Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

Tình hình huy động và sử dụng vốn ODA ở Việt Nam thời gian qua

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (831.65 KB, 52 trang )

Mục lục
Lời Mở Đầu
Chương I - Tổng quan về ODA.
1. Nguồn gốc ra đời ODA
2. Khái niệm ODA
3. Các hình thức ODA
4. Phân loại ODA
5. Các nguồn cung cấp ODA chủ yếu
6. Quy trình thực hiện dự án ODA
7. Đặc điểm của nguồn vốn ODA
8. Vai trò của nguồn vốn ODA
8.1.Đối với nước xuất khẩu vốn
8.2.Đối với nước tiếp nhận vốn
8.3.Đối với sự phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam
a. ODA là nguồn bổ sung vốn quan trọng cho đầu tư phát triển:
b. ODA là nguồn bổ sung vốn quan trọng cho đầu tư phát triển:
c. ODA giúp cho việc tiếp thu những thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại
và phát triển nguồn nhân lực:
d. ODA giúp cho việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế:
e. ODA góp phần tăng khả năng thu hút FDI và tạo điều kiện để mở rộng
đầu tư phát triển.
Chương II - Thực trạng huy động và sử dụng ODA ở VN trong thời gian qua.
1. Thực trạng huy động ODA
1.1. Chiến lược huy động ODA của Việt Nam
1.2. Các nhà tài trợ và lĩnh vực ưu tiên tài trợ cho Việt Nam
1.3. Huy động vốn ODA qua các thời kì
2. Thực trạng sử dụng ODA
2.1. Thực trạng giải ngân nguồn vốn ODA
2.2. Tình hình phân bổ ODA theo ngành kinh tế.
2.3. Tình hình phân bổ ODA theo vùng kinh tế.
Chương III - Thành tựu và hạn chế trong quá trình huy động và sử dụng vốn ODA tại


Việt Nam.
1. Thành tựu trong quá trình huy động vốn ODA vào Việt Nam
1.1. Khối lượng vốn đầu tư
1.2. Cơ cấu vốn đầu tư
2. Thành tựu trong quá trình sử dụng vốn ODA tại Việt Nam
3. Một số hạn chế trong quá trình huy động và sử dụng vốn ODA
4. Nguyên nhân
4.1. Nguyên nhân thành công
4.2. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế
Chương IV - Giải pháp.
1. Giải pháp tăng cường huy động vốn ODA vào Việt Nam
2. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA tại Việt Nam
Kết luận
Lời mở đầu
Trong giai đoạn hiện nay, vốn là một hoạt động vật chất quan trọng cho mọi
hoạt động của nền kinh tế. Nhu cầu về vốn đang nổi lên như một vấn đề cấp bách.
Đầu tư và tăng trưởng vốn là một cặp phạm trù của tăng trưởng kinh tế, để thực hiện
chiến lược phát triển nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay ở nước ta cần đến một
lượng vốn lớn.
Vốn cho phát triển kinh tế - xã hội luôn là vấn đề quan trọng và cấp bách trong
cuộc sống hiện nay và nhiều năm tới ở nước ta. Đến nay, sự nghiệp đổi mới do Đảng
ta khởi xướng và lãnh đạo đã thu được những thành tựu to lớn và rất quan trọng.
Chúng ta đang khơi dậy và phát huy mạnh mẽ sức mạnh nội sinh, ra sức cần kiệm để
đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Đồng thời chúng ta cũng cố gắng
thu hút các nguồn đầu tư, viện trợ nước ngoài và sử dụng chúng một cách hợp lý, kịp
thời, có hiệu quả.
Đương nhiên để duy trì những thành quả đã đạt được của nền kinh tế qua
những năm đổi mới, giữ vững nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao, tránh cho đất nước rơi
vào tình trạng tụt hậu so với trong khu vực và trên thế giới. Cũng như các nước đang
phát triển khác, trong chủ trương chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và

Nhà nước ta, nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là một trong những
nguồn vốn nước ngoài có ý nghĩa quan trọng. Tuy nhiên, vốn ODA không thể thay
thế được vốn trong nước, à chỉ là “chất xúc tác”, tạo điều kiện để khai thác tối đa và
hiệu quả mọi nguồn vốn phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất
nước
Hơn nữa, kinh nghiệm thu hút sử dụng vốn từ bên ngoài của nhiều nước trên
thế giới cho thấy không phải lúc nào ODA cũng mang lại hiệu quả tốt. ODA như con
dao hai lưỡi, nếu sử dụng khéo sẽ hỗ trợ thực sự cho công cuộc phát triển kinh tế - xã
hội. Nếu ngược lại sẽ dẫn tới hậu quả gánh nợ nặng nần khó trả cho nhiều thế hệ.
Trong một số trường hợp viện trợ đã không làm giảm được tình trạng nghèo khổ, mà
trái lại có khi nó còn làm trầm trọng thêm tình trang này do tệ quan liêu, tham nhũng
cũng như việc xử lý và phân bổ không hợp lý nguồn viện trợ ở các nước nhận viện
trợ. Vấn đề đặt ra là làm sao khai thác được mặt tốt của ODA và đồng thời cũng hạn
chế được tác động và hậu quả không tốt của nó.
Đề tài: “Tình hình huy động và sử dụng vốn ODA ở Việt Nam thời gian qua”
chính là một lựa chọn nhằm góp phần tìm ra lời giải đáp cho vấn đề trên.
Mục đích nghiên cứu đề tài là nhằm hệ thống hóa các vấn đề lý luận và thực
tiễn về nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức đồng thời đánh giá khái quát thực trạng
quản lý và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ và phát triển chính thức ở Việt Nam những năm
qua. Trên cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản
lý và sử dụng nguồn vốn phát triển hỗ trợ phát triển chính thức ở Việt Nam trong
những năm tới.
CHƯƠNG I
Tổng quan về ODA
1. Nguồn gốc ra đời ODA:
Sau đại chiến thế giới thứ II các nước công nghiệp phát triển đã thoả thuận về
sự trợ giúp dưới dạng viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay với điều kiệm ưu đãi cho
các nước đang phát triển. Tổ chức tài chính quốc tế WB( Ngân hàng thế giới) đã
được thành lập tại hội nghị về tài chính- tiền tệ tổ chức tháng 7 năm 1944 tại Bretton
Woods( Mỹ) với mục tiêu là thúc đẩy phát triển kinh tế và tăng trưởng phúc lợi của

các nước với tư cách như là một tổ chức trung gian về tài chính, một ngân hàng thực
sự với hoạt động chủ yếu là đi vay theo các điều kiện thương mại bằng cách phát
hành trái phiếu để rồi cho vay tài trợ đầu tư tại các nước.
Tiếp đó một sự kiện quan trọng đã diễn ra đó là tháng 12 năm 1960 tại Pari các
nước đã ký thoả thuận thành lập tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển( OECD). Tổ
chức này bao gồm 20 thành viên ban đầu đã đóng góp phần quan trọng nhất trong
việc dung cấp ODA song phương cũng như đa phương. Trong khuôn khổ hợp tác
phát triển , các nước OECD đã lập ra các uỷ ban chuyên môn trong đó có uỷ ban hỗ
trợ phát triển ( DAC) nhằm giúp các nước đang phát triển phát triển kinh tế và nâng
cao hiệu quả đầu tư.
2. Khái niệm ODA
Theo cách hiểu chung nhất, ODA là tất cả các khoản hỗ trợ không hoàn lại và
các khoản tín dụng ưu đãi (cho vay dài hạn và lãi suất thấp của các Chính phủ, các tổ
chức thuộc hệ thống Liệp hợp quốc, các tổ chức phi Chính phủ (NGO), các tổ chức
tài chính quốc tế (IMF, ADB, WB ) giành cho các nước nhận viện trợ. ODA được
thực hiện thông qua việc cung cấp từ phía các nhà tài trợ các khoản viện trợ không
hoàn lại, vay ưu đãi về lãi suất và thời hạn thanh toán (theo định nghĩa của OECD,
nếu ODA là khoản vay ưu đãi thì yếu tố cho không phải đạt 25% trở lên). Về thực
chất, ODA là sự chuyển giao một phần GNP từ bên ngoài vào một quốc gia, do vậy
ODA được coi là một nguồn lực từ bên ngoài.
3. Các hình thức ODA
3.1. Hỗ trợ cán cân thanh toán:
Thường là tài trợ trực tiếp (chuyển giao tiền tệ. Nhưng đôi khi lại là hiện vật
(hỗ trợ hàng hoá) như hỗ trợ nhập khẩu bằng hàng hoặc vận chuyển hàng hoá vào
trong nước qua hình thức hỗ trợ cán cân thanh toán hoặc có thể chuyển hoá thành hỗ
trợ ngân sách.
3.2. Tín dụng thương mại:
Với các điều khoản "mềm" (lãi suất thấp, hạn trả dài) trên thực tế là một dạng
hỗ trợ hàng hoá có ràng buộc.
3.3. Viện trợ chương trình (gọi tắt là viện trợ phi dự án):

Là viện trợ khi đạt được một hiệp định với đối tác viện trợ nhằm cung cấp một
khối lượng ODA cho một mục đích tổng quát với thời hạn nhất định, mà không xác
định một cách chính xác nó sẽ được sử dụng như thế nào.
3.4. Hỗ trợ cơ bản chủ yếu là về xây dựng cơ sở hạ tầng:
Thông thường, các dự án này có kèm theo một bộ phận không viện trợ kỹ thuật
dưới dạng thuê chuyên gia nước ngoài để kiểm tra những hoạt động nhất định nào đó
hoặc để soạn thảo, xác nhận các báo cáo cho đối tác viện trợ.
3.5. Hỗ trợ kỹ thuật:
Chủ yếu tập trung vào chuyển giao tri thức hoặc tăng cường cơ sở lập kế
hoạch, cố vấn nghiên cứu tình hình cơ bản, nghiên cứu khi đầu tư. Chuyển giao tri
thức có thể là chuyển giao công nghệ như thường lệ nhưng quan trọng hơn là đào tạo
về kỹ thuật, phân tích kinh tế, quản lý, thống kê, thương mại, hành chính nhà nước,
các vấn đề xã hội.
4. Phân loại ODA:
Tuỳ theo phương thức phân loại mà ODA được xem có mấy loại:
4.1. Phân theo phương thức hoàn trả: ODA có 3 loại.
- Viện trợ không hoàn lại: bên nước ngoài cung cấp viện trợ (mà bên nhận
không phải hoàn lại) để bên nhận thực hiện các chương trình, dự án theo sự thoả
thuận trước giữa các bên.
Viện trợ không hoàn lại thường được thực hiện dưới các dạng:
+ Hỗ trợ kỹ thuật.
+ Viện trợ bằng hiện vật.
- Viện trợ có hoàn lại: nhà tài trợ cho nước cần vốn vay một khoản tiền (tuỳ theo
một quy mô và mục đích đầu tư) với mức lãi suất ưu đãi và thời gian trả nợ thích hợp.
Những điều kiện ưu đãi thường là:
+ Lãi suất thấp (tuỳ thuộc vào mục tiêu vay và nước vay).
+ Thời hạn vay nợ dài (từ 20 - 30 năm)
+ Có thời gian ân hạn (từ 10 - 12 năm)
- ODA cho vay hỗn hợp: là các khoản ODA kết hợp một phần ODA không hoàn
lại và một phần tín dụng thương mại theo các điều kiện của tổ chức Hợp tác kinh tế

và phát triển.
4.2. Phân loại theo nguồn cung cấp, ODA có hai loại:
- ODA song phương: Là các khoản viện trợ trực tiếp từ nước này đến nước kia
thông qua hiệp định được ký kết giữa hai Chính phủ.
- ODA đa phương: là viện trợ chính thức của một tổ chức quốc tế (IMF, WB
1
)
hay tổ chức khu vực (ADB, EU, ) hoặc của một Chính phủ của một nước dành cho
Chính phủ của một nước nào đó, nhưng có thể được thực hiện thông qua các tổ chức
đa phương như UNDP (Chương trình phát triển Liên hiệp quốc), UNICEF (quĩ nhi
đồng Liên Hiệp quốc) có thể không.
Các tổ chức tài chính quốc tế cung cấp ODA chủ yếu:
+ Ngân hàng thế giới (WB).
+ Quĩ tiền tệ quốc tế (IMF).
+ Ngân hàng phát triển Châu á (ADB)
4.3. Phân loại theo mục tiêu sử dụng, ODA có 4 loại:
- Hỗ trợ cán cân thanh toán: gồm các khoản ODA cung cấp để hỗ trợ ngân sách
của Chính phủ, thường được thực hiện thông qua các dạng: chuyển giao trực tiếp cho
nước nhận ODA hay hỗ trợ nhập khẩu (viện trợ hàng hoá).
- Tín dụng thương mại: tương tự như viện trợ hàng hoá nhưng có kèm theo điều
kiện ràng buộc.
- Viện trợ chương trình (viện trợ phi dự án): Nước viện trợ và nước nhận viện
trợ kế hiệp định cho một mục đích tổng quát mà không cần xác định tính chính xác
khoản viện trợ sẽ được sử dụng như thế nào.
- Viện trợ dự án: chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn thực hiện ODA. Điều
kiện được nhận viện trợ dự án là "phải có dự án cụ thể, chi tiết về các hạng mục sẽ sử
dụng ODA".
5. Các nguồn cung cấp ODA chủ yếu:
5.1. Trong thời kỳ chiến tranh lạnh và đối đầu Đông Tây: Trên thế giới tồn tại 3
nguồn ODA chủ yếu:

- Liên xô cũ, Đông Âu.
- Các nước thuộc tổ chức OECD.
- Các tổ chức quốc tế và phi Chính phủ.
5.2. Hiện nay, trên thế giới có hai nguồn ODA chủ yếu: các nhà tài trợ đa phương,
và các tổ chức viện trợ song phương.
5.3. Các nhà tài trợ đa phương gồm các tổ chức chính thức sau:
- Các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hiệp Quốc bao gồm:
+ Chương trình phát triển của Liên Hiệp Quốc (UNDP).
+ Quĩ nhi đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF).
+ Tổ chức Nông nghiệp và lương thực (FAO)
+ Chương trình lương thực thế giới (WFP)
+ Quĩ dân số Liên Hiệp Quốc (UNFPA)
+ Tổ chức y tế thế giới (WHO)
+ Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên Hiệp Quốc (UNIDO)
+ Quĩ phát triển nông nghiệp quốc tế (IFDA).
- Các tổ chức tài chính quốc tế:
+ Quĩ tiền tệ quốc tế (IMF)
+ Ngân hàng thế giới (WB)
+ Ngân hàng phát triển Châu á (ADB)
- Liên minh Châu Âu (EU).
- Các tổ chức phi Chính phủ (NGO)
- Tổ chức xuất khẩu dầu mỡ (OPEC)
- Quĩ Cô - Oét.
5.4. Các nước viện trợ song phương:
- Các nước thành viên Uỷ ban Hỗ trợ phát triển (DAC) của tổ chức Hợp tác và
phát triển kinh tế (OECD).
- Các nước đang phát triển.
6. Quy trình thực hiện dự án ODA:
Mỗi quốc gia có những quy định riêng đối với các cách quản lý và điều hành
nguồn vốn này. Dưới đây là một số nội dung về quy định của pháp luật Việt Nam liên

quan đến các vấn đề xung quanh các hoạt động thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA.
6.1. Quy hoạch ODA.
Bộ kế hoạch - Đầu tư căn cứ vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; quy
hoạch tổng thể và kế hoạch hàng năm chủ trì việc điều phối với các Bộ, các cơ quan
ngang Bộ, các cơ quan thuộc Chính phủ có liên quan để nghiên cứu chủ trương và
phương hướng vận động ODA, soạn thảo quy hoạch ODA và lập các danh mục
chương trình, dự án ưu tiên sử dụng ODa trình Chính phủ phê duyệt.
6.2. Vận động ODA:
Sau khi quy hoạch ODA và các danh mục các chương trình dự án ưu tiên sử
dụng ODA được Chính phủ phê duyệt; Bộ Kế hoạch - Đầu tư phối hợp với các cơ
quan liên quan chuẩn bị và tổ chức các hoạt động vận động ODA thông qua:
- Hội nghị nhóm tư vấn hàng năm.
- Các hội nghị điều phối viện trợ ngành.
- Các cuộc trao đổi ý kiến về hợp tác phát triển với các nhà tài trợ.
Trước khi tiến hành vận động ODA, các cơ quan, địa phương liên quan cần phải
trao đổi ý kiến với Bộ Kế hoạch và Đầu tư về chính sách, khả năng và thế mạnh của
các nhà tài trợ liên quan.
6.3. Chuẩn bị nội dung các chương trình, dự án ODA:
Sau khi đạt được sự cam kết hỗ trợ của các nhà tài trợ đối với các chương trình,
dự án cụ thể, Bộ Kế hoạch - Đầu tư sẽ phối hợp cùng các đối tác tiến hành chuẩn bị
nội dung các chương trình, dự án ODA bao gồm lập đề án, lập báo cáo tiền khả thi,
báo cáo khả thi
6.4. Thẩm định, phê duyệt chương trình, dự án ODA:
Việc thẩm định và phê duyệt các dự án sử dụng nguồn ODA như sau:
- Các dự án đầu tư xây dựng cơ bản phải thực hiện theo quy định của Điều lệ
quản lý xây dựng cơ bản hiện hành (Nghị định 52/CP, 12/CP và các văn bản hướng
dẫn thuộc lĩnh vực này).
- Đối với các dự án hỗ trợ ngân sách, đào tạo, tăng cường thể chế Bộ Kế
hoạch - Đầu tư chủ trì, phối hợp với các cơ quan chức năng có liên quan tiến hành
thẩm định, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định. Trong quá trình thẩm định có đề

cập tới ý kiến tham gia của các bên cung cấp ODA.
- Các dự án của các tổ chức phi Chính phủ thực hiện theo Quyết định số 80/CT
ngày 28/3/1991 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là thủ tướng Chính phủ).
6.5. Đàm phán ký kết:
Sau khi nội dung đàm phán với bên nước ngoài được Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt, Bộ Kế hoạch - Đầu tư chủ trì với sự tham gia của Văn phòng Chính phủ,
Bộ Tài chính, Bộ Ngoại giao, Ngân hàng nhà nước Việt Nam và các cơ quan liên
quan tiến hành đàm phán với bên nước ngoài.
Trong trường hợp Thủ tướng Chính phủ chỉ định một cơ quan khác chủ trì đàm
phán với các bên nước ngoài thì cơ quan này phải thống nhất ý kiến với Bộ Kế
hoạch - Đầu tư về nội dung đàm phán và với Bộ Tài chính về hạn mức và điều kiện
vay trả (nếu là ODA hoàn lại).
Kết thúc đàm phán, nếu đạt được các thoả thuận với bên nước ngoài thì cơ
quan chủ trì đàm phán phải báo cáo Thủ tướng Chính phủ về nội dung làm việc, kết
quả đàm phán và những ý kiến đề xuất có liên quan.
Nếu văn bản ODA ký với bên nước ngoài là Nghị định thư, Hiệp định hoặc
văn kiện khác về ODA cấp Chính phủ thì cơ quan được Thủ tướng Chính phủ chỉ
định đàm phán phải báo cáo Thủ tướng Chính phủ nội dung văn bản dự định ký kết
và các đề xuất người thay mặt Chính phủ ký các văn bản đó. Văn bản trình Thủ tướng
Chính phủ phải kèm theo ý kiến chính thức bằng văn bản của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
(trường hợp cơ quan khác trình Thủ tướng Chính phủ), Bộ ngoại giao, Bộ Tư pháp,
Bộ Tài chính.
Trong trường hợp Nghị định thư và Hiệp định hoặc các văn bản khác về ODA
yêu cầu phải ký kết với danh nghĩa Nhà nước Công hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Bộ Kế hoạch - Đầu tư (hoặc cơ quan khác với Chính phủ chỉ định đàm phán) phải
báo cáo với văn phòng Chủ tịch nước ngay từ khi bắt đầu đàm phán với bên nước
ngoài về nội dung các văn kiện dự định ký kết, đồng thời thực hiện các thủ tục Quy
định tại điều 6 khoản 3, điều 7 và điều 8 của Nghị định 182/HĐBT ngày 28/5/1992
của Chính phủ.
6.6. Quản lý thực hiện:

Bộ Kế hoạch - Đầu tư phối hợp cùng với Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam lập kế hoạch bố trí vốn đối ứng trong kế hoạch Ngân sách nhà nước và
thực hiện cấp phát theo đúng cam kết tại các Điều ước Quốc tế về ODA đã ký và các
quyết định phê duyệt chương trình, dự án đầu tư sử dụng vốn ODA. Đồng thời có
trách nhiệm theo dõi, kiểm tra tình hình thực hiện, xử lý những vấn đề liên quan
thuộc thẩm quyền trong quá trình thực hiện và kiến nghị Thủ tướng Chính phủ xem
xét và quyết định các biện pháp xử lý, báo cáo tổng hợp tình hình thực hiện các
chương trình, dự án sử dụng vốn ODA.
Bộ Tài chính được xác định là đại diện chính thức cho "người vay" hoặc là Nhà
nước hoặc Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong các điều ước
quốc tế cụ thể về ODA cho vay, có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan liên quan
xây dựng cơ chế quản lý tài chính (cấp phát, cho vay lại, thu hồi vốn ) đối với các
chương trình, dự án ODA.
Trong quá trình thực hiện, Ngân hàng nhà nước có trách nhiệm phối hợp với Bộ
Tài chính chỉ định các Ngân hàng Thương mại để uỷ quyền thực hiện việc cho vay lại
từ vốn ODA như đã nêu tại điểm điều khoản 3 điều 14 của Quy chế về quản lý và sử
dụng ODA ban hành kèm theo Nghị định 87/CP ngày 5/8/1997 của Chính phủ, thu
hồi vốn trả nợ ngân sách, đồng thời tổng hợp theo định kỳ thông báo cho Bộ Tài
chính và cơ quan liên quan tình hình thực tế về rút vốn, thanh toán thông qua hệ
thống tài khoản được mở tại ngân hàng của các chương trình, dự án sử dụng vốn
ODA.
Trong quá trình thực hiện chương trình, dự án ODA tùy theo quy định và thoả
thuận với bên nước ngoài, các chủ trương, dự án chịu trách nhiệm tổ chức các cuộc
kiểm định kỳ hoặc đột xuất. Đại diện của Bộ Kế hoạch - Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ
ngoại giao, Ngân hàng nhà nước Việt Nam, văn phòng Chính phủ là đại diện của
Chính phủ tại các cuộc kiểm điểm này.
Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, UBND tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương và các
chủ chương trình, dự án lập báo cáo 6 tháng và hàng năm về tình hình thực hiện các
chương trình và dự án ODA gửi về Bộ Kế hoạch - Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng
nhà nước Việt Nam, Bộ ngoại giao, và Văn phòng Chính phủ.

6.7. Đánh giá:
Sau khi kết thúc, giám đốc chương trình, dự án ODA phải làm báo cáo về tình
hình thực hiện và có phân tích, đánh giá hiệu quả dự án với sự xác nhận của cơ quan
chủ quản và gửi về Bộ Kế hoạch - Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam, Bộ Ngoại giao, và Văn phòng Chính phủ.
7. Đặc điểm của nguồn vốn ODA:
Như đã nêu trong khái niệm ODA là các khoản viện trợ không hoàn lại, viện
trợ có hoàn lại hoặc tín dụng ưu đãi. Do vậy, ODA có những đặc điểm chủ yếu sau:
7.1. Vốn ODA mang tính ưu đãi:
Vốn ODA có thời gian cho vay( hoàn trả vốn dài), có thời gian ân hạn dài.
Chẳng hạn, vốn ODA của WB, ADB, JBIC có thời gian hoàn trả là 40 năm và thời
gian ân hạn là 10 năm.
Thông thường, trong ODA có thành tố viện trợ không hoàn lại( cho không),
đây cũng chính là điểm phân biệt giữa viện trợ và cho vay thương mại. Thành tố cho
không được xác định dựa vào thời gian cho vay, thời gian ân hạn và so sánh lãi suất
viện trợ với mức lãi suất tín dụng thương mại. Sự ưu đãi ở đây là so sánh với tập
quán thương mại quốc tế.
Sự ưu đãi còn thể hiện ở chỗ vốn ODA chỉ dành riêng cho các nước đang và
chậm phát triển, vì mục tiêu phát triển. Có hai điều kiện cơ bản nhất để các nước
đang và chậm phát triển có thể nhận được ODA là:
Điều kiện thứ nhất: Tổng sản phẩm quốc nội( GDP) bình quân đầu người thấp.
Nước có GDP bình quân đầu người càng thấp thì thường được tỷ lệ viện trợ không
hoàn lại của ODA càng lớn và khả năng vay với lãi suất thấp và thời hạn ưu đãi càng
lớn.
Điều kiện thứ hai: Mục tiêu sử dụng vốn ODA của các nước này phải phù hợp
với chính sách và phương hướng ưu tiên xem xét trong mối quan hệ giữa bên cấp và
bên nhận ODA. Thông thường các nước cung cấp ODA đều có những chính sách và
ưu tiên riêng của mình, tập trung vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay có khả
năng kỹ thuật và tư vấn. Đồng thời, đối tượng ưu tiên của các nước cung cấp ODA
cũng có thể thay đổi theo từng giai đoạn cụ thể. Vì vậy, nắm bắt được xu hướng ưu

tiên và tiềm năng của các nước, các tổ chức cung cấp ODA là rất cần thiết.
Về thực chất, ODA là sự chuyển giao có hoàn lại hoặc không hoàn lại trong
những điều kiện nhất định một phần tổng sản phẩm quốc dân từ các nước phát triển
sang các nước đang phát triển. Do vậy, ODA rất nhạy cảm về mặt xã hội và chịu sự
điều chỉnh của dư luận xã hội từ phía nước cung cấp cũng như từ phía nước tiếp nhận
ODA.
7.2. Vốn ODA mang tính ràng buộc:
ODA có thể ràng buộc ( hoặc ràng buộc một phần hoặc không ràng buộc) nước
nhận về địa điểm chi tiêu. Ngoài ra mỗi nước cung cấp viện trợ cũng đều có những
ràng buộc khác và nhiều khi các ràng buộc này rất chặt chẽ đối với nước nhận. Ví dụ,
Nhật Bản quy định vốn ODA của Nhật đều được thực hiện bằng đồng Yên Nhật.
Vốn ODA mang yếu tố chính trị: Các nước viện trợ nói chung đều không quên
dành được lợi ích cho mình vừa gây ảnh hưởng chính trị vừa thực hiện xuất khẩu
hàng hoá và dịch vụ tư vấn vào nước tiếp nhận viện trợ. Chẳng hạn, Bỉ, Đức và Đan
Mạch yêu cầu khoảng 50% viện trợ phải mua hàng hoá dịch vụ của nước mình.
Canada yêu cầu tới 65%. Nhìn chung 22% viện trợ của DAC phải được sử dụng để
mua hàng hoá và dịch vụ của các quốc gia viện trợ.
Kể từ khi ra đời cho tới nay, viện trợ luôn chứa đựng hai mục tiêu cùng tồn tại
song song. Mục tiêu thứ nhất là thúc đẩy tăng trưởng bền vững và giảm nghèo ở các
nước đang phát triển. Động cơ nào đã thúc đẩy các nhà tài trợ đề ra mục tiêu này?
Bản thân các nước phát triển nhìn thấy lợi ích của mình trong việc hỗ trợ, giúp đỡ các
nước đang phát triển để mở mang thị trường tiêu thụ sản phẩm và thị trường đầu tư.
Viện trợ thường gắn với các điều kiện kinh tế xét về lâu dài, các nhà tài trợ sẽ có lợi
về mặt an ninh, kinh tế, chính trị khi kinh tế các nước nghèo tăng trưởng. Mục tiêu
mang tính cá nhân này được kết hợp với tinh thần nhân đạo, tính cộng đồng. Vì một
số vấn đề mang tính toàn cầu như sự bùng nổ dân số thế giới, bảo vệ môi trường
sống, bình đẳng giới, phòng chống dịch bệnh, giải quyết các xung đột sắc tộc, tôn
giáo v.v đòi hỏi sự hợp tác, nỗ lực của cả cộng đồng quốc tế không phân biệt nước
giàu, nước nghèo. Mục tiêu thứ hai là tăng cường vị thế chính trị của các nước tài trợ.
Các nước phát triển sử dụng ODA như một công cụ chính trị: xác định vị thế và ảnh

hưởng của mình tại các nước và khu vực tiếp nhận ODA. Ví dụ, Nhật Bản hiện là nhà
tài trợ hàng đầu thế giới và cũng là nhà tài trợ đã sử dụng ODA như một công cụ đa
năng về chính trị và kinh tế. ODA của Nhật không chỉ đưa lại lợi ích cho nước nhận
mà còn mang lại lợi ích cho chính họ. Trong những năm cuối thập kỷ 90, khi phải đối
phó với những suy thoái nặng nề trong khu vực, Nhật Bản đã quyết định trợ giúp tài
chính rất lớn cho các nước Đông nam á là nơi chiếm tỷ trọng tương đối lớn về mậu
dịch và đầu tư của Nhật Bản, Nhật đã dành 15 tỷ USD tiền mặt cho các nhu cầu vốn
ngắn hạn chủ yếu là lãi suất thấp và tính bằng đồng Yên và dành 15 tỷ USD cho mậu
dịch và đầu tư có nhân nhượng trong vòng 3 năm. Các khoản cho vay tính bằng đồng
Yên và gắn với những dự án có các công ty Nhật tham gia.
Viện trợ của các nước phát triển không chỉ đơn thuần là việc trợ giúp hữu nghị
mà còn là một công cụ lợi hại để thiết lập và duy trì lợi ích kinh tế và vị thế chính trị
cho các nước tài trợ. Những nước cấp tài trợ đòi hỏi nước tiếp nhận phải thay đổi
chính sách phát triển cho phù hợp vơí lợi ích của bên tài trợ. Khi nhận viện trợ các
nước nhận cần cân nhắc kỹ lưỡng những điều kiện của các nhà tài trợ không vì lợi ích
trước mắt mà đánh mất những quyền lợi lâu dài. Quan hệ hỗ trợ phát triển phải đảm
bảo tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
7.3. ODA là nguồn vốn có khả năng gây nợ:
Khi tiếp nhận và sử dụng nguồn vốn ODA do tính chất ưu đãi nên gánh nặng
nợ thường chưa xuất hiện. Một số nước do không sử dụng hiệu quả ODA có thể tạo
nên sự tăng trưởng nhất thời nhưng sau một thời gian lại lâm vào vòng nợ nần do
không có khả năng trả nợ. Vấn đề là ở chỗ vốn ODA không có khả năng đầu tư trực
tiếp cho sản xuất, nhất là cho xuất khẩu trong khi việc trả nợ lại dựa vào xuất khẩu
thu ngoại tệ. Do đó, trong khi hoạch định chính sách sử dụng ODA phải phối hợp với
các nguồn vốn để tăng cường sức mạnh kinh tế và khả năng xuất khẩu.
8. Vai trò của nguồn vốn ODA:
ODA thể hiện mối quan hệ đối ngoại giữa hai bên cung cấp và bên tiếp nhận.
Tuy vậy, đối với mỗi bên nó sẽ mang một ý nghĩa khác nhau.
8.1. Đối với nước xuất khẩu vốn:

Viện trợ song phương tạo điều kiện cho các công ty của bên cung cấp hoạt
động thuận lợi hơn tại các nước nhận viện trợ một cách gián tiếp. Cùng với sự gia
tăng của vốn ODA, các dự án đầu tư của những nước viện trợ cũng tăng theo với
những điều kiện thuận lợi, đồng thời kéo theo sự gia tăng về buôn bán giữa hai quốc
gia. Ngoài ra, nước viện trợ còn đạt được những mục đích về chính trị, ảnh hưởng
của họ về mặt kinh tế - văn hoá đối với nước nhận cũng sẽ tăng lên.
Nguồn ODA đa phương mặc dù cũng có ưu điểm giúp các nước tiếp nhận khôi
phục và phát triển kinh tế, nhưng nó cũng có mặt tiêu cực ở chỗ dễ tạo ra nạn tham
nhũng trong các quan chức Chính phủ hoặc phân phối giàu nghèo trong các tầng lớp
dân chúng nếu không có những chính sách kiểm soát và quản lý chặt chẽ việc sử
dụng nguồn vốn này trong nước.
Điều nguy hiểm nhất có thể xảy ra của viện trợ ODA là các nước cung cấp
không nhằm cải tạo nền kinh tế - xã hội của nước đang phát triển mà nhằm vào các
mục đích quân sự.
8.2. Đối với các nước tiếp nhận:
Tầm quan trọng của ODA đối với các nước đang và kém phát triển là điều
không thể phủ nhận. Điều này được thể hiện rõ qua những thành công mà các nước
tiếp nhận ODA đã đạt được.
Đầu tiên, trong khi các nước đang phát triển đa phần là trong tình trạng thiếu
vốn trầm trọng nên thông qua ODA song phương có thêm vốn để phục vụ cho quá
trình phát triển kinh tế - xã hội. ODA mang lại nguồn lực cho đất nước.
Thứ nữa, theo các nhà kinh tế, việc sử dụng viện trợ ở các nước đang phát triển
nhằm loại bỏ sự thiếu vốn và ngoại tệ, tăng đầu tư vốn đến điểm mà ở đó sự tăng
trưởng kinh tế tạo điều kiện cho các nước này đạt được đến quá trình tự duy trì và
phát triển.
Tạo điều kiện để các nước tiếp nhận có thể vay thêm vốn của các tổ chức quốc
tế, thực hiện việc thanh toán nợ tới hạn qua sự giúp đỡ của ODA.
ODA còn có thể giúp các nước đang lâm vào tình trạng phá giá đồng nội tệ có
thể phục hồi đồng tiền của nước mình thông qua những khoản hỗ trợ lớn của các tổ
chức tài chính quốc tế mang lại.

ODA giúp các nước nhận hỗ trợ tạo ra những tiền đề đầu tiên, đặt nền móng cho
sự phát triển về lâu dài thông qua lĩnh vực đầu tư chính của nó là nâng cấp cơ sở hạ
tầng về kinh tế.
ODA tác động tích cực đến phát triển kinh tế xã hội của các địa phương và vùng
lãnh thổ, đặc biệt là ở các thành phố lớn: nguồn vốn này trực tiếp giúp cải thiện điều
kiện về vệ sinh y tế, cung cấp nước sạch, bảo vệ môi trường. Đồng thời nguồn ODA
cũng góp phần tích cực trong việc phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, phát triển nông
nghiệp, xoá đói giảm nghèo
ODA giúp các doanh nghiệp nhỏ trong nước có thêm vốn, tạo điều kiện nâng
cao hiệu quả đầu tư cho sản xuất kinh doanh, dần dần mở rộng qui mô doanh nghiệp.
Ngoài ra ODA còn giúp các nước nhận viện trợ có cơ hội để nhập khẩu máy
móc thiết bị cần thiết cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, từ các
nước phát triển. Thông qua nước cung cấp ODA nước nhận viện trợ có thêm nhiều cơ
hội mới để tham gia vào các tổ chức tài chính thế giới, đạt được sự giúp đỡ lớn hơn
về vốn từ các tổ chức này.
Bên cạnh những mặt tích cực, ODA cũng có không ít những mặt hạn chế. Hạn
chế rõ nhất của viện trợ phát triển chính thức ODA là các nước nếu muốn nhận được
nguồn vốn này phải đáp ứng các yêu cầu của bên cấp viện trợ. Mức độ đáp ứng càng
cao thì viện trợ tăng lên càng nhiều.
Ngay ở trong một nước, tình trạng tập trung ODA vào các thành phố trọng điểm
cũng tạo nên sự mất cân đối trong cơ cấu kinh tế - xã hội của quốc gia đó, làm cho hố
ngăn cách giàu nghèo thành thị và nông thôn càng trở nên cách biệt.
Cho đến nay, mặc dù bối cảnh quốc tế đã có nhiều biến đổi, song mục tiêu và lợi
ích của các nước cấp vốn theo đuổi hầu như không thay đổi so với trước đây: tập
trung cho an ninh của hệ thống TBCN, tuyên truyền dân chủ kiểu phương tây, trói
buộc sự phát triển kinh tế của các quốc gia phụ thuộc thế giới thứ ba vào trong một
trật tự tự do mà các trung tâm tự bản đã sắp đặt khuyến khích tự do hoá kinh tế để mở
đường cho tư bản nước ngoài tràn vào
8.3. Đối với phát triển kinh tế xã hội tại Việt Nam:
Xuất phát từ kinh nghiệm của các nước trong khu vực như: Hàn Quốc,

Malaixia và từ tình hình thực tế trong nước, trong những năm gần đây Việt Nam đã
và đang thực hiện chiến lược phát triển kinh tế với xu hướng mở rộng và đa dạng hoá
các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Một trong những mục tiêu chính trong chiến lược
này là thu hút ODA cho phát triển kinh tế. Vai trò của ODA được thể hiện ở một số
điểm chủ yếu sau:
f. ODA là nguồn bổ sung vốn quan trọng cho đầu tư phát triển:
Sự nghiệp CNH, HĐH mà Việt Nam đang thực hiện đòi hỏi một khối lượng
vốn đầu tư rất lớn mà nếu chỉ huy động trong nước thì không thể đáp ứng được. Do
đó, ODA trở thành nguồn vốn từ bên ngoài quan trọng để đáp ứng nhu cầu vốn cho
đầu tư phát triển. Trải qua hai cuộc chiến tranh những cơ sở hạ tầng kỹ thuật của
chúng ta vốn đã lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề hầu như không còn gì,
nhưng cho đến nay hệ thống kết cấu hạ tầng đã được phát triển tương đối hiện đại với
mạng lưới điện, bưu chính viễn thông được phủ khắp tất cả các tỉnh, thành phố trong
cả nước, nhiều tuyến đường giao thông được làm mới, nâng cấp, nhiều cảng biển,
cụm cảng hàng không cũng được xây mới, mở rộng và đặc biệt là sự ra đời của các
khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao đã tạo ra một môi trường hết sức
thuận lợi cho sự hoạt động của các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Bên cạnh đầu
tư cho phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật một lượng lớn vốn ODA đã
được sử dụng để đầu tư cho việc phát triển ngành giáo dục, y tế, hỗ trợ phát triển
ngành nông nghiệp …
g. ODA giúp cho việc tiếp thu những thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại và
phát triển nguồn nhân lực:
Một trong những yếu tố quan trọng góp phần đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH
đất nước đó là yếu tố khoa học công nghệ và khả năng tiếp thu những thành tựu khoa
học tiên tiến của đội ngũ lao động. Thông qua các dự án ODA các nhà tài trợ có
những hoạt động nhằm giúp Việt Nam nâng cao trình độ khoa học công nghệ và phát
triển nguồn nhân lực như: cung cấp các tài liệu kỹ thuật, tổ chức các buổi hội thảo
với sự tham gia của những chuyên gia nước ngoài, cử các cán bộ Việt Nam đi học ở
nước ngoài, tổ chức các chương trình tham quan học tập kinh nghiệm ở những nước
phát triển, cử trực tiếp chuyên gia sang Việt Nam hỗ trợ dự án và trực tiếp cung cấp

những thiết bị kỹ thuật, dây chuyền công nghệ hiện đại cho các chương trình, dự án.
Thông qua những hoạt động này các nhà tài trợ sẽ góp phần đáng kể vào việc nâng
cao trình độ khoa học, công nghệ và phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam và đây
mới chính là lợi ích căn bản, lâu dài đối với chúng ta.
h. ODA giúp cho việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế:
Các dự án ODA mà các nhà tài trợ dành cho Việt Nam thường ưu tiên vào phát
triển cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật, phát triển nguồn nhân lực tạo điều kiện thuận lợi
cho việc phát triển cân đối giữa các ngành, các vùng khác nhau trong cả nước. Bên
cạnh đó còn có một số dự án giúp Việt Nam thực hiện cải cách hành chính nâng cao
hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước. Tất cả những điều đó góp phần
vào việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế ở Việt Nam.
i. ODA góp phần tăng khả năng thu hút FDI và tạo điều kiện để mở rộng đầu
tư phát triển.
Các nhà đầu tư nước ngoài khi quyết định bỏ vốn đầu tư vào một nước, trước
hết họ quan tâm tới khả năng sinh lợi của vốn đầu tư tại nước đó. Do đó, một cơ sở
hạ tầng yếu kém như hệ thống giao thông chưa hoàn chỉnh, phương tiện thông tin liên
lạc thiếu thốn và lạc hậu, hệ thống cung cấp năng lượng không đủ cho nhu cầu sẽ làm
nản lòng các nhà đầu tư vì những phí tổn mà họ phải trả cho việc sử dụng các tiện
nghi hạ tầng sẽ lên cao. Một hệ thống ngân hàng lạc hậu cũng là lý do làm cho các
nhà đầu tư e ngại, vì những chậm trễ, ách tắc trong hệ thống thanh toán và sự thiếu
thốn các dịch vụ ngân hàng hỗ trợ cho đầu tư sẽ làm phí tổn đầu tư gia tăng dẫn tới
hiệu quả đầu tư giảm sút.
Như vậy, đầu tư của chính phủ vào việc nâng cấp, cải thiện và xây mới các cơ
sở hạ tầng, hệ thống tài chính, ngân hàng đều hết sức cần thiết nhằm làm cho môi
trường đầu tư trở nên hấp dẫn hơn. Nhưng vốn đầu tư cho việc xây dựng cơ sở hạ
tầng là rất lớn và nếu chỉ dựa vào vốn đầu tư trong nước thì không thể tiến hành được
do đó ODA sẽ là nguồn vốn bổ sung hết sức quan trọng cho ngân sách nhà nước. Một
khi môi trường đầu tư được cải thiện sẽ làm tăng sức hút dòng vốn FDI. Mặt khác,
việc sử dụng vốn ODA để đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng sẽ tạo điều kiện cho các nhà
đầu tư trong nước tập trung đầu tư vào các công trình sản xuất kinh doanh có khả

năng mang lại lợi nhuận.
Rõ ràng là ODA ngoài việc bản thân nó là một nguồn vốn bổ sung quan trọng
cho phát triển, nó còn có tác dụng nâng cao trình độ khoa học, công nghệ, điều chỉnh
cơ cấu kinh tế và làm tăng khả năng thu hút vốn từ nguồn FDI góp phần quan trọng
vào việc thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
CHƯƠNG II
Thực trạng huy động và sử dụng vốn ODA tại
Việt Nam thời gian qua.
1. Thực trạng huy động vốn ODA tại Việt Nam:
1.1. Chiến lược huy động vốn ODA của Việt Nam:
Nhận thức được rằng ODA là một nguồn lực có ý nghĩa quan trọng từ bên
ngoài và xuất phát từ xu hướng vận động và những ưu tiên của nhà tài trợ chính phủ
Việt Nam luôn luôn coi trọng và quan tâm đến việc huy động các nguồn ODA. Trước
hết, để duy trì lòng tin đối với các nhà tài trợ nhằm duy trì các nguồn cung cấp ODA
đang khai thác chính phủ Việt Nam đã tạo ra một khung pháp lý cho việc khai thác và
sử dụng nguồn vốn ODA thông qua việc ban hành các chính sách và các văn bản
pháp lý điều tiết các hoạt động liên quan đến ODA. Cụ thể:
Trước năm 1993, việc quản lý và sử dụng ODA được điều tiết bởi từng quyết
định riêng lẻ của chính phủ đối với từng chương trình, dự án ODA và từng nhà tài trợ
cụ thể. Để quản lý vay và trả nợ nước ngoài một cách có hệ thống nhà nước ban hành
nghị định số 58/Cp ngày 30/8/1993 về quản lý và trả nợ nước ngoài, nghị định số
20/CP ngày 20/4/1994 về quản lý nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức. Trên cơ sở
tổng kết thực tiễn và yêu cầu đổi mới quản lý từ năm 1997- 1999 chính phủ ban hành
nghị định 87/1997/NĐ-CP ngày 5/8/1997 thay thế nghị định 20/CP và nghị định số
90/1998/NĐ-CP ngày 7/1/1998 thay thế cho nghị định 58/CP về quy chế vay và trả
nợ nước ngoài đã góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, phân công trách
nhiệm rõ ràng giữa các cơ quan của chính phủ, các Bộ, Ngành, Địa phương và các tổ
chức kinh tế trong việc quản lý, sử dụng vốn vay nước ngoài. Để hoàn thiện hơn nữa
cơ chế quản lý, ngày 4/5/2001 chính phủ đã ban hành nghị định số 17/2001/NĐ-CP
về việc ban hành quy chế quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức thay

thế cho nghị định 87 CP nói trên. Các văn bản này đã tạo ra hành lang pháp lý trong
việc quản lý và sử dụng vay nợ nước ngoài góp phần thực hiện hiệu quả các chương
trình, dự án sử dụng ODA tạo niềm tin cho các nhà tài trợ và điều đó sẽ tạo thuận lợi
cho việc huy động tài trợ của các nhà tài trợ. Bên cạnh đó, để tăng khối lượng nhận
viện trợ Việt Nam cũng đã chủ động tìm kiếm các nguồn cung cấp ODA, tăng cường,
mở rộng các mối quan hệ với các quốc gia, tổ chức quốc tế, chủ động đưa ra những
khó khăn, những lĩnh vực cần được hỗ trợ với các nhà tài trợ và đưa ra những cam
kết trong việc quản lý và sử dụng vốn của các nhà tài trợ.
1.2. Các nhà tài trợ và lĩnh vực ưu tiên tài trợ cho Việt Nam:
Trên thế giới hiện nay có 4 nguồn cung cấp ODA chủ yếu là: Các nước thành
viên của DAC; Liên Xô cũ và các nước Đông Âu; Một số nước arập và một số nước
đang phát triển. Trong các nguồn này ODA từ các nước thành viên DAC là lớn nhất.
Bên cạnh ODA từ các quốc gia thì ODA từ các tổ chức viện trợ đa phương cũng
chiếm một khối lượng lớn trong đó bao gồm: Các tổ chức thuộc hệ thống Liên hợp
quốc, Liên minh châu âu(EU), các tổ chức phi chính phủ(NGO), các tổ chức tài chính
quốc tế( WB, ADB, IMF)…
Đối với Việt Nam trước năm 1993 nguồn viện trợ chủ yếu từ Liên Xô và các
nước Đông Âu nhưng kể từ khi nối lại quan hệ với cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế
năm 1993 thì cho đến nay tại Việt Nam có trên 45 tổ chức tài trợ chính thức đang
hoạt động với khoảng 1500 dự án ODA và trên 350 tổ chức phi chính phủ đang có tài
trợ cho Việt Nam.

×