Tải bản đầy đủ (.docx) (58 trang)

Tình hình nông nghiệp hóa- đô thị hóa nông thôn Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (585.43 KB, 58 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP.HCM
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
BỘ MÔN:
KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TÊN TIỂU LUẬN:
Nhóm: NPTP
Lớp HP: 210700601 Lớp: ĐHQT5
Giảng viên hướng dẫn: Th.s Nguyễn Thị Hương
Tp. HCM, tháng 06, năm 2011
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP.HCM
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
oOo
BỘ MÔN:
KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TÊN TIỂU LUẬN:
TÌNH HÌNH
NÔNG NGHIỆP HOÁ - ĐÔ THỊ HOÁ
NÔNG THÔN VIỆT NAM HIỆN NAY
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM NPTP:
STT Họ và tên
MSSV
1
Phạm Ngọc Minh Đan 09169641
2
Nguyễn Thị Bích Đào 09079401
3
Đỗ Mỹ Linh 09074151
4
Hà Huyền Nghị 09203291
5
Bùi Thị Minh Nguyệt (nhóm trưởng) 09074791


6
Lê Thị Cẩm Nhung 09206381
7
Phan Như Phi 09090521
8
Mao Mỹ Phụng 09089681
9
Đặng Thị Cẩm Thúy 09087731
10
Phạm Quang Trung 09166811
MỤC LỤC
NÔNG NGHIỆP HOÁ– ĐÔ THỊ HOÁ NÔNG THÔN VIỆT NAM LHP: 210700601
NỘI DUNG
PHẦN MỘT: TẦM QUAN TRỌNG CỦA ĐỀ TÀI
1. Lý do chọn đề tài
Tại các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng, khi mà vẫn còn
một bộ phận lớn dân cư sống tại nông thôn và có thu nhập chủ yếu từ nông nghiệp,
thì tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế còn bị ảnh hưởng rất lớn bởi tốc độ tăng
trưởng của nông nghiệp. Hay nói cách khác, nông nghiệp vẫn giữ một vị trí quan
trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của nước ta. Hơn thế nữa, trên nền tảng một
nước nông nghiệp đang trong quá trình đô thị hóa như Việt Nam – việc tập trung dân
cư và thay đổi các mối quan hệ xã hội, thì phát triển nông nghiệp vẫn được coi là một
yếu tố cực kỳ quan trọng. Do đó, nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa cũng gắn
chặt với sự phát triển kinh tế. Nguyên cứu vấn đề này có ý nghĩa rất lớn về mặt lý
thuyết và thực tiễn, nhằm có cái nhìn đúng đắn đối với nông nghiệp hiện nay, tránh
lệch lạc trong đường lối phát triển. Thấy được điều đó, nhóm chúng tôi đã lựa chọn
đề tài: “ Tình hình nông nghiệp hóa – đô thị hóa nông thôn Việt Nam hiện nay” để
nắm rõ vai trò, vị trí và tình hình phát triển ngành nông nghiệp tại nước ta hiện nay.
Qua đó, tìm hiểu và đánh giá chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc phát triển
ngành nông nghiệp nước ta giai đoạn hiện nay và trong thời gian tới.

2. Mục đích chọn đề tài
• Trang bị những kiến thức cơ bản về vai trò, vị trí và tình hình phát triển
ngành nông nghiệp nước ta hiện nay.
• Hiểu rõ những chính sách nông nghiệp hiện hành và những chính sách sẽ được
áp dụng trong thời gian tới. Để có cái nhìn đúng đắn về đường lối phát triển
của Đảng và Nhà nước.
• Chuẩn bị những kiến thức phục vụ cho môn học “ Kinh tế phát triển”.
• Giúp các thành viên trong nhóm làm quen việc gắn kết lí luận và thực tiễn.
Nâng cao kỹ năng làm việc theo nhóm.
3. Tầm quan trọng của đề tài
GVHD: Th.s Nguyễn Thị Hương 4
NÔNG NGHIỆP HOÁ– ĐÔ THỊ HOÁ NÔNG THÔN VIỆT NAM LHP: 210700601
Đô thị hoá là xu thế tất yếu của mọi quốc gia trên con đường phát triển. Những
năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, ở những mức độ khác nhau và với những sắc
thái khác nhau, làn sóng đô thị hoá tiếp tục lan rộng như là một quá trình kinh tế, xã
hội toàn thế giới – quá trình mở rộng thành phố, tập trung dân cư, thay đổi các mối
quan hệ xã hội; quá trình đẩy mạnh và đa dạng hoá những chức năng phi nông
nghiệp, mở rộng giao dịch, phát triển lối sống và văn hoá đô thị . Không có một quốc
gia nào trên thế giới đạt được nhiều thành tựu về tăng trưởng kinh tế lại không trải
qua giai đoạn đô thị hoá, trong đó có Việt Nam. Tương lai của chính người dân, tất cả
phụ thuộc rất nhiều vào sự chuẩn bị thích ứng với quá trình đô thị hoá nhảy vọt này!.
Báo cáo của World Bank cho rằng Đông Á và Đông Nam Á, đặc biệt là các nước có
nền kinh tế đang chuyển đổi từ nông nghiệp sang đô thị hóa như Việt Nam, thì nông
nghiệp vẫn được coi là yếu tố quan trọng trong việc xóa đói nghèo, tăng thu nhập cho
nông dân. Hay nói cách khác, nông dân muốn thoát nghèo vẫn phải gắn với nông
nghiệp. Với đặc điểm 80% dân số nước ta sống ở nông thôn và trên 70% lực lượng
lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, việc phát triển toàn diện nông thôn có
một ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội ở nước ta. Kinh
nghiệm trên thế giới đã chỉ ra rằng nếu không phát triển nông thôn thì không một
nước nào có thể phát triển ổn định, bền vững với tốc độ cao một cách lâu dài. Vì thế,

nông nghiệp hóa – đô thị hóa nông thôn có tầm quan trọng vĩ mô trong phát triển toàn
diện nền kinh tế. Cung cấp những kiến thức cơ bản về nông nghiệp hóa – đô thị hóa
nông thôn Việt Nam hiện nay, những chính sách phát triển nông nghiệp của Đảng và
Nhà nước, để có nhận thức sâu sắc về nông nghiệp Việt nam, đó là tầm quan trọng
của đề tài mà chúng tôi lựa chọn.
GVHD: Th.s Nguyễn Thị Hương 5
NÔNG NGHIỆP HOÁ– ĐÔ THỊ HOÁ NÔNG THÔN VIỆT NAM LHP: 210700601
PHẦN HAI: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Cở sở pháp lý
• Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp năm 1993
• Nghị quyết số 55/2010/QH12 ngày 24 tháng 11 năm 2010 của Quốc hôi khóa
XII về miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp.
• Nghị định 20/2011/NĐ-CP hướng dẫn Nghị quyết 55/2010/QH12 về miễn,
giảm thuế sự dụng đất nông nghiệp.
• Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp 2010.
• Luận cải cách ruộng đất năm 1993.(thuvienphapluat.vn)
2. Cơ sở lý thuyết
2.1. Nông nghiệp
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội, sử dụng đất
đai để trồng trọt và chăn nuôi, khai thác cây trồng và vật nuôi làm tư liệu và nguyên
liệu lao động chủ yếu để tạo ra lương thực - thực phẩm và một số nguyên
liệu cho công nghiệp. Nông nghiệp là một ngành sản xuất lớn, bao gồm nhiều chuyên
ngành: trồng trọt, chăn nuôi, sơ chế nông sản; theo nghĩa rộng, còn bao gồm cả lâm
nghiệp, thuỷ sản.
Nông nghiệp là một ngành kinh tế quan trọng trong nền kinh tế của nhiều
nước, đặc biệt là trong các thế kỷ trước đây khi công nghiệp chưa phát triển.
Trong nông nghiệp cũng có hai loại chính, việc xác định sản xuất nông nghiệp
thuộc dạng nào cũng rất quan trọng:
• Nông nghiệp thuần nông hay nông nghiệp sinh nhai là lĩnh vực sản xuất nông
nghiệp có đầu vào hạn chế, sản phẩm đầu ra chủ yếu phục vụ cho chính gia đình của

mỗi người nông dân. Không có sự cơ giới hóa trong nông nghiệp sinh nhai.
• Nông nghiệp chuyên sâu: là lĩnh vực sản xuất nông nghiệp được chuyên môn
hóa trong tất cả các khâu sản xuất nông nghiệp, gồm cả việc sử dụng máy móc
trong trồng trọt, chăn nuôi, hoặc trong quá trình chế biến sản phẩm nông nghiệp.
Nông nghiệp chuyên sâu có nguồn đầu vào sản xuất lớn, bao gồm cả việc sử dụng
hóa chất diệt sâu, diệt cỏ, phân bón, chọn lọc, lai tạo giống, nghiên cứu các giống mới
và mức độ cơ giới hóa cao. Sản phẩm đầu ra chủ yếu dùng vào mục đích thương mại,
GVHD: Th.s Nguyễn Thị Hương 6
NÔNG NGHIỆP HOÁ– ĐÔ THỊ HOÁ NÔNG THÔN VIỆT NAM LHP: 210700601
làm hàng hóa bán ra trên thị trường hay xuất khẩu. Các hoạt động trên trong sản xuất
nông nghiệp chuyên sâu là sự cố gắng tìm mọi cách để có nguồn thu nhập tài chính
cao nhất từ ngũ cốc, các sản phẩm được chế biến từ ngũ cốc hay vật nuôi...
2.2. Đô thị hóa
Đô thị hóa là sự mở rộng của đô thị, tính theo
tỉ lệ phần trăm giữa số dân đô thị hay diện tích đô thị
trên tổng số dân hay diện tích của một vùng
hay khu vực. Nó cũng có thể tính theo tỉ lệ gia
tăng của hai yếu tố đó theo thời gian. Nếu tính
theo cách đầu thì nó còn được gọi là mức độ
đô thị hóa; còn theo cách thứ hai, nó có tên
là tốc độ đô thị hóa.
Đô thị hóa là quá trình phát triển, hoàn thiện cơ sở vật chất, thể hiện qua các
mặt dân số, mật độ dân số, chất lượng cuộc sống... Các nước phát triển (như tại châu
Âu, Mĩ hay Úc) thường có mức độ đô thị hóa cao (trên 80%) hơn nhiều so với
các nước đang phát triển (như Việt Nam hay Thái Lan) (khoảng 30%). Đô thị các
nước phát triển phần lớn đã ổn định nên tốc độ đô thị hóa thấp hơn nhiều so với
trường hợp các nước đang phát triển.
Theo khái niệm của ngành địa lí, đô thị hóa đồng nghĩa với sự gia tăng không
gian hoặc mật độ dân cư hoặc thương mại hoặc các hoạt động khác trong khu vực
theo thời gian.

Đô thị hóa nông thôn: là quá trình mở rộng đô thị, sự tập trung dân cư và thay
đổi các mối quan hệ xã hôi tại các vùng nông thôn – thu nhập chính từ nông nghiệp.
Đô thị hóa có các tác động không nhỏ đến sinh thái và kinh tế khu vực. Sự gia
tăng quá mức của không gian đô thị so với thông thường được gọi là "sự bành trướng
đô thị" (urban sprawl), thông thường để chỉ những khu đô thị rộng lớn mật độ thấp
phát triển xung quanh thậm chí vượt ngoài ranh giới đô thị. Những người chống đối
xu thế đô thị hóa cho rằng nó làm gia tăng khoảng cách giao thông, tăng chi phí đầu
tư hạ tầng kĩ thuật và có tác động xấu đến sự phân hóa xã hội do cư dân ngoại ô sẽ
không quan tâm đến các khó khăn của khu vực trong đô thị.
GVHD: Th.s Nguyễn Thị Hương 7
NÔNG NGHIỆP HOÁ– ĐÔ THỊ HOÁ NÔNG THÔN VIỆT NAM LHP: 210700601
Ảnh hưởng của đô thị hóa:
• Đô thị hóa có ảnh hưởng sâu sắc tới quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế.
• Đô thị hóa cũng tác động mạnh lên sự phát triển kinh tế xã hội của
vùng và cả nước.
• Đô thị là nơi tạo ra nhiều việc làm và thu nhập cho người lao động.
• Là nơi tiêu thụ sản phẩm hàng hóa lớn và đa dạng, là nơi sử dụng lực
lượng lao động có chất lượng cao, cơ sở kĩ thuật hạ tầng cơ sở hiện đại có sức
hút đầu tư mạnh trong nước và nước ngoài.
2.3. Đặc điểm ngành nông nghiệp và nông thôn Việt Nam
Ngoài những đặc điểm chung của nông nghiệp như: có đối tượng sản xuất là
cây trồng và vật nuôi; đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt; hoạt động nông nghiệp
mang tính thời vụ; sản xuất mang tính khu vực. Thì nền nông nghiệp nước ta có
những đặc điểm riêng biệt sau:
• Nền nông nghiệp nhiệt đới: Giúp chúng ta tăng cao khả năng đa dạng hóa
sản phẩm nông nghiệp; áp dụng các biện pháp thâm canh, tăng vụ chuyển dịch cở
cấu mùa vụ; có nhiều loại hình canh tác tùy vào đại hình. Nhưng bên cạnh đó, cũng
phải gánh chịu những hậu quả nặng nề từ thiên tai: bão, lũ lụt, hạn hán…
• Nền nông nghiệp nước ta tồn tại song song nông nghiệp cổ truyền và nông

nghiệp hàng hóa: vì nước ta đi lên từ một nước có nền nông nghiệp lạc hậu, tự cung
tự cấp, chủ yếu phụ thuộc vào tự nhiên; Do đường lối đổi mới của nước ta là chuyển
sang nền kinh tế thị trường sản xuất hàng hóa có sự điều tiết của nhà nước.
• Cơ cấu ngành nông nghiệp đang có sự chuyển biến rõ nét: đẩy mạnh
chuyên môn hóa, cơ giới hóa và đa dạng hóa các mặt hàng; Hình thành các vùng nông
nghiệp chuyên môn hóa kết hợp với chế biến nông sản...
• Tổ chức nông thôn theo huyết thống: gia đình và gia tộc: Ở nông thôn Việt
Nam, gia tộc đóng vai trò rất quan trọng. Nếu phương tây coi trọng vai trò của cá
nhân thì phương đông coi trọng vai trò của gia đình và gia tộc. Nhưng nếu xét ở
phương đông với nhau, Trung Quốc xem gia đình nặng hơn gia tộc thì ở Việt Nam,
gia tộc lại quan trọng hơn gia đình. Mỗi gia tộc đều có trưởng họ (hay còn gọi là tộc
trưởng), nhà thờ họ, gia phả, giỗ họ,...
GVHD: Th.s Nguyễn Thị Hương 8
NÔNG NGHIỆP HOÁ– ĐÔ THỊ HOÁ NÔNG THÔN VIỆT NAM LHP: 210700601
• Tổ chức nông thôn theo địa bàn cư trú và xóm, làng: Nếu coi tổ chức nông
thôn theo huyết thống là bước phát triển thứ nhất thì tổ chức nông thôn theo địa bàn
cư trú là bước phát triển tiếp theo để hình thành nên làng và xóm, đơn vị tổ chức quan
trọng nhất của nông thôn Việt Nam. Một làng gồm nhiều xóm gộp lại.
• Về dân cư thì một thôn có hai loại:
_ Dân chính cư (còn gọi là nội tịch), là dân gốc của thôn, dân chính cư được
hưởng nhiều quyền lợi hơn dân ngụ cư rất nhiều.
_ Dân ngụ cư (còn gọi là ngoại tịch), là dân ở nơi khác đến, những người dân
này chỉ được làm một số nghề mà dân chính cư không muốn làm như: làm thuê, làm
mướn, làm mõ,... trong khi vẫn phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ như dân chính cư.
Dân ngụ cư thường bị khinh rẻ, coi thường. Dân ngụ cư muốn thành dân chính cư thì
phải: cư trú ở làng hơn ba đời, có một ít điền sản.
• Tính cộng đồng và tự trị: việc làng xã Việt Nam được tổ chức theo huyết
thống, địa bàn cư trú, truyền thống nam giới và hành chính như ở phần trên làm cho
làng có tính cộng đồng và tự trị rất cao. Tính cộng đồng làm cho các thành viên trong
làng đều hướng tới nhau, đó là đặc trưng hướng ngoại; còn tính tự trị làm cho các

làng trở lên biệt lập với nhau, đó là đặc trưng hướng nội.
Chính vì những đặc điểm này, những đặc điểm xã hội truyền đời này nên việc
thay đổi các mối quan hệ xã hội tại nông thôn Việt Nam cũng gặp phải những
khó khăn nhất định. Vì thế mà người xưa vẫn có câu “Phép vua thua lệ làng”
để thấy được sự ảnh hưởng rất lớn của tính cộng đồng và làng xã trong tâm lý
của người dân tại nông thôn Việt Nam. Đây cũng là khó khăn lớn nhất trong
quá trình đô thị hóa nông thôn Việt Nam.
Những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình nông nghiệp hóa – đô thị hóa nông
thôn Việt Nam
• Tốc độ phát triển kinh tế - xã hội: Tốc độ phát triển kinh tế - xã hội là yếu tố
quan trọng ảnh hưởng đến quá trình đô thị hóa nông thôn Việt Nam. Tốc độ
phát triển kinh tế - xã hội càng nhanh thì quá trình đô thị hóa diễn ra càng
mạnh.
Khi kinh tế phát triển thì nền kinh tế đặt ra nhu cầu cần thiết để đáp ứng sự
phát triển như hạ tầng kỹ thuật, nhu cầu về lao động, các dịch vụ khác... một
GVHD: Th.s Nguyễn Thị Hương 9
NÔNG NGHIỆP HOÁ– ĐÔ THỊ HOÁ NÔNG THÔN VIỆT NAM LHP: 210700601
cách khách quan, tất yếu. Sự chuyển dịch nền kinh tế từ lạc hậu sang nền kinh
tế phát triển theo nguyên tắc thị trường, cạnh tranh kéo theo sự phát triển kinh
tế tăng lên về mặt quy mô, số lượng các cơ sở kinh tế. Điều này đặt ra một đòi
hỏi khách quan về sự đáp ứng của công nghiệp, dịch vụ, thương mại phục vụ
cho nền kinh tế.
Mặt khác, khi tốc độ phát triển kinh tế - xã hội tăng nhanh song song cùng với
sự tăng trưởng của các thành phần kinh tế công nghiệp, dịch vụ, thương mại...
với tốc độ càng cao thì khả năng gây ô nhiễm môi trường càng lớn. Về mặt xã
hội, sự gia tăng dân số với nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm, nhu cầu lượng thực,
nhu cầu được đảm bảo về việc làm, vui chơi, giải trí... cũng tạo áp lực lên sự
phát triển kinh tế và làm gia tăng suy thoái môi trường
• Môi trường pháp lý và thủ tục hành chính:
Môi trường pháp lý là nền tảng, là động lực cho sự phát triển của đô thị và quá

trình đô thị hóa.
Thủ tục hành chính giúp Nhà nước thực hiện chức năng quản lý của mình về
các vấn đề kinh tế, xã hội... Thủ tục hành chính không bắt nguồn từ quy phạm
pháp luật quản lý, mà sâu xa hơn từ quan điểm quản lý và nội dung quản lý.
Quan điểm quản lý của chế độ bao cấp là kiểm soát các hoạt động trong xã
hội, quan điểm quản lý của cơ chế thị trường là kích thích và tạo điều kiện.
Phương pháp quản lý hành chính bao cấp là “lệnh”, của cơ chế thị trường là
“luật”
Thủ tục hành chính là thủ tục chuẩn bị cho việc ra quyết định. Thủ tục cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thủ tục cấp giấy phép xây dựng... đều là
các thủ tục để ban hành một quyết định, một lệnh theo nghĩa khái quát. Xu
hướng chung là cùng với việc nâng cao trình độ dân trí, tăng cường ý thức
thượng tôn pháp luật, không ngừng giảm bớt việc kiểm soát hành vi (các loại
giấy phép đều là công cụ kiểm soát), tăng cường hậu kiểm và xử lý một cách
nghiêm minh để tăng cường tính tự động hóa vận hành của xã hội theo pháp
luật. Để làm tốt việc đó, cần phải đơn giản hóa nội dung quản lý.
GVHD: Th.s Nguyễn Thị Hương 10
NÔNG NGHIỆP HOÁ– ĐÔ THỊ HOÁ NÔNG THÔN VIỆT NAM LHP: 210700601
• Xu thế hội nhập và kinh tế thị trường: Kinh tế đô thị vốn là con đẻ của kinh tế
hàng hóa là kết quả phát huy tác dụng của cơ chế thị trường. Nhưng chỉ có sản
xuất thì không thể hình thành đô thị hoàn chỉnh, cần phải có sự bảo đảm thị
trường lưu thông. Thị trường phát triển nhanh hay chậm và được kiện toàn hay
không, trên chừng mực khá lớn phụ thuộc vào sự lưu động các yếu tố sản xuất
có thông suốt và hợp lý hay không, ảnh hưởng đến thành bại và tiền đề phát
triển của đô thị
• Sự phát triển của khoa học - kỹ thuật:
Khi nền kinh tế phát triển nói chung và quá trình công nghiệp hóa diễn ra nói
riêng, khoa học - kỹ thuật là yếu tố không thể thiếu. Sự phát triển của khoa học
- kỹ thuật là tiền đề phục vụ qúa trình công nghiệp hóa, nâng cao năng suất lao
động, hiệu quả sản xuất. Đồng thời, là nhân tố giúp cho sự phát triển bền

vững.
Khoa học kỹ thuật phát triển tạo điều kiện cho việc áp dụng công nghệ, kỹ
thuật vào cuộc sống bao gồm các loại công nghệ và kỹ thuật cho phép khai
thác bền vững các loại tài nguyên thiên nhiên, năng lượng và xã hội, hướng tới
việc xây dựng xã hội phát triển bền vững.
GVHD: Th.s Nguyễn Thị Hương 11
NÔNG NGHIỆP HOÁ– ĐÔ THỊ HOÁ NÔNG THÔN VIỆT NAM LHP: 210700601
PHẦN BA: TÌNH HÌNH NÔNG NGHIỆP TRONG NƯỚC
1. Vai trò của nông nghiệp đối với phát triển kinh tế Việt Nam
Việt Nam là một nước đang phát triển vì vậy nông nghiệp vẫn giữ vai trò hết
sức quan trọng. Bởi vì ở nước ta đa số người dân sống dựa vào nghề nông. Cho nên
có phát triển nông nghiệp thì nguồn thu của các hộ nông dân được cải thiện sẽ góp
phần nâng cao phúc lợi xã hội, nhằm giảm thiểu bất bình đẳng trong xã hội và thoát
khỏi vòng lẩn quẩn nghèo đói. Nông nghiệp tham gia giải quyết khó khăn của tình
trạng kém phát triển ở các nước đang phát triển được thông qua vai trò kích thích
tăng trưởng và đóng góp của nông nghiệp vào mức tăng trưởng GD của nền kinh tế.
1.1. Vai trò kích thích tăng trưởng nền kinh tế
1.1.1 Cung cấp lương thực - thực phẩm
Nông nghiệp là ngành tạo ra sản phẩm thiết yếu nhất cho con người. Lương
thực thực phẩm chỉ có ngành nông nghiệp mới sản xuất ra. Trên thực tế phần lớn các
sản phẩm chế tạo có thể thay thế nhưng không có sản phẩm nào có thể thay thế lương
thực. Do đó nước nào cũng phải sản xuất hoặc nhập khẩu lương thực để phục vụ nhu
cầu của mình. Hầu hết các nước đang phát triển đều dựa vào nông nghiệp trong nước
để cung cấp lương thực thực phẩm cho tiêu dùng, nó tạo nên sự ổn định, đảm bảo an
toàn cho phát triển.
Dẫn dự báo của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA), cho biết tiêu thụ lúa gạo toàn
cầu trong niên vụ 2010/2011 sẽ tăng khoảng 420 nghìn tấn, đạt mức cao kỷ lục 453
triệu tấn. Trong khi đó, dự báo thương mại gạo toàn cầu trong năm 2011 ở mức
khoảng 30,3 triệu tấn, tăng 1% so với năm trước.
Ở trong nước, sản xuất lúa gạo năm nay dự kiến đạt 7.548 nghìn ha diện tích

gieo trồng, với sản lượng có thể lên đến 39,75 triệu tấn.
Phân tích tình hình cung cầu thế giới và khả năng cung ứng của Việt Nam, Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn dự báo khối lượng gạo xuất khẩu năm 2011 cả
nước ước đạt mức 5,5-6,1 triệu tấn.
Có quan điểm tranh luận rằng đóng góp này không quan trọng vì sự thiếu hụt
về cung lương thực - thực phẩm có thể được đáp ứng bằng cách nhập khẩu. Cũng
GVHD: Th.s Nguyễn Thị Hương 12
NÔNG NGHIỆP HOÁ– ĐÔ THỊ HOÁ NÔNG THÔN VIỆT NAM LHP: 210700601
cần chú ý rằng, nhập khẩu các yếu tố đầu vào của sản xuất (nguyên vật liệu, máy
móc, thiết bị cho sản xuất) làm tăng vốn sản xuất, còn việc nhập khẩu lương thực
thực phẩm là để tiêu dùng, không gia tăng vốn sản xuất cho nền kinh tế. Vì vậy cần
có sự cân nhắc kỹ lưỡng giữa nhập khẩu lương thực - thực phẩm và tư liệu sản xuất.
1.1.2. Cung cấp nguyên liệu cho Công nghiệp
Nguyên liệu từ nông nghiệp là đầu vào quan trọng cho sự phát triển của các
ngành công nghiệp chế biến nông sản trong giai đoạn đầu quá trình công nghiệp hóa
ở nhiều nước đang phát triển.
Trong những năm gần đây, công nghiệp chế biến nông sản ở Việt Nam có
những bước phát triển tích cực. Với hàng chục ngàn cơ sở thuộc các thành phần kinh
tế với các quy mô khác nhau như xay xát gạo, chế biến chè, cà phê, hồ tiêu, chế biến
đường mật, hoa quả hộp, dầu thực vật… Hàng năm công nghiệp chế biến nông sản
đã sản xuất nhiều loại hàng hoá phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Bảng dưới đây biểu hiện cho mức sản lượng ngày càng tăng lên của các cây
công nghiệp:
Sản lượng một số cây công nghiệp lâu năm (Đơn vị nghìn tấn)
(Nguồn tổng cục thống kê Việt Nam)
Chè
(Búp tươi)
Cà phê
( Nhân)
Cao su

(Mủ khô)
Hồ tiêu Hạt điều Dừa
Năm Nghìn tấn
2000 314.7 802.5 290.8 39.2 67.6 884.8
2001 340.1 840.6 312.6 44.4 73.1 892.0
2002 423.6 699.5 298.2 46.8 128.8 915.2
2003 448.6 793.7 363.5 68.6 164.4 893.3
2004 513.8 836.0 419.0 73.4 204.7 960.1
2005 570.0 752.1 481.6 80.3 240.2 977.2
2006 648.9 985.3 555.4 78.9 273.1 1000.7
2007 705.9 915.8 605.8 89.3 312.4 1034.9
2008 746.2 1055.8 660.0 98.3 308.5 1095.1
GVHD: Th.s Nguyễn Thị Hương 13
NÔNG NGHIỆP HOÁ– ĐÔ THỊ HOÁ NÔNG THÔN VIỆT NAM LHP: 210700601
2009 798.8 1045.1 723.7 105.6 293.5 1128.5
Sản lượng thủy sản (Đơn vị nghìn tấn)
(Nguồn tổng cục thống kê Việt Nam)
Năm
Tổng số
Chia ra
Khai thác Nuôi trồng
Nghìn tấn
2000 2250.5 1660.9 589.6
2001 2434.7 1724.8 709.9
2002 2647.4 1802.6 844.8
2003 2859.2 1856.1 1003.1
2004 3142.5 1940.0 1202.5
2005 3465.9 1987.9 1478.0
2006 3720.5 2026.6 1693.9
2007 4197.8 2074.5 2123.3

2008 4602.0 2136.4 2465.6
Sơ bộ 2009 4847.6 2277.7 2569.9
Sản lượng lâm nghiệp (Đơn vị tỷ đồng)
(Nguồn tổng cục thống kê Việt Nam)
Năm Tổng số
Chia ra
Trồng và nuôi
rừng
Khai thác
lâm sản
Dịch vụ và các
hoạt động lâm
nghiệp khác
Tỷ đồng
GVHD: Th.s Nguyễn Thị Hương 14
NÔNG NGHIỆP HOÁ– ĐÔ THỊ HOÁ NÔNG THÔN VIỆT NAM LHP: 210700601
2000 7673.9 1131.5 6235.4 307.0
2001 7999.9 1054.2 6623.6 322.1
2002 8411.1 1165.2 6855.0 390.9
2003 8653.6 1250.2 6882.3 521.1
2004 9064.1 1359.7 7175.8 528.6
2005 9496.2 1403.5 7550.3 542.4
2006 10331.4 1490.5 8250.0 590.9
2007 12108.3 1637.1 9781.0 690.2
2008 14369.8 2040.5 11524.6 804.7
Sơ bộ 2009 15367.2 2182.2 12309.1 875.9
1.1.3. Cung cấp ngoại tệ thông qua xuất khẩu nông sản
Trong quá trình đổi mới, hội nhập kinh tế, hàng nông sản Việt Nam đã có mặt
trên nhiều nước và đã góp phần thu ngoại tệ để phát triển đất nước.
Các nước đang phát triển đều có nhu cầu rất lớn về ngoại tệ để nhập khẩu

máy móc, vật tư, thiết bị, nguyên liệu mà chưa tự sản xuất được trong nước. Một
phần nhu cầu ngoại tệ đó, có thể đáp ứng được thông qua xuất khẩu nông sản.
Nông sản còn được coi là nguồn hàng hóa để phát triển ngành ngoại thương ở giai
đoạn đầu. Ngay từ thời kỳ đầu xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài, nông sản đã là mặt
hàng chủ lực của Việt Nam. Nhà nước có chủ trương phát triển ngành công nghiệp
chế biến nông sản xuất khẩu, coi nông nghiệp là ngành quan trọng cho đời sống nhân
dân và phát triển các ngành xuất khẩu khác.
Trong lịch sử, quá trình phát triển của một số nước cho thấy vốn được tích lũy
từ những ngành nông nghiệp tạo ra hàng hóa xuất khẩu. Đó là trường hợp của các
nước Úc, Canada, Đan Mạch, Thụy Điển, Tân Tây Lan, Mỹ, và cả Việt Nam.
Kết thúc năm 2009, tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm, thuỷ
sản đã đạt 15,4 tỷ USD. Trong đó riêng nông sản đạt trên 8 tỷ USD, thuỷ sản khoảng
4 tỷ USD, lâm sản gần 2,6 tỷ USD. Với kết quả này, kim ngạch xuất khẩu của ngành
GVHD: Th.s Nguyễn Thị Hương 15
NÔNG NGHIỆP HOÁ– ĐÔ THỊ HOÁ NÔNG THÔN VIỆT NAM LHP: 210700601
nông nghiệp đã vượt dự kiến hồi đầu năm (12 tỷ USD) và chỉ tiêu được giao (14 tỷ
USD).
1.1.4. Tạo việc làm cho đa số lao động nông thôn
Việt Nam là nước có nền văn minh nông nghiệp lâu đời, tạo việc làm và sinh
kế cho 76,5% dân số với 13,7 triệu Hộ Nông thôn (Bộ NN&PTNT, năm 2007). Đóng
góp của nông nghiệp vào tạo việc làm nông nghiệp còn lớn hơn cả đóng góp của
ngành này vào GDP.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Hiện nay có tới trên 90% các
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp có vốn dưới 10 tỉ đồng; 6% số
doanh nghiệp có vốn từ 10 đến 50 tỉ đồng. Với quy mô vốn nhỏ như vậy, hầu hết các
doanh nghiệp đều khó khăn trong việc mở rộng sản xuất. Tuy nhiên, tìm việc
làm trong ngành nông nghiệp, bạn lại nhận được sự quan tâm đầu tư rất nhiều từ phía
nhà nước.
Riêng Hà Nội có diện tích đất sản xuất nông nghiệp trên 192.000 ha, gần 4
triệu người sống ở khu vực nông thôn, chiếm tỉ lệ 62% dân số của thành phố. Dù tỉ

trọng sản xuất nông nghiệp chỉ chiếm 6,4% trong cơ cấu kinh tế song khu vực nông
thôn có vị trí quan trọng. Lực lượng lao động nông nghiệp năm 2010 của Hà Nội có
trên 2,4 triệu người, chiếm 59% dân số khu vực nông thôn (tăng 1,6 lần so với năm
2006).
1.1.5. Cung cấp vốn cho các ngành kinh tế khác
Thông qua:
• Dạng trực tiếp: ngồn thu từ thuế đất nông nghiệp, thuế xuất khẩu nông sản,
nhập khẩu tư liệu sản xuất nông nghiệp. Nguồn thu này được tập trung vào
ngân sách Nhà nước và dùng để đầu tư cho phát triển kinh tế.
Về nguyên tắc, đã sử dụng tài nguyên thì phải thực hiện nghĩa vụ thuế đối với
Nhà nước. Để thúc đẩy nông nghiệp phát triển, cần áp dụng nhiều giải pháp đồng bộ
và thuế chỉ là một trong những công cụ góp phần giải quyết khó khăn tài chính trước
mắt cho tổ chức, cá nhân được giao đất để sản xuất. Với mục tiêu khuyến khích phát
triển nông nghiệp nhằm giảm nhẹ đóng góp cho nông dân, việc thu thuế không nhằm
mục tiêu thu ngân sách. Nhưng ngày 24/11/2010 Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số
GVHD: Th.s Nguyễn Thị Hương 16
NÔNG NGHIỆP HOÁ– ĐÔ THỊ HOÁ NÔNG THÔN VIỆT NAM LHP: 210700601
55/2010/QH12 về miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp. Do nông nghiệp là lĩnh
vực chậm phát triển, đời sống nông dân vẫn gặp nhiều khó khăn và việc áp dụng
chính sách miễn, giảm thuế là cần thiết. Tuy nhiên, không miễn toàn bộ thuế sử dụng
đất nông nghiệp đối với mọi loại đất nông nghiệp và đối với diện tích vượt trên hạn
mức giao đất nông nghiệp bởi một số lý do đất đai là tài nguyên quốc gia, thuộc sở
hữu toàn dân.
• Dạng gián tiếp: với chính sách quản lý giá của Nhà nước theo xu hướng là giá
sản phẩm công nghiệp tăng nhanh hơn giá nông sản, tạo điều kiện cho gia tăng
nhanh tích luỹ công nghiệp từ “hy sinh” của nông nghiệp.
Sự dịch chuyển vốn từ nông nghiệp qua các ngành kinh tế khác có nguồn gốc
từ yêu cầu của tiến trình công nghiệp hoá. Do trong giai đoạn đầu của quá trình phát
triển kinh tế, đầu tư và trợ giúp nước ngoài thường chỉ là những nguồn bổ sung, trong
khi đó nên nông nghiệp còn la ngành thống trị trong nền kinh tế và là nguồn duy nhất

của tiết kiệm và đầu tư.
Kinh nghiệm của Nhật Bản, thuế đất nông nghiệp chiếm 80% tổng giá trị thuế
của nền kinh tế trong suốt hai thập niên của thế kỷ 19. Ấn Độ áp dụng chính sách giữ
giá nôgn sản thấp và ổn định. Nga áp dụng hệ thống giao nộp sản phẩm và cung cấp
đầu vào nhằm phục vụ cho phát triển công nghiệp nặng trong những năm 1920 –
1930.
1.1.6. Làm phát triển thị trường nội địa
Nông nghiệp và nông thôn là thị trường rộng lớn và chủ yếu của sản phẩm
trong nước.
Việc tiêu dùng của người nông dân và mạng dân cư nông thôn đối với hàng
hóa công nghiệp, hàng hóa tiêu dùng (vải, đồ gỗ, dụng cụ gia đình, vật liệu xây
dựng), hàng hóa tư liệu sản xuất (phân bón, thuốc trừ sâu, nông cụ, trang thiết bị,
máy móc) là tiêu biểu cho sự đóng góp về mặt thị trường của ngành nông nghiệp đối
với quá trình phát triển kinh tế. Sự đóng góp này cũng bao gồm cả việc bán lương
thực, thực phẩm và nông sản nguyên liệu cho các ngành kinh tế khác.
Trong những năm qua tiêu dùng ở khu vực nông thôn không ngừng gia tăng.
Nó phản ánh thu nhập của người dân đã được cải thiện và sự phát triển của ngành
GVHD: Th.s Nguyễn Thị Hương 17
NÔNG NGHIỆP HOÁ– ĐÔ THỊ HOÁ NÔNG THÔN VIỆT NAM LHP: 210700601
công nghiệp và dịch vụ. Đặc biệt là các nghành công nghiệp sản suất tư liệu sản suất,
hàng tiêu dùng và dịch vụ.
Chi tiêu bình quân một nhân khẩu bình quân một tháng theo thành thị và
nông thôn (Đơn vị VNĐ)
(Nguồn tổng cục thống kê Việt Nam)
Năm 2002 2004 2006 2008
KV Thành thị 795,5 652,0 811,8 1245,3
KV Nông thôn 232,1 314,3 401,7 619.5
Tỉ lệ 3,43 2,07 2,02 2,01
GVHD: Th.s Nguyễn Thị Hương 18
NÔNG NGHIỆP HOÁ– ĐÔ THỊ HOÁ NÔNG THÔN VIỆT NAM LHP: 210700601

1.2. Nông nghiệp đóng góp vào tốc độ phát triển chung của nền kinh tế
nhưng giảm dần tỷ trọng
Thực tiễn trên Thế giới cho thấy rằng xu hướng chung là trong ngắn hạn vai
trò của nông nghiệp đóng góp rất quan trọng vào tốc độ tăng trưởng GDP và giảm
tương đối theo dài hạn và giảm dần theo thời gian.
Tổng sản phẩm quốc nội của toàn nền kinh tế trong 12 tháng năm 2010 tăng
gần 13 tỷ USD so với năm 2009, đưa GDP của Việt Nam đạt 104,6 tỷ USD.
Tổng cục Thống kê vừa công bố số liệu chính thức về tăng trưởng kinh tế của
Việt Nam trong năm 2010. Theo đó, tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tính theo giá
thực tế, đạt 1,98 triệu tỷ đồng. Con số này tương đương khoảng 104,6 tỷ USD (tính
theo tỷ giá liên ngân hàng ngày 28/12), nhiều hơn so với năm 2009 khoảng 13 tỷ
USD. Nếu so sánh theo kỳ gốc (năm 1994), tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam
trong năm nay đạt khoảng 6,78% so với năm 2009. Con số này cao hơn gần 0,3% so
với kế hoạch được Quốc hội phê duyệt đầu năm. Tốc độ tăng trưởng cũng tăng dần
đều theo các quý và cao nhất vào quý IV (khoảng 7,3%). Về cơ cấu ngành, khu vực
công nghiệp và xây dựng tăng mạnh nhất (7,7%), dịch vụ tăng 7,5% trong khi nông
nghiệp chỉ tăng khoảng 2,8%.
Để đạt được mức tăng trưởng nói trên, tổng vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước
trong năm 2010 đạt khoảng 140.000 tỷ đồng, giảm khoảng 8% về giá trị tuyệt đối so
với năm 2009. Tuy nhiên, con số này vẫn cao hơn khoảng 10% so với kế hoạch đề ra
hồi đầu năm.
Về đầu tư trực tiếp nước ngoài, tính đến 21/12 năm nay, cả nước thu hút được
969 dự án với tổng vốn FDI đăng ký là 17,23 tỷ USD. Tuy chỉ có 8 dự án nhưng
Quảng Nam lại là địa phương thu hút FDI mạnh nhất cả nước với lượng vốn gần 4,2
tỷ USD, gấp gần 2 lần hai địa phương tiếp theo là Bà Rịa - Vũng Tàu và Quảng Ninh.
Trong những năm gần đây, sau một giai đoạn tăng trưởng liên tục, GDP nông
nghiệp đã có dấu hiệu giảm. Nếu GDP nông nghiệp chiếm 41,1 % tổng GDP giai
đoạn 1986-1990 thì giai đoạn 2001-2005 chỉ chiếm 22,1 %. Tăng trưởng GDP cũng
giảm từ 4,6% giai đoạn 1996-2000 xuống còn 4 % giai đoạn 2001-2005, và trong
năm 2009 -2010 là 6,78%.

GVHD: Th.s Nguyễn Thị Hương 19
NÔNG NGHIỆP HOÁ– ĐÔ THỊ HOÁ NÔNG THÔN VIỆT NAM LHP: 210700601
GDP nông nghiệp giảm trước tiên làm giảm tốc độ tăng trưởng GDP chung
của nền kinh tế. Mặt khác, điều này còn tạo ra tâm lý lo lắng cho những ai quan tâm
đến khu vực nông nghiệp -hoạt động kinh tế chính của phần lớn các hộ gia đình ở
nông thôn Việt Nam.
Nông nghiệp đã khẳng định vai trò của mình như đã nêu trên: bình ổn tăng
trưởng kinh tế khi đất nước rơi vào khủng hoảng, tạo việc làm, thu nhập cho cư dân
nông thôn và đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, cung ứng nguyên liệu cho phát
triển công nghiệp, đồng thời là nguồn ngoại tệ quan trọng để đầu tư công nghiệp
hóa... Tuy nhiên, các nguồn lực cho tăng trưởng nông nghiệp có xu hướng suy giảm
và bị bỏ rơi trong chuỗi nông sản toàn cầu. Thể hiện qua trong quy hoạch phát triển,
các địa phương đều định hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, giảm tỷ trọng nông
nghiệp trong cơ cấu GDP, mà không dựa trên những lợi thế so sánh. Nhất là tại vùng
ĐBSCL, suất đầu tư cho công nghiệp cao, do nền đất yếu, hạ tầng kém phát triển,
nhân lực của vùng chưa đáp ứng nhu cầu phát triển.
Tiến sĩ Nguyễn Đỗ Anh Tuấn, Giám đốc Trung tâm Tư vấn chính sách nông
nghiệp, khẳng định: “Trong định hướng phát triển nông nghiệp-nông thôn (NNNT)
cần đặt NNNT làm trọng tâm trong các chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Nông
nghiệp phải được đầu tư theo hướng hiện đại, quy mô lớn, khả năng cạnh tranh cao,
phát triển theo chiều sâu và vệ sinh an toàn thực phẩm”. Nông nghiệp phát triển sẽ
kéo theo chuỗi cung ứng cho ngành phát triển (dịch vụ, thương mại, công nghiệp chế
biến...) và tạo việc làm cho hàng vạn lao động nông thôn.
2. Tỷ trọng đóng góp ngành nông nghiệp trong nền kinh tế và năng suất lao
động ngành
2.1. Vài nét về tình hình phát triển của ngành nông nghiệp Việt Nam
Qua phần trình bày phía trên, chúng ta đã nhìn thấy được vai trò quan trọng rất
lớn của nông nghiệp trong nền kinh tế. Theo báo cáo của Chính phủ, trong số 18 sản
phẩm xuất khẩu chủ lực năm 2010 đạt doanh số trên 1 tỉ USD có đóng góp đáng kể
của ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản. Ví dụ: xuất khẩu thuỷ sản đứng thứ ba với

gần 5 tỉ USD, gỗ và sản phẩm gỗ đứng thứ sáu với 3,4 tỉ USD, gạo đứng thứ bảy với
GVHD: Th.s Nguyễn Thị Hương 20
NÔNG NGHIỆP HOÁ– ĐÔ THỊ HOÁ NÔNG THÔN VIỆT NAM LHP: 210700601
3,2 tỉ USD. Những mặt hàng xuất khẩu quan trọng khác của khu vực kinh tế này là
cao su 2,4 tỉ USD; càphê 1,8 tỉ USD; hạt điều trên 1,1 tỉ USD.
Tuy nhiên, mặc dù đã đạt được nhiều thành tích trong phát triển kinh tế – xã
hội, nhưng về cơ bản, nền nông nghiệp Việt Nam vẫn còn rất lạc hậu. Trên 70% dân
số và 3/4 lực lượng lao động của nước ta đang sống ở vùng nông thôn. Trong cơ cấu
nền kinh tế quốc gia, khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tuy chỉ đóng góp khoảng
15 – 16% vào GDP của Việt Nam, nhưng lại sử dụng tới 53,9% lực lượng lao động.
Trước mắt, từ nay (năm 2011) đến năm 2015, nông nghiệp, lâm nghiệp và
thuỷ sản vẫn là một ngành kinh tế được Nhà nước quan tâm rất cao, đặc biệt đối với
các tỉnh nghèo với đại đa số dân sống ở nông thôn. Do đó, nếu các chính quyền địa
phương quá tập trung đầu tư vào công nghiệp và dịch vụ mà không quan tâm đúng
mức đến phát triển nông, lâm nghiệp và thuỷ sản sẽ ảnh hưởng đến sản xuất và cuộc
sống của đại đa số người dân địa phương. Phát triển nông nghiệp bền vững và nông
thôn mới cần được coi là trọng tâm của đa số các tỉnh trong cả nước hiện nay.
Đây là một quá trình lâu dài và đòi hỏi một chiến lược phát triển có kế hoạch
rõ ràng và hợp lý. Nông nghiệp Việt Nam đang từng bước chuyển dịch theo hướng đa
dạng hóa, phát triển hỗn hợp các loại hình canh tác thay thế cho cho chế độ độc canh,
hạn chế dần tính thời vụ của sản xuất nông nghiệp. Tăng cường vận dụng khoa học
kỹ thuật hiện đại trong việc lai tạo và tìm giống mới, tiêu chuẩn hóa chất lượng nông
sản, nhưng đồng thời nâng cao ý thức trong việc sử dụng tiết kiệm được diện tích đất
sản xuất, phát triển nhiều sản phẩm hàng hóa khác nhau.
Trên thế giới, có những mô hình phát triển thành công dựa trên phát triển
nông nghiệp, kết hợp đầu tư phát triển công nghiệp phụ trợ (cung cấp đầu vào, chế
biến sản phẩm đầu ra), tổ chức cho người nông dân vào các hiệp hội để tăng hiệu quả
sản xuất và khả năng cạnh tranh trên thị trường như Hoa Kỳ, Đài Loan, Trung Quốc,
Hà Lan, New Zealand v.v. Ngoài ra, nông nghiệp cũng là khu vực được mong đợi sẽ
tạo ra sản phẩm mới quan trọng trong tương lai: như các loại cây trồng mới, chất đốt

sinh học, năng lượng sinh học thay thế.
GVHD: Th.s Nguyễn Thị Hương 21
NÔNG NGHIỆP HOÁ– ĐÔ THỊ HOÁ NÔNG THÔN VIỆT NAM LHP: 210700601
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã được
Đảng và Nhà nước ta xác định là con đường tất yếu để Việt Nam nhanh thoát khỏi
tình trạng lạc hậu, chậm phát triển trở thành một quốc gia văn minh, hiện đại. Trong
đó, việc chuyển dịch có quy trình cơ cấu nông nghiệp hiện là một vấn đề trọng yếu và
tác động mạnh mẽ đến nhiều khía cạnh kinh tế – xã hội, đặc biệt là cơ cấu lao động,
tỷ trọng đóng góp của nông nghiệp trong thành quả kinh tế và việc thay đổi đầu tư
trong nền kinh tế Việt Nam.
2.2. Cơ cấu lao động ngành nông nghiệp
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã làm thay đổi cơ cấu lao động nước ta theo xu
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Số lao động trong các ngành công nghiệp và
dịch vụ ngày càng tăng lên, trong khi số lao động ngành nông nghiệp ngày càng giảm
đi.
Trong nội bộ cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn cũng đã có sự chuyển
dịch đúng hướng. Tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp khu vực nông thôn đã tăng từ
17,3% năm 2001 lên 19,3% năm 2007. Trên cơ sở đó, đã tác động tích cực đến
chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội nông thôn mà biểu hiện rõ nhất là thúc đẩy nhanh
chuyển dịch cơ cấu hộ nông thôn theo hướng ngày càng tăng thêm các hộ làm công
nghiệp, thương mại và dịch vụ; trong khi số hộ làm nông nghiệp thuần tuý giảm dần.
Tỷ lệ hộ nông nghiệp (bao gồm cả lâm nghiệp, ngư nghiệp) đã giảm 9,87%; tỷ lệ hộ
công nghiệp tăng lên 8,78%..
Một kết quả tích cực khác là cơ cấu lao động theo ngành đã có sự chuyển dịch
theo hướng tích cực. Tỷ trọng lao động nhóm ngành nông, lâm nghiệp- thuỷ sản đã
giảm (từ 73% năm 1990 xuống còn 71,3% năm 1995; khoảng 51,9% năm 2009 và
năm 2010 khả năng còn dưới 51% gần đạt mục tiêu đề ra).
Trong khi đó, tỷ trọng lao động nhóm ngành công nghiệp - xây dựng tăng liên
tục (từ 11,2% năm 1990 lên 11,4%, lên khoảng 13,1% năm 2000, lên 18,2% năm
2005, lên 21,5% năm 2009). Tỷ trọng lao động nhóm ngành dịch vụ tăng liên tục và

nhanh nhất (từ 15,8% năm 1990, lên 17,4% năm 1995, lên khoảng 21,8% năm 2000,
lên 24,7% năm 2005 và lên 26,6% năm 2010).
GVHD: Th.s Nguyễn Thị Hương 22
NÔNG NGHIỆP HOÁ– ĐÔ THỊ HOÁ NÔNG THÔN VIỆT NAM LHP: 210700601
2.3. Tỷ trọng đóng góp của ngành nông nghiệp trong cơ cấu GDP
Tăng trưởng và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia đều đi kèm với những thay
đổi trong cơ cấu kinh tế, đặc biệt là cơ cấu ba nhóm ngành nông nghiệp (bao gồm
nông- lâm nghiệp và thuỷ sản), công nghiệp (bao gồm công nghiệp và xây dựng) và
dịch vụ. Cơ cấu kinh tế của nước ta trong thời gian qua đã có sự chuyển dịch tích cực
(mặc dù chưa rõ nét): tỷ trọng nông- lâm- thuỷ sản trong GDP đã giảm đều đặn (từ
40,5% xuống 22,09% trong thời kỳ 1991-2008) và tỷ trọng công nghiệp- xây dựng
tăng lên tương ứng (từ 23,8% tăng lên 39,73% trong cùng thời kỳ). Trong khi đó, khu
vực dịch vụ sau một thời gian dài chững lại (1995-2004) và tăng chậm hơn nhịp độ
tăng trưởng chung của GDP, hiện nay đã trở lại tốc độ tăng trưởng khá.
Cơ cấu kinh tế Việt Nam phân theo nhóm ngành, 1991-2008

Tuy nhiên, cơ cấu kinh tế Việt Nam chuyển dịch chậm hơn dự kiến, kể cả cơ
cấu ngành, cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ... Trong nhiều năm qua, xét theo tỷ
trọng giá trị tăng thêm trong GDP, cơ cấu kinh tế chủ yếu biến đổi theo sự chuyển
dịch của hai nhóm ngành nông- lâm - thủy sản và công nghiệp- xây dựng. Tỷ trọng
dịch vụ trong GDP biến động không ngừng theo từng năm và chưa thể hiện một xu
thế chuyển dịch rõ ràng hướng tới một cơ cấu hiện đại, trong khi đây là khu vực có
rất nhiều cơ hội và tiềm năng phát triển.
GVHD: Th.s Nguyễn Thị Hương 23
NÔNG NGHIỆP HOÁ– ĐÔ THỊ HOÁ NÔNG THÔN VIỆT NAM LHP: 210700601
Chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam nêu rõ: "Đưa nước ta ra khỏi tình
trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân
dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại".
Hiện nay, nếu đọc nghị quyết và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của các

tỉnh trong cả nước, người ta dễ dàng nhận thấy một điểm nổi bật chung là xu thế “
phát triển kinh tế nhanh và bền vững, tăng tỷ trọng đóng góp vào GDP(1) của khu
vực công nghiệp – xây dựng (KV2) – dịch vụ (KV3); giảm tỷ lệ đóng góp của khu
vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản (KV1)…”
Xu thế này, nếu được áp dụng một cách hợp lý, là phù hợp với định hướng
phát triển công nghiệp hoá và hiện đại hoá của đất nước cũng như với xu thế chung
của thế giới. Điều đáng bàn ở đây là ta cần nhận rõ mình đang ở đâu, những nguồn
lực có sẵn và thế mạnh tương đối của mình là gì v.v, từ đó đưa ra những định hướng
phát triển hợp lý, tránh công nghiệp hoá và hiện đại hoá một cách máy móc, theo
phong trào và kém hiệu quả.
Những tỉnh và thành phố có điều kiện phát triển công nghiệp và dịch vụ (vị trí
địa lý thuận lợi như đầu mối giao thông, gần các thành phố lớn, cửa khẩu biên giới;
có sân bay và cảng biển; sản xuất nhiều sản phẩm hàng hoá quy mô lớn; thu hút
nhiều FDI v.v) có thể mạnh dạn tiến hành chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hoá và hiện đại hoá, giảm nhanh tỷ lệ đóng góp của KV1 vào GDP của
tỉnh mình. Tuy nhiên, những tỉnh nghèo, tỉnh miền núi chủ yếu dựa vào ngân sách do
Trung ương cấp nên tiếp tục lấy nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản là trọng tâm
của phát triển, kết hợp với đầu tư phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ cho sản
xuất nông nghiệp (sản xuất giống, phân bón, công cụ sản xuất, chế biến nông sản và
thuỷ sản v.v).
Công nghiệp hoá và hiện đại hoá thường được hiểu là phát triển công nghiệp
một cách ồ ạt theo chiều rộng, làm sao cho tỷ trọng của nhóm ngành này trong GDP
tăng càng nhanh càng tốt. Cần tránh tình trạng muốn đốt cháy giai đoạn phát triển,
tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu nhanh bằng mọi giá này. Đặc biệt, cần khắc phục
GVHD: Th.s Nguyễn Thị Hương 24
NÔNG NGHIỆP HOÁ– ĐÔ THỊ HOÁ NÔNG THÔN VIỆT NAM LHP: 210700601
tình trạng nơi mở khu/cụm công nghiệp và trung tâm thương mại đòi hỏi những
nguồn vốn đầu tư lớn từ ngân sách hạn hẹp của địa phương. Hàm lượng giá trị gia
tăng trong giá trị sản xuất công nghiệp hoá kiểu này rất thấp (chỉ khoảng 20 – 25%),
trong khi nhiều diện tích đất nông nghiệp và đất ở bị mất đi, sản lượng nông nghiệp

bị thu hẹp, ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, an sinh xã hội và an toàn lương thực.
2.4. Đầu tư cho nông nghiệp chiếm tỷ trọng ngày càng giảm
Việc chạy theo phát triển kinh tế khiến nhiều tỉnh cho phép khai thác tài
nguyên mà không cần biết đến hậu quả về môi trường và lợi ích kinh tế. Điều này
dẫn đến tình trạng lãng phí đất nông nghiệp và tiềm lực thực sự của đất nước, trong
khi khu vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản rất cần vốn đầu tư thì lại chỉ được
phân bổ hạn chế. Có thể quan sát điều này qua tổng hợp ngân sách nhà nước đầu tư
cho khu vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản ngày càng giảm: từ 7,5% tổng vốn
đầu tư năm 2005 xuống 6,26% năm 2009 (số liệu của tổng cục Thống kê năm 2009).
Do vậy, việc điều động, phân phối nguồn vốn vào các ngành đầy tiềm năng
của nông nghiệp, hơn bao giờ hết cần sự khuyến khích, động viên từ phía chính phủ.
Chúng ta rất cần sự hướng dẫn, tư vấn để các nguồn vốn lớn từ trong nước cũng như
từ các doanh nghiệp lớn nước ngoài được phát huy hiệu quả cao và hỗ trợ cho việc
chuyển dịch ngày càng nhanh chóng và giúp cho nông nghiệp Việt Nam bước lên giai
đoạn hiện đại.
2.5. Năng suất lao động nông nghiệp
Năng suất lao động nông nghiệp ở Việt Nam còn thấp và tăng trưởng chậm.
Năng suất lao động của toàn bộ nền kinh tế năm 2009 đạt khoảng 34,7 triệu
đồng/người, vẫn chưa vượt qua được 2.000 USD/người, trong đó nhóm ngành nông,
nghiệp- thuỷ sản chỉ đạt 12,4 triệu đồng/người... Năng suất lao động nông nghiệp
Việt Nam so với các nước chỉ chiếm 75% so với Trung Quốc, 25% so với Thái Lan
và chỉ đạt 4% so với Malaysia.
Theo thống kê của Ngân hàng Thế giới (WB), một lao động nông nghiệp của
Đan Mạch mỗi năm tạo ra một giá trị gia tăng là 63.131 USD (bình quân trong những
GVHD: Th.s Nguyễn Thị Hương 25

×