Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Tiểu luận kinh tế vĩ mô TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA VIỆT NAM TỪ NĂM 2007- 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.18 KB, 29 trang )

Kinh tế Vĩ mô 2 Nhóm 11
MỤC LỤC
1
Kinh tế Vĩ mô 2 Nhóm 11
LỜI MỞ ĐẦU
Chính sách tiền tệ là một chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô cực kì quan
trọng của nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Ở Việt Nam kể từ khi đổi mới
đến nay, chính sách tiền tệ đang từng bước hình thành, hoàn thiện và phát huy
tác dụng đối với nền kinh tế. Với đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam thì việc lựa
chọn các công cụ nào, sử dụng nó ra sao ở các giai đoạn cụ thể của nền kinh tế
luôn là một vấn đề thường xuyên phải quan tâm theo dõi và giải quyết đối với
các nhà hoạch định, điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, và các nhà nghiên
cứu kinh tế bởi lịch sử phát triển của nền kinh tế thế giới đã chỉ ra rằng : Để có
một chính sách tiền tệ khôn ngoan, phù hợp với từng thời kỳ luôn là một “ bài
toán” khó. Đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế trong nước và quốc tế như hiện
nay thì việc nghiên cứu về chính sách tiền tệ cụ thể và các công cụ của chính
sách tiền tệ là một vấn đề cần thiết.
Với mục đích muốn có thêm kiến thức về vấn đề này nên chúng em đã
thống nhất cùng tìm hiểu đề tài: “TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
CỦA VIỆT NAM TỪ NĂM 2007- 2012”
Trong quá trình làm bài, chúng em không tránh khỏi thiếu sót bởi đề tài
về “Chính sách tiền tệ của VN trong giai đoạn 2007 -2012” rất rộng lớn, trong
khi kiến thức của bọn em vẫn còn hạn chế. Vì vậy, chúng em rất mong nhận
được ý kiến từ thầy giáo và các bạn để bài tiểu luận của chúng em được tốt hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
2
Kinh tế Vĩ mô 2 Nhóm 11
NỘI DUNG
TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA VIỆT
NAM TỪ NĂM 2007- 2012
I. Giới thiệu về chính sách tiền tệ


1. Khái niệm
Chính sách tiền tệ là chính sách kinh tế vĩ mô trong đó Ngân hàng
Trung Ương thông qua các công cụ của mình, thực hiện việc kiểm soát và
điều tiết khối lượng tiền cung ứng nhằm ổn định giá trị đồng tiền và đạt được
các mục tiêu kinh tế - xã hội đề ra.
2. Mục tiêu
• Ổn định giá cả
Ổn định giá cả hay kiểm soát lạm phát là mục tiêu hàng đầu và là mục
tiêu dài hạn của CSTT. Các NHTW thường lượng hóa mục tiêu này bằng tốc
độ tăng của chỉ số giá tiêu dùng. Ổn định giá cả có tầm quan trọng đặc biệt để
định hướng phát triển kinh tế của quốc gia vì nó làm tăng khả năng dự đoán
những biến động của môi trường kinh tế vĩ mô. Mức lạm phát thấp và ổn định
tạo nên môi trường đầu tư ổn định, thúc đẩy nhu cầu đầu tư và đảm bảo sự
phân bổ nguồn lực xã hội một cách hiệu quả.
• Ổn định tỉ giá hối đoái
Trong điều kiện mở cửa nền kinh tế, các luồng hàng hóa và tiền vốn
vào ra một quốc gia gắn liền với việc chuyển đổi qua lại giữa các đồng nội tệ
và ngoại tệ. Việc ngăn ngừa những biến động mạnh, bất thường trong tỉ giá
hối đoái sẽ giúp cho các hoạt động kinh tế đối ngoại được hiệu quả hơn nhờ
dự đoán được chính xác về mặt khối lượng giá trị. Thêm vào đó, tỉ giá hối
3
Kinh tế Vĩ mô 2 Nhóm 11
đoái còn ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của hàng hóa trong nước và nước
ngoài về mặt giá cả.
• Ổn định lãi suất
Lãi suất là một biến kinh tế vĩ mô hết sức quan trọng trong nền kinh tế
do nó ảnh hưởng tới quyết định chi tiêu của các doanh nghiệp và hộ gia đình.
Những biến động bất thường trong lãi suất sẽ gây khó khăn cho các doanh
nghiệp và cá nhân trong việc dự tính chi tiêu hay lập kế hoạch kinh doanh. Do
đó, ổn định lãi suất là một mục tiêu quan trọng mà các NHTW hướng tới

nhằm góp phần ổn định môi trường kinh tế vĩ mô.
• Ổn định thị trường tài chính
Thị trường tài chính được xem là nơi tạo ra ngườn vốn cho phát triển
kinh tế. Nó góp phần quan trọng trong việc điều hòa vốn từ nơi thừa vốn đến
nơi thiếu vốn, giúp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. NHTW với khả năng tác
động tới khối lượng tín dụng và lãi suất có nhiệm vụ đem lại sự ổn định cho
thị trường tài chính.
• Tăng trưởng kinh tế
Do chính sách tiền tệ có thể ảnh hưởng tới của cải và chi tiêu xã hội
nên có thể sử dụng nó làm đòn bẩy kích thích tăng trưởng kinh tế. Chính sách
tiền tệ phải đảm bảo sự tăng lên của GDP thực tế, tức là tỷ lệ tăng trưởng có
được sau khi trừ đi tỷ lệ tăng giá cùng thời kì.
• Giảm tỷ lệ thất nghiệp
Đảm bảo công ăn việc làm đầy đủ không có nghĩa là tỷ lệ thất nghiệp
bằng 0 mà ở mức thất nghiệp tự nhiên. Mỗi quốc gia cần xác định chính xác
tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên để đạt được mục tiêu này. Cố gắng giảm tỷ lệ thất
nghiệp tự nhiên cũng được coi là một mục tiêu của CSTT.
3. Các công cụ của chính sách tiền tệ
4
Kinh tế Vĩ mô 2 Nhóm 11
Gồm có 6 công cụ sau:
• Công cụ tái cấp vốn: là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng
Trung ương đối với các Ngân hàng thương mại. Khi cấp 1 khoản tín dụng cho
Ngân hàng thương mại, Ngân hàng Trung ương đã tăng lượng tiền cung ứng
đồng thời tạo cơ sở cho Ngân hàng thương mại tạo bút tệ và khai thông khả
năng thanh toán của họ.
• Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc: là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện
cần vô hiệu hóa trên tổng số tiền gửi huy động, nhằm điều chỉnh khả năng
thanh toán (cho vay) của các Ngân hàng thương mại.
• Công cụ nghiệp vụ thị trường mở: là hoạt động Ngân hàng Trung

ương mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, điều hòa cung
cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến khối lượng dự trữ của các Ngân
hàng thương mại, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng của các
Ngân hàng thương mại dẫn đến làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ.
• Công cụ lãi suất tín dụng: đây được xem là công cụ gián tiếp
trong thực hiện chính sách tiền tệ bởi vì sự thay đổi lãi suất không trực tiếp
làm tăng thêm hay giảm bớt lượng tiền trong lưu thông, mà có thể làm kích
thích hay kìm hãm sản xuất. Nó là 1 công cụ rất lợi hại. Cơ chế điều hành lãi
suất được hiểu là tổng thể những chủ trương chính sách và giải pháp cụ thể
của Ngân hàng Trung ương nhằm điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín
dụng trong từng thời kỳ nhất định.
• Công cụ hạn mức tín dụng: là 1 công cụ can thiệp trực tiếp mang
tính hành chính của Ngân hàng Trung ương để khống chế mức tăng khối
lượng tín dụng của các tổ chức tín dụng. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối
đa mà Ngân hàng Trung ương buộc các Ngân hàng thương mại phải chấp
hành khi cấp tín dụng cho nền kinh tế.
5
Kinh tế Vĩ mô 2 Nhóm 11
• Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng
nội tệ và đồng ngoại tệ. Nó vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa là
biểu hiên quan hệ cung cầu ngoại hối. Tỷ giá hối đoái là công cụ, là đòn bẩy
điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động mạnh đến xuất nhập khẩu và hoạt động
sản xuất kinh doanh trong nước. Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy
bén đến tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa, tình trạng tài chính, tiện
tệ, cán cân thanh toán quốc tế, thu hút vốn đầu tư, dự trữ của đất nước. Về
thực chất tỷ giá không phải là công cụ của chính sách tiền tệ vì tỷ giá không
làm thay đổi lượng tiền tệ trong lưu thông. Tuy nhiên ở nhiều nước, đặc biệt
là các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi coi tỷ giá là công cụ hỗ trợ quan
trọng cho chính sách tiền tệ.
II. Thực trạng CSTT tại VN trong giai đoạn 2007- 2012

1. Bối cảnh kinh tế
1.1 Thế giới
Kinh tế thế giới đang ở trong tình trạng tồi tệ nhất từ năm 2009. Khắp
nơi trên thế giới, từ các nhà sản xuất ô tô cho đến các công ty công nghệ,
doanh số bán hàng sụt giảm mạnh mẽ mà nguyên nhân chủ yếu nằm ở thị
trường Trung Quốc và châu Âu. Giờ đây, một số người đưa ra dự đoán thế
giới đang bước vào một cuộc suy thoái mới. Các NHTW Anh, Trung Quốc,
Brazil, Hàn Quốc và ECB đều đã cắt giảm lãi suất trong những tháng qua với
hy vọng sẽ kích thích được tăng trưởng. Các biện pháp thúc đẩy tăng trưởng
được đưa ra dồn dập và không chỉ dừng lại ở cắt giảm ngân sách hay giảm
nợ. Tuy nhiên, dường như các biện pháp này không thể phát huy tác dụng
như mong muốn. Mỹ, nền kinh tế lớn nhất thế giới và cũng là đầu tàu kéo cả
thế giới ra khỏi suy giảm, giờ đây cũng cần giúp đỡ. Đã 3 năm sau khi khủng
hoảng chính thức chấm dứt, kinh tế Mỹ vẫn không thể lấy lại đà tăng trưởng.
6
Kinh tế Vĩ mô 2 Nhóm 11
Tỷ lệ tăng trưởng vẫn ở mức thấp trong khi tỷ lệ thất nghiệp lên tới 8,2%
trong tháng 6 và đã có tháng thứ 41 liên tiếp ở mức trên 8%. Khủng hoảng tài
chính 2007 là một cuộc khủng hoảng bao gồm sự đổ vỡ hàng loạt hệ thống
ngân hàng, tình trạng đói tín dụng, tình trạng sụt giá chứng khoán và mất giá
tiền tệ quy mô lớn ở nhiều nước trên thế giới, có nguồn gốc từ khủng hoảng
tài chính ở Hoa Kì.
Khủng hoảng tài chính Hoa Kỳ 2007-2009 là cuộc khủng hoảng trong
nhiều lĩnh vực tài chính (tín dụng, bảo hiểm, chứng khoán) diễn ra từ
năm 2007 cho đến tận nay. Cuộc khủng hoảng này bắt nguồn từ cuộc khủng
hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp. Và bản thân nó lại là nguồn gốc trực tiếp của
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2010. Hàng loạt tổ chức tài chính
trong đó có những tổ chức tài chính khổng lồ và lâu đời bị phá sản đã đẩy
kinh tế Hoa Kỳ vào tình trạng đói tín dụng, khiến cho hàng ngàn người mất
việc làm.

Hoa Kỳ là thị trường nhập khẩu quan trọng của nhiều nước, do đó khi
kinh tế suy thoái, xuất khẩu của nhiều nước bị thiệt hại, nhất là những
nước theo hướng xuất khẩu ở Đông Á. Một số nền kinh tế ở đây như Nhật
Bản, Đài Loan, Singapor và Hong Kong rơi vào suy thoái. Các nền kinh tế
khác đều tăng trưởng chậm lại. Và nền kinh tế Việt Nam cũng chịu không ít
nhiều ảnh hưởng.
1.2. Trong nước
Theo báo cáo “Đánh giá tổng thể tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam sau
5 năm gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)” do Bộ Kế hoạch và Đầu
tư soạn thảo, từ năm 2007 đến năm 2011, sau 5 năm Việt Nam gia nhập tổ chức
WTO, tăng trưởng GDP chỉ đạt 6,5%, không đạt được mục tiêu 7,5 - 8% kế
hoạch năm năm đã đề ra. Mức tăng trưởng này thấp hơn trước khi gia nhập
7
Kinh tế Vĩ mô 2 Nhóm 11
WTO 2002 -2006 (7,8%), và giai đoạn khủng hoảng tài chính Đông Nam Á
1996 - 2000 (7,0%). Nhưng con số trên vẫn được đánh giá là tăng trưởng cao so
với nhiều nước trên thế giới, trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy thoái
kinh tế toàn cầu.
Giai đoạn đầu, từ 2007 đến giữa năm 2008, các chỉ tiêu kinh tế của Việt
Nam đạt ở mức cao, tăng trưởng GDP năm 2007 đạt 8,5%, cao nhất so với 10
năm trước đó, một phần nhờ các rào cản thương mại giảm nhiều khi hội nhập.
Tuy nhiên, từ giữa năm 2008, tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm dần, ở mức bình
quân 6,1% trong giai đoạn 2008 - 2011, năm 2009 thậm chí rơi xuống 5,3%.
Nền kinh tế vừa mở cửa một năm đã gặp ngay những tác động tiêu cực của cuộc
khủng hoảng kinh tế, suy thoái tài chính toàn cầu, khiến những yếu kém và hạn
chế của nền kinh tế trong nước bộc lộ rõ nét hơn. … Năm 2012, tốc độ tăng
trưởng kinh tế của Việt Nam là 5,03%, thấp nhất trong một thập kỷ qua.
2. Chính sách tiền tệ VN đã áp dụng
2.1 Năm 2007- 2008
Năm 2007-2008, đánh dấu mức lạm phát phi mã sau nhiều năm tốc độ

lạm phát ở mức vừa phải. Nguyên nhân của lạm phát có thể là do cầu kéo (do
tổng cầu của nền kinh tế gia tăng), chi phí đẩy (do các yếu tố đầu vào tăng),
thiếu hụt cung (khi nền kinh tế đạt tới hoặc vượt quá mức sản lượng tiềm
năng), cung tiền tăng quá mức ( việc tăng tổng phương tiện thanh toán) và
yếu tố tâm lý ( lạm phát kì vọng). Phân tích lạm phát ở nước ta những năm
gần đây, có đủ các nguyên nhân, vừa là lạm phát chi phí đẩy- do chi phí đầu
vào( nguyên vật liệu, vận tải, kho bãi, năng lượng, tiền lương…) tăng, đẩy giá
bán đầu ra lên cao; vừa lạm phát cầu kéo – do nhu cầu của người tiêu dùng,
doanh nghiệp và chính phủ tăng cao, kéo theo tăng giá bán của các loại hàng
hóa, dịch vụ; vừa là lạm phát kì vọng. Tuy nhiên năm 2008, nguyên nhân gây
ra lạm phát chủ yếu là do chi phí đẩy. Ngoài việc giá các chi phí đầu vào trên
thị trường thế giới tăng cao kỷ lục (dầu thô vượt ngưỡng hơn 147 USD/
8
Kinh tế Vĩ mô 2 Nhóm 11
thùng, giá phôi thép, thép 830 USD/ tấn, gạo hơn 1000 USD/tấn ) còn do yếu
tố nội sinh của nền kinh tế nước ta. Đó là mức tăng trưởng tín dụng cũng bị
đẩy lên mức cao, giá điện sinh hoạt và sản xuất tăng, chính phủ tiến hành cải
tiền lương làm thu nhập dân cư tăng và chi phí của doanh nghiệp cũng tăng
cao làm trầm trọng them áp lực lạm phát. Đặc biệt trong năm 2008, do tỷ giá
giữa USD/VND xuống thấp kỷ lục bởi đồng USD giảm giá do ảnh hưởng bởi
suy thoái kinh tế ở Mỹ và việc FED cắt giảm lãi suất cơ bản đồng USD xuống
mức thấp nhấp trong nhiều năm qua ( có lúc xuống 0,25%) khiến cho việc
xuất khẩu hang hóa của VIệt Nam gặp nhiều khó khăn.
Đứng trước tình hình kinh tế - xã hội, ngay từ đầu năm, Ngân hàng Nhà
nước đã điều hành chính sách tiền tệ thắt chặt để kiềm chế tốc độ tăng tổng
phương tiện thanh toán và kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng nhằm đảm
bảo mức tăng tổng dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng không vượt quá
30%. Để thực hiện mục tiêu này, ngân hàng nhà nước đề ra giải pháp và biện
pháp cụ thể sau:
• Chỉ đạo các tổ chức tín dụng kiểm soát chặt chẽ những lĩnh vực

cho vay có rủi ro cao như đầu tư kinh doanh chứng khoán, bất động sản thông
qua việc:
- Siết chặt lại các điều kiện được cho vay và khống chế tổng dư nợ cho
vay, chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư kinh doanh chứng khoán không được
vượt quá 20% vốn điều lệ của tổ chức tín dụng.
- Yêu cầu các tổ chức tín dụng khống chế tỷ trọng và tốc độ tăng
trưởng dư nợ cho vay bất động sản ở mức hợp lý so với tổng dư nợ và nguồn
vốn cho vay.
- Ban hành mới cơ chế cho vay bằng ngoại tệ của tổ chức tín dụng theo
hướng chặt chẽ hơn nhằm hạn chế cho vay đối với nhu cầu không nhất thiết
phải sử dụng vốn ngoại tệ.
9
Kinh tế Vĩ mô 2 Nhóm 11
• Sử dụng các công cụ của CSTT như lãi suất, tỷ giá, dự trữ bắt
buộc (DTBB), thị trường mở để điều tiết lượng vốn khả dụng của các ngân
hàng thương mại (NHTM) và từ đó tác động lên khả năng cung vốn ngân
hàng ra thị trường theo mục đích đặt ra và thu hút mạnh tiền từ lưu thông về,
cụ thể:
- Tăng tỷ lệ DTBB (trừ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn và các tổ chức tín dụng hoạt động trên địa bàn nông thôn).
- Tăng khối lượng bán tín phiếu trên nghiệp vụ thị trường mở và phát
hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng có quy
mô vốn huy động bằng VND trên 1.000 tỷ đồng ( trừ Ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương).
- Sáu tháng đầu năm 2008, NHNN đã 2 lần thay đổi các lãi suất cơ bản,
lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu theo hướng tăng lên. Điều này được
thực hiện nhằm tạo hành lang lãi suất phù hợp với định hướng kiểm soát tốc
độ tăng trưởng dư nợ tín dụng và từng bước đảm bảo lãi suất thực dương cho
người gửi tiền, cụ thể :
+ Tăng lần 1: lãi suất cơ bản lên 12%/năm, lãi suất tái cấp vốn lên

13%/năm, lãi suất chiết khấu lên 11%/năm.
+ Tăng lần 2: Lãi suất cơ bản lên 14%/năm, lãi suất tái cấp vốn lên
15%/năm, lãi suất chiết khấu lên 13%/năm.
Khi đặt mục tiêu về kiểm soát mức tăng tổng dư nợ tín dụng thông qua
chính sách lãi suất, NHNN hướng tới việc kiểm soát, hạn chế các đầu tư tín
dụng không hiệu quả. Bởi lẽ, việc tăng lãi suất cho vay sẽ buộc các doanh
nghiệp, các chủ đầu tư cân nhắc, tính toán về hiệu quả kinh doanh và đầu tư.
Họ sẽ phải dãn, hoãn hay chấm dứt những hoạt động kinh doanh kém hiệu
quả để tập trung nguồn lực (bao gồm cả tiền vay) vào các dự án hay hoạt
động kinh doanh có hiệu quả. Và ở khía cạnh này thì việc tăng lãi suất là
10
Kinh tế Vĩ mô 2 Nhóm 11
công cụ hữu hiệu để phân bổ nguồn lực xã hội và sàng lọc giữa việc kinh
doanh hiệu quả và không hiệu quả. Còn đối với các ngân hàng, chính sách
siết chặt nguồn cung tiền trong hệ thống sẽ buộc các ngân hàng phải chọn lọc
và thẩm định kỹ càng các dự án cho vay, đặc biệt là cho vay bất động sản và
đầu tư chứng khoán. Những dự án không đầy đủ về mặt pháp lý hoặc không
hiệu quả trong tương lai sẽ không được ngân hàng tài trợ vốn. Như vậy, chính
sách thắt chặt tín dụng của NHNN chỉ buộc các ngân hàng phải tự điều chỉnh,
lựa chọn các dự án vay vốn chứ không áp đặt hay hạn chế các ngân hàng
không được cho vay, đầu tư bất động sản hay chứng khoán.
Việc áp dụng đồng bộ, linh hoạt các giải pháp trên đã góp phần đưa các
chỉ tiêu tiền tệ biến động theo định hướng đề ra: (i) Tổng phương tiện thanh
toán được kiểm soát ở mức thấp; (ii) Tốc độ tăng trưởng đầu tư cho nền kinh
tế chậm dần, từ đó tác động kiềm chế mức tăng tổng cầu và giá tiêu dùng.
Như vậy, trong năm 2008, NHNN đã tập trung vào 2 mục tiêu chủ yếu
là kiểm soát tổng phương tiện thanh toán ở mức hợp lý và kiểm soát dư nợ tín
dụng và tính đến hết tháng 10/ 2008 các chỉ tiêu này lần lượt đạt là 10,59%
(cùng kỳ năm ngoái tăng 32%) và 19,6% (cùng kỳ năm ngoái tăng 37%). Từ
việc kiểm soát 2 chỉ tiêu chủ yếu này, NHNN đã rút về một lượng lớn tiền

mặt khỏi lưu thông và từ đó giảm bớt áp lực của sự tăng lạm phát. Việc rút
bớt một lượng tiền mặt khỏi lưu thông được thực hiện thông qua việc siết chặt
các khoản vay không hiệu quả để tập trung tăng trưởng tín dụng cho sản xuất,
xuất khẩu, cho lĩnh vực nông nghiệp, nông dân và nông thôn, cho hộ chính
sách và đặc biệt là đối với các dự án dang dở có hiệu quả phải đầu tư nhanh
để phát huy hiệu quả. Đồng thời NHNN đã linh hoạt kịp thời nới lỏng CSTT
bằng cách hạ lãi suất cơ bản, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc… khi có dấu hiệu
giảm áp lực lạm phát và tăng trưởng khó khăn, nhất là khi tình trạng suy thoái
11
Kinh tế Vĩ mô 2 Nhóm 11
kinh tế đang lan tỏa ra toàn cầu và có thể tác động mạnh đến nền kinh tế Việt
Nam trong năm 2009 nếu Việt Nam không có giải pháp ứng phó.
2.2 Năm 2009- 2010
• Chính sách tiền tệ áp dụng năm 2009
Áp lực từ cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đòi
hỏi chính phủ Việt Nam phải có những chính sách kinh tế phù hợp để giảm
thiểu tác động của nó. Trong thực tế, chính phủ Việt Nam đã điều hành các
chính sách vĩ mô thời gian qua khá linh hoạt trong những thời điểm nhạy
cảm, cả chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa được tận dụng tối đa cho
mục tiêu kích cầu, góp phần giữ vững hệ thống doanh nghiệp và duy trì một
môi trường vĩ mô phù hợp.
Sau giai đoạn thắt chặt chính sách tiền tệ để kiểm soát lạm phát từ nử
cuối năm 2007 đến nửa đầu năm 2008, sang năm 2009 Việt Nam áp dụng
chính sách tiền tệ nới lỏng có kiểm soát, giảm lãi suất để kích đầu tư và đưa
lãi suất về gần với mức lãi suất trước khi xảy ra khủng hoảng tài chính thế
giới. Đi liền với đó là tạo điều kiện cho hệ thống ngân hàng hoạt động hiệu
quả, tính thanh khoản được bảo đảm. Không để hệ thống ngân hàng ( quốc
doanh và cổ phần ) mất ổn định. Ngân hàng nhà nước đã thực hiện một loại
các biện pháp nhằm hướng các khoản vốn vay đúng đối tượng, triển khai các
biện pháp hạn chế tình trạng thông tin không cân xứng, giảm rủi ro do lựa

chọn đối nghịch, tăng tính sẵn sàng cho vay của các ngân hàng. Ngoài việc
giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc, giảm lãi suất dự trữ bắt buộc, giảm hệ thống lãi
suất chỉ đạo, thực hiện ảo lãnh cho doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như triển
khia cho vay hỗ trợ lãi suất, trong những tình huống khẩn cấp, NHNN đã sử
dụng những biện pháp hành chính khống chế trần lãi suất cho vay, kiểm soát
chặt việc cho vay hỗ trợ lãi suất, cung ứng thanh khoản cho các ngân hàng
khó khăn thanh khoản, kiểm soát tỷ giá, giảm tình trạng căng thẳng ngoại tệ
12
Kinh tế Vĩ mô 2 Nhóm 11
và ảnh hưởng của nó tới mặt bằng lãi suất nội tệ. Để tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp và dân cư trong xã hội tiếp cận được với vốn vay của hệ thống
ngân hàng theo tinh thần của các gói giải pháp kích cầu của chính phủ cũng
như tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại hoạt động ổn định và hiệu
quả, ngân hàng nhà nước đã hạ lãi suất chỉ đạo từ 14% xuống 7% , hạ thấp tỉ
lệ dự trữ bắt buộc từ 11% xuống 5%. Trước những diễn biến không thuân lợi
của thị trường ngoại hối , để tăng nguồn cung và ổn định thị trường, ngân
hàng nhà nước đã triển khai quyết liệt nhiều giải pháp như mở rộng iên độ ấn
định tỷ giá mua bán USD/VND của các ngân hàng thương mại từ +/- 3% lên
+/-5% so với tỷ giá bình quân, điều tiết cung cầu ngoại tệ trên thị trường.
• Chính sách tiền tệ áp dụng năm 2010
Nhờ vận dụng chính sách tiền tệ linh hoạt, có thể nói những khó khăn
nhất đã qua. Nhưng những chính sách điều hành chính sách tiền tệ năm 2009
sẽ có những tác động đến năm 2010, đặc biệt di đặc thù “ độ trễ “ của chính
sách đối với thị trường thường kéo dài. Việc thực thi chính sách tiền tệ năm
2010 sẽ vấp phải những khó khăn phát sinh từ những vấn đề manh tính căn
nguyên , đó là thâm hụt thương mại, thâm hụt ngân sách kéo dài, hiệu quả sử
dụng vốn đầu tư thấp, nguy cơ lạm phát gia tăng và sự phuch hồi chưa chắc
chắn của kinh tế thế giới.
Đánh giá được những khó khăn trên, tại hội nghị triển khai nhiệm vụ
của ngành ngân hàng năm 2010, Thủ tướng chính phủ Nguyễn Tấn Dũng

đánh giá cao vai trò của chính sách tiền tệ trong ổn định kinh tế nền vĩ mô,
kiềm chế lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thủ tướng chỉ đạo năm
2010 ngành ngân hàng tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt, thận
trọng tốt hơn để góp phần vào việc thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế năm
2010.
13
Kinh tế Vĩ mô 2 Nhóm 11
Trong năm 2010, để thực hiện hiệu quả các mục tiêu do Quốc hội,
chính phủ đề ra và sự chỉ đạo trực tiếp của thủ tướng, ngân hàng nhà nước
định hướng, mục tiêu giải pháp lớn về điều hành chính sách tiền tệ và hoạt
động ngân hàng như sau : Tập trung hoàn thiện thể chế về tiền tệ và hoạt
động ngân hàng , trọng tâm là hoàn thiện 2 dự thảo Luật ngân hàng nhà nước
và Luật các tổ chức tín dụng để trình Quốc hội khóa XII thông qua tại kì họp
thứ 7. Đòng thời thực hiện có hiệu quả các chính sách hỗ trợ lãi suất của
chính phủ, điều hành chính sách tiền tệ một cách thận trọng, linh hoạt theo
nguyên tắc thị trường , đáp ứng mục tiêu tăng trưởng, kiềm chế lạm phát do
Quốc hội đề ra. Bên cạnh đó, thực hiện ổn định thị trường ngoại hối, thị
trường vàng trong nước, tăng cường năng lục, nâng cao chất lượng thống kê,
dự báo tiền tệ và các cân thanh toán quốc tế, đẩy mạnh thanh toán không
dùng tiền mặt, kiểm soát chặt chẽ nợ quá hạn , đảm bảo an toàn các hệ thống ,
các tổ chức tín dụng ,
2.3 Năm 2011
Trong bối cảnh kinh tế đất nước đầu năm 2011, nói đến kinh tế vĩ mô là
chúng ta nói đến lạm phát, tăng trưởng, thâm hụt ngân sách, thâm hụt cán cân
thương mại, cán cân vãng lai và cán cân thanh toán tổng thế, tỷ lệ giữa đầu tư
và tích lũy, tỷ lệ thất nghiệp, biến động của tỷ giá và dự trữ ngoại hối nhà
nước, tỷ lệ nợ quốc gia, tỷ lệ nợ công…. Các chỉ số và tỷ lệ trong các lĩnh vực
nêu trên phụ thuộc lẫn nhau, tác động qua lại và đan xen lẫn nhau, và trong
nhiều trường hợp lại có tính triệt tiêu lẫn nhau (được chỉ tiêu này lại mất chỉ
tiêu kia). Do vậy, tùy theo tình hình, đặc điểm của mỗi nước trong từng giai

đoạn mà người ta quyết định chỉ tiêu nào là chỉ tiêu tiên quyết phải đạt được,
các chỉ tiêu khác là các chỉ tiêu thỏa hiệp, sẵn sàng nhân nhượng, hay nói một
cách khác là sẵn sàng điều chỉnh để nhằm đạt được các chỉ tiêu tiên quyết.
14
Kinh tế Vĩ mô 2 Nhóm 11
Kết luận 02-KL/TW của Bộ Chính trị cũng như Nghị quyết 11/NQ-CP
của Chính phủ đã chỉ rõ những chủ trương, chính sách, giải pháp đồng bộ cho
các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương nhằm kiềm chế lạm phát,
ổn định kinh tế vĩ mô. Với Nghị quyết 11/NQ-CP Chính phủ chủ trương thực
hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương:
• Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, phối hợp hài
hòa giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để kiềm chế lạm phát; điều
hành và kiểm soát để bảo đảm tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2011 dưới
20%, tổng phương tiện thanh toán khoảng 15 - 16%; tập trung ưu tiên vốn tín
dụng phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh, nông nghiệp, nông thôn, xuất
khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa; giảm tốc độ và tỷ trọng
vay vốn tín dụng của khu vực phi sản xuất, nhất là lĩnh vực bất động sản,
chứng khoán.
• Điều hành chủ động, linh hoạt, hiệu quả các công cụ chính sách
tiền tệ, nhất là các loại lãi suất và lượng tiền cung ứng để bảo đảm kiềm chế
lạm phát.
• Điều hành tỷ giá và thị trường ngoại hối linh hoạt, phù hợp với
diễn biến thị trường. Tăng cường quản lý ngoại hối, thực hiện các biện pháp
cần thiết để các tổ chức, cá nhân trước hết là các tập đoàn kinh tế, tổng công
ty nhà nước bán ngoại tệ cho ngân hàng khi có nguồn thu và được mua khi có
nhu cầu hợp lý, bảo đảm thanh khoản ngoại tệ, bình ổn tỷ giá, đáp ứng yêu
cầu ổn định, phát triển sản xuất kinh doanh và tăng dự trữ ngoại hối.
• Kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh vàng; trong quý II năm
2011 trình Chính phủ ban hành Nghị định về quản lý hoạt động kinh doanh

vàng theo hướng tập trung đầu mối nhập khẩu vàng, tiến tới xóa bỏ việc kinh
15
Kinh tế Vĩ mô 2 Nhóm 11
doanh vàng miếng trên thị trường tự do; ngăn chặn hiệu quả các hoạt động
buôn lậu vàng qua biên giới.
• Phối hợp chặt chẽ với Bộ Công an, Bộ Công Thương, Ủy ban
nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các cơ quan chức
năng kiểm tra, giám sát việc tuân thủ các quy định về thu đổi ngoại tệ, kinh
doanh vàng. Ban hành quy định và chế tài xử lý vi phạm, kể cả việc đình chỉ,
rút giấy phép hoạt động, thu tài sản; quy định khen, thưởng đối với việc phát
hiện các hành vi vi phạm hoạt động thu đổi, mua bán ngoại tệ, vàng. Xử lý
nghiêm theo pháp luật đối với hành vi cố tình vi phạm.
2.4 Năm 2012
Bức tranh tổng thể nền kinh tế Việt Nam 2012 đầy khó khăn và những
kết quả cũng như vấn đề còn tồn tại đã rõ nét - đây cũng là cơ sở để hoạch
định kế hoạch, giải pháp cho năm 2013 và năm tiếp theo. Trong quá trình đó,
cơ chế, chính sách của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đối với việc kiềm chế
lạm phát, giữ ổn định giá trị tiền đồng và ổn định kinh tế vĩ mô được nhìn
nhận là điều hành chặt chẽ, phát huy được công năng, giữ được sự ổn định
của đồng nội tệ và tỉ giá ngoại hối.
Vì vậy, chính sách tiền tệ tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp:
• Tiếp tục cơ chế chính sách về tỷ giá và quản lý thị trường ngoại
hối; hoạt động ngoại hối của các ngân hàng thương mại; đảm bảo tôn trọng
nguyên tắc thị trường và sự nghiêm minh trong thực hiện qui định về quản lý
• Ngoại hối của NHNN, đảm bảo trật tự thị trường. Nếu thực hiện
tốt giải pháp này sẽ đảm bảo tiếp tục phát huy kết quả đạt được trong thời
gian qua về sự ổn định và phát triển của thị trường ngoại hối, phục vụ cho
tăng trưởng kinh tế, góp phần trực tiếp đảm bảo giữ ổn định tiền đồng và
kiềm chế lạm phát.
16

Kinh tế Vĩ mô 2 Nhóm 11
• Tăng trưởng tín dụng hợp lý, phù hợp với lạm phát mục tiêu và
đặc biệt phải đảm bảo an toàn, hiệu quả; vốn luân chuyển hiệu quả, chất
lượng, phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế;
đồng thời đảm bảo thu hồi nợ đối với tổ chức tín dụng. Đây là giải pháp
không mới, song bản chất và nguyên tắc đòi hỏi mọi tổ chức tín dụng phải
tuân thủ và thực hiện thường xuyên. Bài học về tăng trưởng tín dụng nóng,
tăng trưởng tín dụng không hiệu quả, phát sinh nợ xấu đã và đang tác động
không nhỏ đến một số tổ chức tín dụng và làm chậm quá trình luân chuyển
vốn trong toàn bộ nền kinh tế.
• Tập trung xử lý nợ xấu. Nợ xấu phát sinh và gia tăng ảnh hưởng
rất lớn không chỉ đối với hoạt động của các định chế tài chính mà còn trực
tiếp đến luân chuyển vốn trong toàn bộ nền kinh tế. Sự ứ đọng vốn, luân
chuyển vốn chậm trong nền kinh tế đã và đang phản ánh sự hấp thụ vốn kém
của nền kinh tế và tác động tiêu cực từ nợ xấu của doanh nghiệp, của ngân
hàng đối với tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, cần tập trung các giải pháp để xử lý
nợ xấu. Trên cơ sở đánh giá nợ xấu, quy mô nợ xấu, bản chất nợ để phân loại
nợ xấu.
Trong ngắn hạn, trước hết các tổ chức tín dụng cần chủ động xử lý nợ
xấu thông qua các công ty mua bán và xử lý tài sản của ngân hàng thương
mại qua quỹ dự phòng rủi ro. Để tạo thuận lợi cho quá trình này, cần tiếp tục
tạo điều kiện về thủ tục (giảm nhanh thời gian thi hành án; thủ tục công
chứng chuyển nhượng tài sản bảo đảm và các vấn đề khác có liên quan…)
cho các ngân hàng thương mại xử lý nhanh tài sản bảo đảm để bán thu hồi nợ.
• Giải quyết hàng tồn kho. Đây là giải pháp quan trọng mang tầm
vĩ mô, nhằm tăng khả năng hấp thụ vốn, tạo sự luân chuyển vốn trong nền
kinh tế, tạo điều kiện cho doanh nghiệp luân chuyển vốn và trả nợ vay ngân
17
Kinh tế Vĩ mô 2 Nhóm 11
hàng. Trong đó, chi tiêu công, hoặc gói hỗ trợ từ Chính phủ có ý nghĩa quan

trọng.
• Khắc phục tồn tại khó khăn và đảm bảo nền kinh tế đất nước tăng
trưởng ổn định, bền vững; thay đổi mô hình tăng trưởng trong trung dài hạn
phụ thuộc rất lớn vào quá trình tái cơ cấu nền kinh tế. Trong đó, hiệu quả quá
trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng có ý nghĩa quan trọng. Liên quan đến vấn
đề này, cần tiếp tục thực hiện việc tái cơ cấu các ngân hàng thương mại theo
đề án đã đề ra; xử lý tồn tại yếu kém; ổn định thanh khoản, duy trì hoạt động
và tăng trưởng bền vững.
III. Đánh giá
1.Thành công, hạn chế và nguyên nhân
Năm 2007:
• Thành công:
Với việc thực thi CSTT như trên về cơ bản đạt được mục tiêu đề ra là
ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ
vốn tạo môi trường thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế. Điều này thể hiện ở
những kết quả sau:
- Qui mô thị trường tiền tệ mở rộng và ổn định, không để xảy ra những
cú sốc về lãi suất và tỷ giá trước những biến động khó lường của tình hình thị
trường tài chính quốc tế.
+ Lãi suất thị trường liên ngân hàng mặc dù có biến động mạnh trong
vài ngày giữa tháng 11/2007, song, nhìn chung, mặt bằng lãi suất trong năm
ổn định: lãi suất huy động và cho vay của Tổ chức tín dụng (TCTD) vẫn giữ
được ổn định và có xu hướng giảm nhẹ so với cuối năm 2006, tạo điều kiện
cho việc huy động vốn và đầu tư cho tăng trưởng kinh tế.
+ Tỷ giá danh nghĩa giao động nhẹ và có xu hướng giảm (VND lên giá
nhẹ), trong bối cảnh lạm phát gia tăng đã góp phần tích cực trong việc ổn
18
Kinh tế Vĩ mô 2 Nhóm 11
định lãi suất VND và ổn định thị trường tiền tệ. Mặt khác, tỷ giá thực thấp
hơn tỷ giá hối đoái danh nghĩa trên thị trường, cho nên tác động khuyến khích

xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, hỗ trợ ổn định lãi suất VND.
- Diến biến tổng phương tiện thanh toán mặc dù tăng cao nhưng cơ cấu
thây đổi theo chiều hướng tích cực: Tỷ lệ ngoại tệ trên tổng tiền gửi từ mức
25,9% năm 2006 xuống còn 22,6% năm 2007 - giảm mức độ đô la hoá của
nền kinh tế.
- Hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế
+ Trong hoạt động đầu tư tín dụng của các TCTD có những diễn biến
tích cực, các sản phẩm dịch vụ tín dụng đã được đa dạng hơn, nhiều lĩnh vực
cho vay đầu tư được mở rộng, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có nhiều điều
kiện thuận lợi tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng, cho vay phát triển nông
nghiệp nông thôn, cho vay chính sách hỗ trợ các hộ nghèo, hộ sản xuất kinh
doanh vùng khó khăn cũng được mở rộng, góp phần tích cực thực hiện mục
tiêu xoá đói giảm nghèo. Bên cạnh đó, việc cho vay tiêu dùng cũng được mở
ra rất đa dạng đáp ứng đầy đủ các nhu cầu của xã hội.
+ Tín dụng đầu tư vào thị trường chứng khoán được kiểm soát chặt chẽ
và giảm dần cả số tuyệt đối và tỷ lệ dư nợ qua các tháng, góp phần thúc đẩy
thị trường chứng khoán phát triển ổn định. Tín dụng đối với lĩnh vực bất động
sản cũng được theo dõi, giám sát chặt chẽ nhằm góp phần hạn chế những tiềm
ẩn rủi ro trong hoạt động ngân hàng và thúc đẩy thị trường bất động sản phát
triển bến vững.
+ Chất lượng tín dụng được cải thiện: Tỷ lệ nợ xấu tháng 9/2006 là
2,2%, có xu hướng giảm so với tỷ lệ nợ xấu tháng 12/2006 (2,64%), trong đó
tỷ lệ nợ xấu của các nhóm TCTD đều giảm.
• Hạn chế và nguyên nhân
19
Kinh tế Vĩ mô 2 Nhóm 11
Năm 2007, thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt. Tăng trưởng tín dụng
cao (53,9%) dẫn đến lạm phát tăng cao (12,63%). Năm 2007 có sự chuyển
dịch vốn sang các lĩnh vực khác như đầu tư kinh doanh chứng khoán, bất
động sản, vàng và cho vay tiêu dùng. Vốn đầu tư nước ngoài nhiều, tăng cung

ngoại tệ, gây sức ép đồng Việt Nam lên giá, thị trường chứng khoán phát
triển làm tăng dư nợ cho vay của nền kinh tế, giá dầu thô, lương thực tăng.
Chính sách tiền tệ phải thực hiện cả 2 mục tiêu là tăng trưởng kinh tế và kìm
chế lạm phát. Điều đó là không thể.
Năm 2008:
• Thành công
- Thành công bước đầu trong kiềm chế lạm phát :
Trong hai tháng 3 và 4 chúng ta đã hạn chế được phần nào sự gia tăng
của CPI so với mức 3,56% của tháng 2. Cụ thể, tháng 3 CPI đã giảm xuống
còn 2,99%, đến tháng 4 tiếp tục giảm xuống còn 2,2% . Thế nhưng, như đã
biết, đến tháng 5 thì CPI lại tiếp tục tăng vọt lên 3,91 % so với tháng 4, khiến
cho CPI của cả 5 tháng đầu năm đã tăng đến mức 15,96% so với cuối năm
2007. Thế nhưng đến tháng 6 vừa qua, do những nỗ lực phấn đấu kiềm chế
lạm phát, CPI đã giảm mạnh, chỉ còn khoảng 2,14%, thấp hơn nhiều so với
chỉ số của tháng 5 là 3,91% và là con số thấp nhất từ đầu năm đến nay.
- Tăng niềm tin về sự đúng đắn trong chính sách tiền tệ
Mức lãi suất huy động tiền VND phổ biến từ 17-17,5%/năm (khối các
ngân hàng thương mại nhà nước) và 17,5-18%/năm (khối các ngân hàng
thương mại cổ phần). Và hầu hết các ngân hàng thương mại đã điều chỉnh lãi
suất cho vay về sát mức tối đa 21%/năm và đã ngừng thu tất cả mọi loại phí.
- Có sự cải thiện dần các chỉ số lạm phát và thâm hụt thương mại,
và do đó mối lo về cuộc khủng hoảng tiền tệ đã dịu đi.
20
Kinh tế Vĩ mô 2 Nhóm 11
Từ tháng 6, 7/2008 trở lại đây, tốc độ tăng CPI trên thị trường trong
nước đã chững lại khá rõ rệt dù chưa thật vững chắc. Chỉ số CPI cả nước
trong tháng 8/2008 còn 1,56%. Thanh toán quốc tế vẫn được duy trì ổn định,
sự căng thẳng thâm hụt trong cán cân thanh toán trong tháng 4 và 5/2008
đang dần được cải thiện, nguy cơ về một sự suy giảm mạnh thị trường tiền tệ
đã dịu đi, tuy rằng áp lực do tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại, trong khi lãi

suất huy động và cho vay không thể giảm sâu nhanh được. Thị trường nội tệ
và ngoại tệ đã có sự ổn định trở lại sau cú sốc tỷ giá và thiếu tính thanh khoản
trên thị trường trong quý II/2008
- Điều hành linh hoạt công cụ chính sách tiền tệ : NHNN đã áp
dụng nhiều công cụ chính sách tiền tệ để chặn lạm phát bao gồm: Tăng tỷ lệ
bắt buộc; phát hành tín phiếu; tăng lãi suất; nới lỏng biên độ tỷ giá để VNĐ
tăng giá so với USD Các công cụ này triển khai nhằm hút tiền từ lưu thông
nhưng vẫn đảm bảo tính thanh khoản cho nền kinh tế và thị trường, điều hành
linh hoạt tỷ giá theo tín hiệu thị trường. Đồng thời, NHNN đã tăng cường
công tác thanh tra, giám sát hoạt động của thị trường ngoại hối và của các tổ
chức tín dụng, hạn chế tăng trưởng tín dụng quá nóng có thể gây mất an toàn
hệ thống của các tổ chức tín dụng.
Sau khi áp dụng chính sách thắt chặt, NHNN đã từng bước nới lỏng
chính sách tiền tệ, mũi tên mang nhiều mục đích này nhằm kịp thời điều
chỉnh giảm lãi suất cơ bản, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, nâng lãi suất trả cho tiền gửi
dự trữ bắt buộc để tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng giảm lãi suất cho
vay.
- Cơ bản hoàn thành nhiệm vụ được giao, bảo đảm an toàn cho nền
kinh tế.
Qua một năm đầy sóng gió nhưng hoạt động của hệ thống Ngân hàng
đã góp phần quan trọng kiềm chế lạm phát, hạn chế nhập siêu, duy trì tăng
21
Kinh tế Vĩ mô 2 Nhóm 11
trưởng kinh tế. Thị trường tiền tệ giữ được bình ổn. Lãi suất, tỷ giá biến động
ở mức hợp lý. Khả năng thanh khoản của các tổ chức tín dụng được đảm bảo.
Tín dụng tăng trưởng ở mức phù hợp, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho tăng
trưởng kinh tế. Hoạt động của các tổ chức tín dụng vẫn đảm bảo an toàn và có
bước phát triển.
• Hạn chế và nguyên nhân
Năm 2008, nước ta tiếp tục thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ khiến

các ngân hàng tăng lãi suất. Các doanh nghiệp vay vốn khó khăn hơn. Tăng
trưởng kinh tế kém. Chình phủ cũng đưa ra biên độ dao động tỷ giá +/-2%,
ngoại tệ mất giá, các doanh nghiệp thu nhỏ sản xuất, tăng cường nhập siêu.
Điều đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến cán cân thương mại.
Năm 2009:
• Thành công
Thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng có kiểm soát, giảm lãi suất, tạo
điều kiện để hệ thống ngân hàng hoạt động hiệu quả, giảm tình trạng ảnh
hưởng của ngoại tệ đến nội tệ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn
(hạ lãi suất từ 14% xuống 7%. Hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 11% xuống 5%),
mở rộng biên độ ấn định tỷ giá mua bán USD/VNĐ từ +/-3% lên +/-5%. Kết
quả là giảm lạm phát từ 19,98% xuống còn 6,52%.
• Hạn chế và nguyên nhân
Năm 2009, chúng ta chuyển sang chính sách tiền tệ nới lỏng có kiểm
soát. Cán cân thương mại hàng hoá thâm hụt 10,95 tỷ USD, thâm hụt ngân
sách 6,5% GDP dẫn đến vay nợ nhiều nên giảm giá đồng nội tệ. Tốc độ tăng
trưởng tín dụng cao nhưng chưa đáp ứng nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp.
Chính sách của nhà nước lại hỗ trợ giảm lãi suất, nên đồng Việt nam giảm giá
đồng thời kích thích nhu cầu sử dụng tiền VND. Kết quả là nội tệ khan hiếm.
Năm 2010:
22
Kinh tế Vĩ mô 2 Nhóm 11
• Thành công
Giảm mặt bằng lãi suất thị trường bằng cách điều hành được lượng tiền
cung ứng thông qua các công cụ chính sách tiền tệ để đáp ứng nhu cầu thanh
khoản của các ngân hàng thương mại và nền kinh tế hoặc thực hiện cho vay
theo cơ chế lãi suất thỏa thuận bằng VND. Bên cạnh đó thực hiện các giải
pháp hỗ trợ khu vực nông nghiệp, nông thôn. Nhà nước cũng điều hành tỉ giá
và thực hiện các biện pháp quản lý ngoại hối chống suy giảm dự trữ ngoại hối
Nhà nước, kiểm soát nhập siêu. Về hoạt động tín dụng tương đối ổn định

(ước tăng 29,81% so với cuối năm 2009), huy động vốn tăng 27,2%
• Hạn chế và nguyên nhân
Năm 2010, Nợ xấu đang ở mức độ nguy hiểm chứ không chỉ đơn giản
là một điều bình thường của hệ thống ngân hàng. Các ngân hàng huy động
vốn ngắn hạn cho vay dài hạn một cách lỏng lẻo. khả năng thanh khoản. Do
vậy các ngân hàng buộc phải chạy đua lãi suất để tồn tại và áp đặt chi phí lên
xã hội. Nhà nước vô tình đã tiếp tay cho quá trình trên bằng tuyên bố không
cho ngân hàng nào phá sản. Khi lãi suất và nợ xấu tăng đến một mức độ báo
động, tình trạng suy giảm tín dụng xảy ra càng làm cho nợ xấu thêm trầm
trọng.
Năm 2011
• Thành công
Năm 2011, có thể khẳng định, việc tập chung thực hiện các giải pháp
chính sách đề ra trong hai Nghị quyết 02/NQ-CP và 11/NQ-Cp đã góp phần tạo
ra những chuyển biến tích cực về phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
- Việt Nam đã kiểm soát được lạm pháp, cơ bản giữ được ổn định
kinh tế vĩ mô, gắn với đó là duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh, đảm bảo an
sinh xã hội. trong đó, tăng trưởng GDP đạt khoảng 6%, CPI cả năm là 18,13%,
đây là một cố gắng vượt bậc.
23
Kinh tế Vĩ mô 2 Nhóm 11
- Bên cạnh đó tổng phương tiện thanh toán và tín dụng đã được kiểm
soát ở mức thấp hơn đáng kể so với chỉ tiêu đã đề ra trong Nghị quyết 11.
- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (SBV) đã điều chỉnh mục tiêu trần
tăng trưởng tín dụng từ 23% xuống còn 20% trong năm, và tăng trưởng nguồn
cung tiền (M2) trong năm 2011 từ 21-24% xuống còn 15-16%. Cả hai mục tiêu
này đều được điều chỉnh thấp hơn khá nhiều so với năm 2010 (năm 2010 tín
dụng tăng ở mức 32,4% và M2 tăng 33,3%).
• Hạn chế
Chính phủ sử dụng chính sách thắt chặt tiền tệ. Ngân hàng nhà nước đã

kiểm soát tăng trưởng tín dụng 2011 dưới 20%. Tuy nhiên, việc áp dụng
chung cho tất cả các tổ chức tín dụng (TCTD) chưa phù hợp, khi TCTD hoạt
động lành mạnh có thể tăng trưởng cao hơn và với các TCTD hoạt động yếu
kém cần phải hạn chế tăng trưởng tín dụng. Tỷ trọng dư nợ cho vay phi sản
xuất được áp dụng chung cho tất cả các loại hình TCTD chưa phù hợp với
một số trường hợp có hoạt động kinh doanh đặc thù. Trong tháng 10, một số
ngân hàng gặp khó khăn tạm thời về thanh khoản đã ảnh hưởng tới hoạt động
của các TCTD khác, gây biến động trên thị trường liên ngân hàng và tạo ra
dư luận không tốt đối với hoạt động kinh doanh của hệ thống TCTD. Một số
hạn chế của hệ thống ngân hàng về thanh khoản, nợ xấu đang ngày càng bộc
lộ rõ khi NHNN triển khai các biện pháp nhằm lập lại trật tự, kỷ cương trong
lĩnh vực ngân hàng.
Năm 2012:
• Thành công
Các chỉ tiêu tiền tệ tăng trưởng hợp lý, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức
vĩ mô 5,03%. Mặt bằng lãi suất huy động và cho vay đã giảm mạnh (Lãi suất
huy động giảm từ 3 - 6%/năm, lãi suất cho vay giảm 5 - 9%/năm so với cuối
24
Kinh tế Vĩ mô 2 Nhóm 11
năm 2011). Lãi suất tái cấp vốn đã giảm từ 15% xuống còn 10%, lãi suất
chiết khấu đã giảm từ 13% xuống còn 8%, và trần lãi suất huy động kỳ hạn
ngắn ngày (từ 14% xuống còn 9%)
Cuối năm 2012 tín dụng tăng 6,45% so với cuối năm 2011. Thị trường
ngoại hối và tỷ giá ổn định, cuối năm 2012 tỷ giá mua trung bình của các
ngân hàng thương mại giảm 0,96% so với cuối năm 2011.
• Hạn chế và nguyên nhân
- Một là: Nợ xấu gia tăng và kéo dài sẽ ảnh hưởng và tác động đến
nền kinh tế: làm giảm vai trò trung gian tài chính của các ngân hàng; các doanh
nghiệp khó tiếp cận được vốn để tiến hành sản xuất kinh doanh; nguy cơ làm
mất ổn định hệ thống ngân hàng và thị trường tài chính; làm chậm tốc độ tăng

trưởng kinh tế ; đặc biệt nợ xấu gia tăng sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả điều hành
chính sách tiện tệ.
- Hai là: Tiến độ tái cấu trúc nền kinh tế nói chung, tái cấu trúc hệ
thống ngân hàng nói riêng còn chậm so với kế hoạch đề ra. Việc chậm tái cấu
trúc nền kinh tế nói chung, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng nói riêng theo chủ
trương của các cấp, sẽ làm giảm hiệu quả trong việc điều hành chính sách tiền tệ
25

×