong hộ, 340 hộ sản xuất nông nghiệp, kiêm tiểu
thủ công nghiệp với thu nhập bình quân là 8,04 triệu đồng/người trong hộ và
57 hộ khác.
Biểu 2.2: Các loại hình tổ chức sản xuất của làng nghề
Chỉ tiêu
2009 2011
Số lượng
(Hộ, HTX)
Tỷ lệ (%)
Số lượng
(Hộ, HTX)
Tỷ lệ (%)
1.Tổng số hộ
trong làng
- Hộ thuần nông
- Hộ chuyên
- Hộ kiêm
- Hộ khác
1153
234
569
288
62
100
20,29
49,3
24,9
5,37
1240
223

620
340
57
100
17,98
50
27,5
4,59
_Nguyễn Công Đoàn Lớp: K31
18
Trường chính trị Nguyễn Văn Cừ Tiểu luận tốt
nghiệp
2. Hợp tác xã 3 3
Nguồn UBND xã Đại Bái
2.2.3. Thực trạng lao động trong làng nghề.
Lao động trong các làng nghề truyền thống chủ yếu là lao động thủ công,
lao động sáng tạo. Các sản phẩm trong các làng nghề là sức sáng tạo kỳ diệu
của những nghệ nhân và thợ lành nghề. Không giống như những sản phẩm
công nghiệp được sản xuất đồng loạt theo dây truyền sản xuất, mỗi sản phẩm
trong làng nghề được coi như một tác phẩm nghệ thuật, chứa đựng phong cách
riêng, nét sáng tạo riêng, đầu óc mỹ thuật riêng của những người sáng tạo ra
chúng. Các sản phẩm thủ công mỹ nghệ vừa đảm bảo có giá trị sử dụng đồng
thời cũng mang tính nghệ thuật cao, do đó chúng phải được kết hợp giữa công
nghệ truyền thống với kỹ năng tinh xảo.
Do đặc điểm của làng nghề sản xuất truyền thống là chủ yếu dùng lao
động thủ công, nên loại hình sản xuất này thu hút khá nhiều lao động và hao
phí lao động sống chiếm tỷ trọng khá lớn trong giá thành sản phẩm theo kết
quả điều tra ở làng nghề Đại Bái cho thấy bình quân lao động chiếm khoảng
23-25% tổng giá trị sản phẩm. Hình thức hoạt động chủ yếu trong làng nghề là
hộ gia đình (chiếm hơn 95%), và các hợp tác xã có qui mô nhỏ.

Mức tiền thu nhập tính bình quân theo tháng của một người lao động
trong các hợp tác xã là 2.625.000 đồng, trong các hộ chuyên là 3.186.000
đồng và đối với hộ kiêm là 1.900.000 đồng.
Thời gian làm việc của người lao động trong làng nghề từ 8-10h/1ngày,
cũng có khi phải làm việc từ 10-12h/1ngày.
Làng đã sử dụng toàn bộ 2600 lao động trong làng. Ngoài ra còn thu hút
thêm hàng nghìn lao động từ các vùng lân cận, các lao động này chủ yếu là lao
động phổ thông, lao động lành nghề chiếm tỷ lệ rất nhỏ, cán bộ quản lý, kỹ
thuật có trình độ cao đẳng, đại học hầu như chưa có.
_Nguyễn Công Đoàn Lớp: K31
19
Trường chính trị Nguyễn Văn Cừ Tiểu luận tốt
nghiệp
Việc dạy nghề trong các làng nghề chủ yếu theo phương thức truyền nghề
trong gia đình từ đời nọ sang đời kia. Việc truyền nghề chỉ lưu truyền trong
làng, cách truyền nghề theo phương thức vừa học vừa làm.
2.2.4. Tình hình vốn sản xuất trong làng nghề.
Vốn trong làng nghề bao gồm: vốn tự có, vốn chiếm dụng và vốn vay.
Vốn tự có chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong sự phát triển của làng
nghề. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, khi cơ chế vốn đang gặp nhiều bất
cập, nguồn vốn này thường rất nhỏ bé so với yêu cầu đầu tư máy móc, đổi mới
công nghệ. Do vậy, không thể phát triển sản xuất mà chỉ dựa vào nguồn vốn
này được.
Vốn chiếm dụng thường được coi là nguồn vốn tự có, là tiền hoặc vật
đúng ra phải thanh toán trong sản xuất như trả tiền mua nguyên vật liệu, trả
công cho lao động …nhưng chưa thanh toán.
Vốn vay là lượng vốn cần thiết nhằm ổn định và phát triển sản xuất kinh
doanh, hiện nay nguồn vốn này đang có nhu cầu ngày càng tăng. Muốn đầu tư
phát triển sản xuất thì phải có vốn, nguồn vốn tự có trong các cơ sở sản xuất
của làng nghề thường rất nhỏ bé, không đáng kể so với nhu cầu đầu tư phát

triển sản xuất, đặc biệt cho đổi mới công nghệ hay đầu tư mua sắm máy móc,
mở rộng quy mô sản xuất.
2.2.5. Công nghệ kỹ thuật trong làng nghề.
Trong những năm gần đây, do tính chất sản xuất của sản phẩm phải dựa
vào máy móc thiết bị, cho nên nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh trong làng
nghề đã áp dụng đầu tư mua sắm máy móc thiết bị vào sản xuất bao gồm một
số máy móc như máy tiện, máy khoan, máy dập để sản xuất thêm một số loại
sản phẩm mới như van xe đạp, van nước, các loại ốc vít, cầu dao điện nhằm
đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của thị trường.
_Nguyễn Công Đoàn Lớp: K31
20
Trường chính trị Nguyễn Văn Cừ Tiểu luận tốt
nghiệp
Do nguồn vốn hạn hẹp, nên số hộ sử dụng công nghệ mới rất ít. Năm
2009 số hộ sử dụng công nghệ mới chỉ đạt 4,5% còn lại là sử dụng công nghệ
truyền thống và máy móc phục vụ sản xuất. Riêng HTX thì năm 2009 số HTX
sử dụng công nghệ truyền thống đã không còn nữa mà 100% số HTX đã sử
dụng công nghệ mới và máy móc vào sản xuất. Đến 2011, đã có một số hộ
làng nghề chủ động đưa hình ảnh của cơ sở sản xuất lên trang điện tử, hệ
thống mạng Internet và giao dịch qua hình thức thương mại điện tử.
2.2.6. Tình hình cung cấp nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm của làng
nghề.
2.2.6. 1. Tình hình cung cấp nguyên vật liệu
Nguyên vật liệu được huy động vào sản xuất của làng nghề chủ yếu là
các nguyên liệu như đồng, nhôm, sắt được các nhà thu gom mua tại các vùng
nông thôn và đem bán. Do vậy nguyên vật liệu dùng cho sản xuất kinh doanh
của làng nghề thường là nguyên vật liệu tại chỗ, do vậy việc sản xuất kinh
doanh của làng nghề thường không được diễn ra liên tục mà hoạt động cầm
chừng vì thiếu nguyên vật liệu. Ngày nay khi nguồn nguyên vật liệu tại chỗ
cạn kiệt, giao thông phát triển thì hầu hết các loại nguyên vật liệu đã vượt ra

khỏi phạm vi của làng xã mà vươn tới các huyện, tỉnh khác thậm chí là cả
nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Do nhu cầu đổi mới thiết bị, công nghệ cũng
như áp dụng máy móc thiết bị công nghệ hiện đại vào thay thế công nghệ thủ
công nên nguồn cung cấp thiết bị công nghệ không chỉ có ở trong các làng xã
mà còn rộng đến các tỉnh huyện khác và cả ở nước ngoài. Cho nên khả năng
cung cấp nguyên vật liệu trở nên dễ dàng hơn, nguồn cung cấp phong phú hơn
và chất lượng đảm bảo hơn, công tác vận chuyển cũng trở nên rễ dàng hơn.
2.2.6. 2. Tình hình tiêu thụ sản phẩm của làng nghề.
_Nguyễn Công Đoàn Lớp: K31
21
Trường chính trị Nguyễn Văn Cừ Tiểu luận tốt
nghiệp
Thị trường tiêu thụ sản phẩm của làng nghề chủ yếu là thị trường trong
nước. Do sản xuất trong làng nghề chủ yếu do các hộ nắm giữ do vậy việc bán
sản phẩm đầu ra vẫn mang tính chất nhỏ lẻ, manh mún, sản phẩm tiêu thụ mang
tính chất thất thường, do vậy mà dẫn đến tình trạng dễ bị ép giá
Qua bảng về tình hình tiêu thụ sản phẩm ta thấy. Tổng giá trị sản xuất
tiểu thủ công nghiệp của làng nghề tăng lên rất nhiều, cụ thể năm 2009 tổng
giá trị sản xuất tiểu thủ công nghiệp của làng nghề đạt 41.250 triệu đồng thì
đến năm 2019 đạt là 88.700 triệu đồng. Cùng với việc tăng lên của giá trị sản
xuất tiểu thủ công nghiệp thì giá trị tiêu thụ sản phẩm cũng tăng lên, giá trị
tiêu thụ sản phẩm của năm 2005 đạt 22,21 tỷ đồng (bằng 84,2% tổng giá trị
sản xuất) thì đến năm 2011 đạt 56,1 tỷ đồng (bằng 88,76%). Năm 2009 giá trị
xuất khẩu chưa có thì đến năm 2011 giá trị xuất khẩu đạt 3,2 tỷ đồng chiếm
trên 5% tổng giá trị sản xuất.
Biểu 2.3: Tình hình tiêu thụ sản phẩm
Chỉ tiêu
2009 2011
Giá trị
(tỷ đồng)

Tỷ lệ
(%)
Giá trị
(tỷ đồng)
Tỷ lệ
(%)
Tổng giá trị sản
xuất TTCN
35,99 100 63,2 100
Tổng giá trị tiêu
thụ sản phẩm
31,2 86,7 56,1 88,76
Tiêu thụ trong
nước
31,2 86,7 52,9 83,7
Xuất khẩu 0 0 3,2 5,06
Nguồn UBND xã Đại Bái
Thị trường xuất khẩu sản phẩm của làng nghề hiện nay mới bắt đầu
nhưng cũng đạt được tỷ lệ đáng kể, xu hướng trong những năm tới làng nghề
phấn đấu đạt tỷ lệ xuất khẩu lên đến 15% tổng giá trị sản xuất. Đây là một thị
_Nguyễn Công Đoàn Lớp: K31
22
Trường chính trị Nguyễn Văn Cừ Tiểu luận tốt
nghiệp
trường tiềm năng rất lớn của làng nghề do vậy mà làng nghề cần phải mở rộng
thị trường này hơn nữa nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển trong tương lai.
2.2.7. Tình hình môi trường trong làng nghề
Hiện nay ô nhiễm môi trường có nguy cơ ảnh hưởng trực tiếp đến sức
khoẻ dân cư trong làng nghề. Vì hiện nay ở Đại Bái, toàn bộ số cơ sở sản xuất
nằm xen kẽ trong khu dân cư, các xưởng sản xuất nằm tại các hộ gia đình. Các

chất thải qua quá trình sản xuất làm ô nhiễm nguồn nước, đất, không khí, tiếng
ồn … Sản xuất trong làng nghề có cường độ cao, làm việc trong môi trường
độc hại của các khí thải và hoá chất độc haị nên dễ mắc các bệnh nghề nghiệp
như: Bệnh lao lực, lao phổi, ù tai, giảm trí nhớ. Đường giao thông nhanh
chóng bị xuống cấp do lực lượng xe vận chuyển hàng hoá quá nhiều…
2.3. Đánh giá chung về làng nghề gò – đúc đồng Đại Bái.
2.3.1. Một số thành quả chủ yếu.
Từ phân tích thực trạng của làng nghề Đại Bái ta thấy, sự phục hồi và
phát triển của làng nghề trong những năm qua có ý nghĩa rất to lớn đối với
việc phát triển kinh tế xã hội nông thôn.
Trước hết, làng nghề đã góp phần không nhỏ vào sự gia tăng giá trị sản
lượng của địa phương. Theo số liệu thống kê năm 2005 tổng giá trị sản lượng
TTCN của làng nghề đạt khoảng gần 30 tỷ đồng, năm 2010 đạt trên 63 tỷ
đồng.Trong năm 2010 chỉ riêng 3 hợp tác xã của làng nghề Đại Bái đã nộp
vào ngân sách nhà nước trên 350 triệu đồng chiếm trên 5% trong tổng nộp
thuế của các làng nghề tại tỉnh Bắc Ninh.
Thứ hai là, sự phát triển của làng nghề đã và đang tạo thêm nhiều việc
làm, góp phần tăng thu nhập cho người nông dân ở nông thôn. Theo số liệu
thống kê năm 2010 thu nhập của các hộ làm ngành nghề cao hơn rất nhiều so
với các hộ thuần nông, cụ thể là: Thu nhập bình quân của hộ thuần nông là
_Nguyễn Công Đoàn Lớp: K31
23
Trường chính trị Nguyễn Văn Cừ Tiểu luận tốt
nghiệp
gần 26 triệu đồng/ 1 hộ/ 1 năm, của hộ sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp chuyên trên 105 triệu đồng / 1 hộ / 1 năm (gấp từ 4- 5 lần so với hộ
thuần nông), hộ kiêm khoảng 19 triệu đồng/ 1 hộ / 1 năm.
Ba là, sự phục hồi và phát triển làng nghề trong những năm qua đã thực
sự nâng cao đời sống của người dân địa phương. Nhờ có thu nhập cao nên
việc đầu tư xây dựng được nhiều cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng phục vụ sản

xuất và đời sống. Các công trình chung của xã như điện, đường, trường, trạm,
nhà truyền thống, trụ sở kiên cố cao tầng… đã được hoàn thành từ nhiều năm
nay. Đời sống vật chất và tinh thần của người nông dân luôn được cải thiện,
góp phần vào xây dựng nông thôn trong làng theo hướng đô thị hoá văn minh
hiện đại.
Bốn là, sự phát triển làng nghề trong những năm qua đã thực sự góp phần
vào quá trình thúc đẩy cơ cấu kinh tế nông thôn theo xu hướng tăng cơ cấu
của ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm cơ cấu của ngành nông nghiệp.
Năm là, công cuộc đổi mới kinh tế đó đã tạo điều kiện cho các làng nghề
phát triển. Nhờ có sự đổi mới kinh tế của đất nước làm cho làng nghề ngày
càng được mở rộng, giao lưu buôn bán với thị trường bên ngoài, mở rộng
quan hệ làm ăn… tạo ra nhiều động lực để phát triển các làng nghề.
2.3.2. Những tồn tại, yếu kém và nguyên nhân trong sự phát triển làng
nghề.
Mặc dù trong những năm qua làng nghề đã có sự phục hồi khá rõ, có
những đóng góp nhất định cho sự phát triển kinh tế của tỉnh, nhưng trong quá
trình phát triển đó vẫn còn có nhiều khó khăn hạn chế cần được khắc phục.
Những khó khăn tồn tại đó là :
Trước hết, thị trường tiêu thụ sản phẩm còn gặp nhiều khó khăn. Bởi vì
trên địa bàn nông thôn với gần 80% dân số- đó là thị trường tiêu thụ sản phẩm
_Nguyễn Công Đoàn Lớp: K31
24
Trường chính trị Nguyễn Văn Cừ Tiểu luận tốt
nghiệp
hàng hoá của làng nghề là rất lớn. Song trong thực tế nó đang bị bó hẹp bởi
sức mua có hạn do khả năng thanh toán của nhân dân hết sức thấp, mức thu
nhập quá thấp của các gia đình nhân dân chưa cho phép mở rộng mạnh mẽ
nhu cầu về hàng công nghiệp và dịch vụ.
Thứ hai, do kinh tế của làng nghề có quy mô nhỏ, vốn đầu tư ít nên việc
cải biến công nghệ và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật là rất hạn chế. Công

nghệ thủ công truyền thống với kỹ năng tinh xảo, tạo ra sản phẩm rất tinh tế,
nhưng sản xuất đơn chiếc, bởi vậy năng suất lao động thấp. Trong khi đó sự
phát triển của khoa học kỹ thuật đã tạo ra những sản phẩm đồng loạt năng suất
cao, giá thành thấp nên đã áp đảo các hàng thủ công. Trong khi các nghệ nhân
và thợ thủ công lành nghề đòi hỏi phải đào tạo và rèn luyện tay nghề rất công
phu và lâu dài, thì thu nhập của họ thấp hơn nhiều so với những người thợ,
những người lao động làm ngành nghề khác trong cơ chế thị trường. Do vậy
mà sự tâm huyết với nghề của các nghệ nhân thợ thủ công không còn cao nữa
làm cho yếu tố truyền thống bị mai một dần, lớp nghệ nhân lão thành mất đi ,
phong cách sáng tạo cùng với các bí quyết và kỹ xảo tinh vi của nghề không
được truyền lại…
Thứ ba, vốn để phát triển sản xuất cũng là vấn đề quan trọng được đặt ra
để phát triển làng nghề. Quy mô trang bị vốn của làng nghề còn ở mức thấp,
vốn bình quân của một hộ là 25 triệu đồng, một hợp tác xã là 6,5 tỉ đồng.
Trong đó chủ yếu là nguồn vốn tự có, vốn vay ngân hàng và tư nhân rất ít vì
lãi suất còn cao. Việc hỗ trợ kinh phí của tỉnh còn quá ít, vay ưu đãi của Nhà
nước còn rất hạn chế…Do vậy nguồn vốn của làng nghề còn rất hạn hẹp.
Thứ tư, sự ô nhiễm môi trường trong làng nghề là một vấn đề cần quan
tâm đặc biệt. Do sự phát triển thiếu qui hoạch, cơ sở vật chất yếu kém, trình
độ công nghệ còn lạc hậu, ý thức bảo vệ môi trường sinh thái kém. Hơn nữa
_Nguyễn Công Đoàn Lớp: K31
25

×