Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

NHÀ NƯỚC VÀ VẤN ĐỀ NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY Ở NƯỚC TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.29 KB, 22 trang )

Tiểu luận triết học
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI:
NHÀ NƯỚC VÀ VẤN ĐỀ NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC
TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY Ở NƯỚC TA


Giáo viên hướng dẫn: Th.S Trần Huy Quang
Sinh viên : Nguyễn Đam-Ka
Lớp : A8- K2- TCNH- K48
Hà Nội, tháng 11 năm 2014
Nguy n am Ka Anh8 K2 TCNH K48ễ Đ
1
Tiểu luận triết học
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU……………………………………………………………………3
Chương I: Lí luận về Nhà nước
I/ Nguồn gốc và bản chất của Nhà nước………….…………………4
II/ Đặc trưng cơ bản của Nhà nước………………………….………6
III/ Chức năng cơ bản của Nhà nước…………………… ………….7
IV/ Các kiểu và hình thức Nhà nước………………………… ……8
V/ Nhà nước vô sản - Tính tất yếu và bản chất.…….………………10
VI/ Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là trụ cột của hệ thống
chính trị, là công cụ thực hiện quyền lực của nhân dân, là tổ chức thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam.…………………………………………………………………………11
Chương II: Vấn đề xây dựng Nhà nước ở nước ta hiện nay
I/ Tại sao phải nâng cao vai trò của Nhà nước.………………………13


II/ Cải cách thể chế và phương thức hoạt động của Nhà nước………15
KẾT LUẬN…………………………………………………………………21
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguy n am Ka Anh8 K2 TCNH K48ễ Đ
2
Tiểu luận triết học
LỜI NÓI ĐẦU
Vai trò của Nhà nước ở bất kỳ một quốc gia nào cũng đều rất to lớn.
Phương thức và hiệu quả quản lý của Nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp và quyết
định đối với sự phát triển về mọi mặt của quốc gia đó.
Việt Nam đã lựa chọn cho mình con đường tiến lên Chủ nghĩa xã hội và
xây dựng Nhà nước Xã hội chủ nghĩa. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh từ lâu đã
có quan điểm rõ ràng và đúng đắn về Nhà nước Xã hội chủ nghĩa đó là: “ Nhà
nước của dân, do dân, vì dân ”. Từ khi đổi mới đất nước, Đảng ta lại càng chú
trọng, vận dụng, phát triển, cụ thể hoá vấn đề Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Do vậy, sự quản lý của Nhà nước đối với mọi mặt của đời sống xã hội lại càng
ảnh hưởng mạnh mẽ đối với sự phát triển và bộ mặt của đất nước. Vấn đề nâng
cao vai trò của Nhà nước là một vấn đề hết sức hệ trọng; luôn được Đảng, Nhà
nước ta quan tâm, chú ý và đưa ra trong các kỳ Đại hội Đảng.
Mặc dù Nhà nước ta đã phát huy vai trò của mình một cách có hiệu quả
trong nhiều lĩnh vực của đất nước, nhưng không phải không có những hạn chế.
Với mong muốn tìm hiểu thêm những vấn đề của Nhà nước, quan điểm lý
luận cũng như những vướng mắc trong giải pháp, quy trình xử lý các vấn đề
chính trị - xã hội có liên quan đến quá trình tiến hành cải cách trong việc chuyển
đổi nền kinh tế, tôi chọn “ Nhà nước và vấn đề nâng cao vai trò của Nhà nước
trong điều kiện hiện nay ở nước ta ” làm đề tài cho tiểu luận triết học Mác -
Lênin. Dù rất cố gắng nhưng do vốn kiến thức còn hạn chế nên không thể tránh
khỏi những thiếu sót, rất mong sự góp ý của thầy.
Em xin chân thành cảm ơn !
Nguy n am Ka Anh8 K2 TCNH K48ễ Đ

3
Tiểu luận triết học
Chương I:
LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƯỚC
I/ NGUỒN GỐC VÀ BẢN CHẤT CỦA NHÀ NƯỚC:
Nguồn gốc và bản chất của Nhà nước là một vấn đề phức tạp, lý luận khoa
học về Nhà nước, về nguồn gốc và bản chất của Nhà nước; chỉ có thể có được
trên cơ sở những quan niệm biện chứng duy vật về sự phát triển xã hội.
1/ Nguồn gốc của Nhà nước:
Xã hội không phải khi nào cũng có Nhà nước. Nhà nước ra đời và tồn tại,
khi trong xã hội mâu thuân giai cấp tiến triển đến mức không thể điều hoà.
Xã hội cộng đồng nguyên thuỷ không có giai cấp, Nhà nước chưa xuất
hiện. Tổ chức đầu tiên của xã hội loài người phù hợp với tình trạng kinh tế còn
thấp kém, lúc bấy giờ là chế độ thị tộc, bộ lạc mà đứng đầu là các tộc trưởng, hội
đồng các tộc trưởng. Họ là những người do nhân dân bầu ra, chịu trách nhiệm
trước nhân dân, coi sóc công việc chung và có thể bị bãi miễn nếu nhân dân
không còn tín nhiệm. Trong tay họ không có và không cần một công cụ cưỡng
bức đặc biệt nào. Quyền hành và chức năng của các cơ quan đứng đầu các thị
tộc, bộ lạc không mang tính chất chính trị, đó mới chỉ là các tiền đề của quyền
lực Nhà nước.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất trong thời kỳ cuối của xã hội nguyên
thuỷ đã làm xuất hiện chế độ tư hữu và xã hội bị phân hoá thành những giai cấp
có lợi ích đối lập nhau. Cơ quan quản lý xã hội trong chế độ thị tộc, bộ lạc trở
nên bất lực và được thay thế bởi sự ra đời của bộ máy mới là Nhà nước.
V.I.Lênin nhấn mạnh: “ Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu
thuẫn giai cấp không thể điều hoà được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào
mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được, thì
Nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: Sự tồn tại của Nhà nước chứng tỏ rằng những
Nguy n am Ka Anh8 K2 TCNH K48ễ Đ
4

Tiểu luận triết học
mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hoà được ”. Nhà nước là một phạm trù lịch
sử, chỉ ra đời, tồn tại trong một giai đoạn nhất định của sự phát triển xã hội và sẽ
mất đi khi những cơ sở tồn tại của nó không còn nữa.
2/ Bản chất của Nhà nước:
Người lập ra và sử dụng bộ máy Nhà nước là giai cấp mạnh nhất, giai cấp
giữ địa vị thống trị về mặt kinh tế. Nhờ có Nhà nước, giai cấp này trở thành giai
cấp thống trị về mặt chính trị. Bản chất Nhà nước, do đó là quyền lực chính trị
của giai cấp thống trị về mặt kinh tế hay nói cách khác: “ Nhà nước chẳng qua
chỉ là một bộ máy của một giai cấp này dùng để trấn áp một giai cấp khác ”, là
bộ máy dung để duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác, là cơ
quan quyền lực của một giai cấp đối với toàn xã hội, là công cụ chuyên chính
của một giai cấp. Không có và không thể có Nhà nước đứng trên các giai cấp
hoặc Nhà nước chung cho mọi giai cấp.
Theo bản chất trên, Nhà nước không thể là lực lượng điều hoà sự xung đột
giai cấp, mà trái lại, nó càng làm cho mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt.
Nhà nước, cũng theo bản chất đó, là bộ máy quan trọng nhất của kiến trúc
thượng tầng trong xã hội có giai cấp. Tất cả các hoạt động chính trị, văn hoá, xã
hội do Nhà nước tiến hành xét cho cùng, đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp
thống trị.
Tuy nhiên cũng có trường hợp, Nhà nước giữ được một mức độ độc lập
nào đó đối với cả hai giai cấp đối địch, khi cuộc đấu tranh giữa chúng đạt tới thế
cân bằng nhất định; hoặc Nhà nước có thể thực hiện sự thoả hiệp về quyền lợi
tạm thời giữa các giai cấp để chống lại một giai cấp khác. Những trường hợp trên
có tính chất ngoại lệ và tạm thời. Đến một lúc nào đó, khi thế cân bằng giữa các
giai cấp thù địch bị phá vỡ, sự thoả hiệp tạm thời giữa các giai cấp thù địch với
Nguy n am Ka Anh8 K2 TCNH K48ễ Đ
5
Tiểu luận triết học
nhau không còn nữa tất yếu sẽ tập trung quyền lực vào tay một giai cấp nhất

định.
II/ ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA NHÀ NƯỚC:
Bản chất của Nhà nước được thể hiện ở đặc trưng của nó. Bất kỳ Nhà
nước nào cũng có 3 đặc trưng cơ bản như sau:
1/ Nhà nước quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định:
Nhà nước được hình thành trên cơ sở phân chia dân cư theo lãnh thổ mà
họ cư trú ( khác với tổ chức thị tộc, bộ lạc thời nguyên thủy được hình thành trên
cơ sở quan hệ huyết thống ). Quyền lực Nhà nước có hiệu lực với mọi thành viên
trong lãnh thổ. Đặc trưng này làm xuất hiện mối quan hệ giữa từng người trong
cộng đồng với Nhà nước. Mỗi Nhà nước được xác định bằng một biên giới quốc
gia nhất định.
2/ Nhà nước có một bộ máy quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng chế đối với
mọi thành viên trong xã hội:
Nhà nước của giai cấp thống trị nào cũng có một bộ máy quyền lực
chuyên nghiệp. Bộ máy quyền lực đó bao gồm các đội vũ trang đặc biệt ( quân
đội, cảnh sát nhà tù, viện kiểm sát ) và bộ máy quản lý hành chính. Nhà nước
thực hiện quyền lực của mình trên cơ sở sức mạnh cưỡng ép của pháp luật và
dùng các thiết chế bạo lực để pháp luật của mình được thực thi trong thực tế.
3/ Nhà nước hình thành hệ thống thuế khoá để duy trì và tăng cường bộ máy cái trị:
Nhà nước tồn tại dựa vào thuế khoá, quốc trái và các hình thức bóc lột
khác. Đó là những chế độ đóng góp có tính chất cưỡng chế để nuôi sống bộ máy
cai trị. Hệ thống thuế khoá, cống nạp như vậy hoàn toàn không có trong hình
thức tổ chức xã hội thị tộc, bộ lạc. Nó chỉ tồn tại gắn liền với hình thái tổ chức
Nhà nước. Bằng nhiều hình thức khác nhau như vậy, Nhà nước của giai cấp bóc
Nguy n am Ka Anh8 K2 TCNH K48ễ Đ
6
Tiểu luận triết học
lột không những là công cụ trấn áp giai cấp mà còn là công cụ thực hiện sự bóc
lột của các giai cấp bị áp bức.
III/ CHỨC NĂNG CƠ BẢN CỦA NHÀ NƯỚC:

Bản chất giai cấp của Nhà nước còn được thể hiện ở các chức năng của
nó:
1/ Chức năng thống trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội:
Chức năng thống trị chính trị của giai cấp là chức năng Nhà nước làm
công cụ chuyên chính của một giai cấp nhằm bảo vệ sự thống trị của giai cấp đó
đối với toàn thể xã hội. Chức năng giai cấp của Nhà nước bắt nguồn từ lí do ra
đời của Nhà nước và tạo thành bản chất chủ yếu của nó.
Chức năng xã hội của Nhà nước là chức năng Nhà nước thực hiện sự quản
lý những hoạt động chung vì sự tồn tại của xã hội, thoả mãn một số nhu cầu
chung của cộng đồng dân cư nằm dưới sự quản lý của Nhà nước.
Trong hai chức năng trên thì chức năng chính trị thống trị là cơ bản nhất,
chức năng xã hội phải phụ thuộc và phục vụ cho chức năng thống trị chính trị.
Giai cấp thống trị bao giờ cũng biết giới hạn chức năng xã hội trong khuôn khổ
lợi ích của mình. Song chức năng giai cấp chỉ có thể được thực hiện thông qua
chức năng xã hội. Ph.Ăngghen viết: “ Ở khắp nơi, chức năng xã hội là cơ sở của
sự thống trị chính trị; và sự thống trị chính trị cũng chỉ kéo dài chừng nào nó còn
thực hiện chức năng xã hội đó của nó ”.
2/ Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại:
Sự thống trị chính trị và sự thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước thể
hiện trong lĩnh vực đối nội cũng như trong đối ngoại.
a/ Chức năng đối nội:
Chức năng đối nội của Nhà nước nhằm duy trì trật tự kinh tế, xã hội, chính
trị và những trật tự khác hiện có trong xã hội theo lợi ích của giai cấp thống trị.
Nguy n am Ka Anh8 K2 TCNH K48ễ Đ
7
Tiểu luận triết học
Thông thường điều đó phải được pháp luật hoá và được thực hiện nhờ sự cưỡng
bức của bộ máy Nhà nước. Ngoài ra, Nhà nước còn sử dụng nhiều phương tiện
khác như bộ máy thông tin, tuyên truyền, các cơ quan văn hoá, giáo dục để xác
lập, củng cố tư tưởng, ý chí của giai cấp thống trị, làm cho chúng trở thành chính

thống trong xã hội.
b/ Chức năng đối ngoại:
Chức năng đối ngoại của Nhà nước nhằm bảo vệ biên giới lãnh thổ quốc
gia và thực hiện các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội với các Nhà nước khác
vì lợi ích của giai cấp thống trị cũng như lợi ích quốc gia, khi lợi ích quốc gia
không mâu thuẫn với lợi ích của giai cấp thống trị. Chúng là hai mặt của một thể
thống nhất. Tính chất của chức năng đối nội quyết định tính chất chức năng đối
ngoại của Nhà nước; ngược lại tính chất và những nhu cầu của chức năng đối
ngoại có tác động mạnh mẽ trở lại chức năng đối nội.
IV/ CÁC KIỂU VÀ HÌNH THỨC NHÀ NƯỚC:
1/ Khái niệm kiểu và hình thức Nhà nước:
Kiểu Nhà nước là khái niệm dùng để chỉ bộ máy thống trị đó thuộc giai
cấp nào, tồn tại trên cơ sở chế độ kinh tế nào, tương ứng với hình thái kinh tế -
xã hội nào.
Mỗi kiểu Nhà nước lại có thể tồn tại dưới các hình thức khác nhau. Hình
thức Nhà nước là khái niệm là để chỉ cách thức tổ chức và phương thức thực
hiện quyền lực Nhà nước. Nói cách khác đó là hình thức cầm quyền của giai cấp
thống trị.
Hình thức Nhà nước bị quy định bởi bản chất giai cấp của Nhà nước, bởi
tương quan lực lượng giữa các giai cấp, bởi cơ cấu giai cấp - xã hội, đặc điểm
truyền thống chính trị của đất nước.
Nguy n am Ka Anh8 K2 TCNH K48ễ Đ
8
Tiểu luận triết học
2/ Các kiểu và hình thức Nhà nước trong lịch sử:
Tương ứng với ba chế độ xã hội có đối kháng giai cấp trong lịch sử là hình
thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ, hình thái kinh tế - xã hội phong kiến, hình
thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa là ba kiểu Nhà nước: Nhà nước chiếm hữu
nô lệ, Nhà nước phong kiến và Nhà nước tư sản. Tuỳ theo hình thái kinh tế - xã
hội cụ thể của mỗi quốc gia là mỗi kiểu Nhà nước được tổ chức theo những hình

thức nhất định.
Nhà nước chiếm hữu nô lệ: Là Nhà nước của giai cấp chủ nô thời cổ đại
mà tiêu biểu là các hình thức lịch sử Nhà nước chủ nô ở Hy Lạp và La Mã cổ đại
như chính thể quân chủ và chính thể cộng hoà, chính thể quý tộc và chính thể
quân chủ. Các hình thức này chỉ khác nhau về cách thức và cơ chế hoạt động của
tổ chức bộ máy Nhà nước, còn về bản chất chúng đều là Nhà nước của giai cấp
chủ nô, nhằm thực hiện thực hiện sự chuyên chính đối với nô lệ.
Nhà nước phong kiến: Là Nhà nước của giai cấp địa chỉ phong kiến. Nhà
nước phong kiến cũng được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau. Ở phương
Tây phổ biến hình thức quân chủ phân quyền. Quyền lực Nhà nước được chia
thành quyền lực độc lập, địa phương phân tán. Ở phương Đông, hình thức quân
chủ tập quyền là hình thức Nhà nước phổ biến dựa trên chế độ sở hữu Nhà nước
về ruộng đất. Trong Nhà nước này, quyền lực của vua được tăng cường rất
mạnh, Hoàng đế có uy quyền tuyệt đối. Tuy nhiên, tính tập quyền đó trong thực
tế lịch sử là dựa vào sức mạnh quân sự là chủ yếu. Do vậy, nguy cơ cát cứ phân
quyền vẫn luôn thường trực. Mỗi khi chính quyền Nhà nước trung ương suy yếu
thì nguy cơ cát cứ lập tức xuất hiện biến thành các cuộc nội chiến tranh giành
quyền lực giữa các thế lực địa chủ các địa phương.
Nhà nước tư sản: Là Nhà nước của giai cấp tư sản thích ứng với hình thái
kinh tế - xã hội chủ nghĩa. Nhà nước tư sản cũng được tổ chức dưới nhiều hình
Nguy n am Ka Anh8 K2 TCNH K48ễ Đ
9
Tiểu luận triết học
thức khác nhau. Trong đó, hai hình thức cơ bản nhất là hình thức cộng hoà và
hình thức quân chủ lập hiến. Hình thức cộng hoà lại được tổ chức dưới những
hình thức khác nhau như Cộng hoà Đại nghị, Cộng hoà Tổng thống trong đó,
phổ biến nhất là Cộng hoà Đại nghị.
Hình thức của Nhà nước tư sản là rất phong phú nhưng không làm thay
đổi bản chất của nó - là công cụ của giai cấp tư sản dùng để bóc lột, áp bức,
thống trị giai cấp vô sản và quần chúng lao động.

V/ NHÀ NƯỚC VÔ SẢN -TÍNH TẤT YẾU VÀ BẢN CHẤT:
Tổng kết kinh nghiệm lịch sử của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô
sản và xét địa vị kinh tế của giai cấp đó trong nền sản xuất hiện đại, C.Mác kết
luận: Để đi tới một xã hội không còn giai cấp, giai cấp vô sản phải trở thành một
giai cấp thống trị và nắm lấy quyền lực chính trị để thực hiện sự thống trị chính
trị của mình. Giai cấp vô sản phải đạp tan “ Bộ máy quân phiệt quan liêu ” của
Nhà nước cũ, thay thế Nhà nước của giai cấp bóc lột bằng một Nhà nước kiểu
mới, Nhà nước của giai cấp vô sản. C.Mác khẳng định: “ Giữa xã hội tư bản chủ
nghĩa và xã hội cộng sản là một thời kỳ cải biến từ xã hội nọ sang xã hội kia.
Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và Nhà nước của thời
kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp
vô sản ”.
Nhà nước vô sản là một Nhà nước kiểu mới, bản chất Nhà nước đó là
chuyên chính của nhân dân, là quyền lực của nhân dân. Đây là điểm khác nhau
cơ bản giữa Nhà nước vô sản với Nhà nước của các giai cấp bóc lột. Xét về
phương diện giai cấp, cũng như nền tảng kinh tế, Nhà nước vô sản là Nhà nước
duy nhất có cơ sở khách quan và đòi hỏi sự thống nhất giữa tính giai cấp và tính
nhân dân. Không đảm bảo sự thống trị chính trị của giai cấp vô sản thì nhân dân
không có quyền lực thực sự, ngược lại, có bảo đảm quyền lực Nhà nước và sự
Nguy n am Ka Anh8 K2 TCNH K48ễ Đ
10
Tiểu luận triết học
phát triển, mở rộng dân chủ đối với nhân dân trong Chủ nghĩa xã hội là thống
nhất với nhau.
VI/ NHÀ NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM LÀ TRỤ CỘT CỦA HỆ
THỐNG CHÍNH TRỊ, LÀ CÔNG CỤ THỰC HIỆN QUYỀN LỰC CỦA NHÂN DÂN, LÀ TỔ
CHỨC THỰC HIỆN QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN LAO ĐỘNG DƯỚI SỰ LÃNH
ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM:
Nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, quản lý kinh tế
bằng kế hoạch, các chính sách và những đòn bẩy kinh tế và các công cụ điều tiết

khác.
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa được tổ chức theo nguyên tắc Nhà
nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức làm nền tảng, đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhà nước ấy do nhân dân lập ra và thông qua tổng
tuyển cử toàn dân, được đặt dưới sự kiểm soát của nhân dân. Mọi quyền lực mà
Nhà nước có được đều do nhân dân uỷ quyền. Mọi chủ trương, chính sách của
Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân. No kiên quyết đập tan mọi mưu đồ đi
ngược lại ý chí của nhân dân ta.
Trong tổ chức và hoạt độn của mình, quyền lực Nhà nước được tổ chức
theo nguyên tắc thống nhất nhưng có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các
cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Tổ chức và hoạt động của Nhà nước thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Tất
cả quyền lực của Nhà nước thuộc về nhân dân, bảo đảm sự thống nhất tổ chức và
hành động, phát huy đồng bộ và kết hợp chặt chẽ sức mạnh của cả cộng đồng và
từng cá nhân, của cả nước và từng địa phương, của cả hệ thống bộ máy và từng
yếu tố cấu thành nó. Tập trung dân chủ đối lập với tập trung quan liêu cũng như
phân tán, cục bộ.
Nguy n am Ka Anh8 K2 TCNH K48ễ Đ
11
Tiểu luận triết học
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có sự thống nhất hữu cơ
chức năng giai cấp và chức năng xã hội trong tổ chức và trong hoạt động của
mình. Càng đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, càng có khả năng
phát hiện, nhận thức và giải quyết có hiệu quả những vấn đề có liên quan tới
chức năng xã hội. Ngược lại, việc thực hiện tốt chức năng xã hội sẽ góp phần
nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng giai cấp.
Nguy n am Ka Anh8 K2 TCNH K48ễ Đ
12
Tiểu luận triết học

Chương II:
VẤN ĐỀ NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC
TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY Ở NƯỚC TA
I/ TẠI SAO PHẢI NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ?
1/ Nâng cao vai trò của Nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu của thời đại:
Đại hội Đảng lần thứ IX đã dự báo: “ Thế kỷ XXI sẽ tiếp tục có nhiều biến
đổi ”. Cụ thể như sau:
Một là, khoa học và công nghệ sẽ có bước phát triển nhảy vọt. Với tốc độ
phát triển như vũ bão hiện nay, khoa học và công nghệ trong thế kỷ XXI chắc
chắn sẽ có nhiều kỳ tích, đặc biệt trong các lĩnh vực điện tử, tin học, sinh học,
vật liệu mới, năng lượng, nghiên cứu vũ trụ.
Hai là, kinh tế tri thức ngày càng có vai trò nổi bật trong quá trình phát
triển lực lượng sản xuất. Trong các thế kỷ trước, những yếu tố tạo ra sự phát
triển lực lượng sản xuất là lao động, vốn và công nghệ thì hiện nay thêm một yếu
tố nữa là tri thức và khi nào yếu tố tri thức chiếm đa số trong những yếu tố tạo
nên tăng trưởng, đó là kinh tế tri thức. Sang thế kỷ XXI, lực lượng sản xuất tiếp
tục phát triển trong đó kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật.
Ba là, toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan lôi cuốn ngày càng
nhiều nước tham gia. Xu thế này đang bị một số nước phát triển và tập đoàn kinh
tế tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích
cực, vừa có mặt tiêu cực, có hợp tác vừa có đấu tranh.
- Hiện nay, tổ chức Thương mại quốc tế ( WTO ) có 136 nước tham gia,
25 nước nộp đơn xin tham gia, trong đó có Việt Nam. Trong khuôn khổ WTO
hiện nay chiếm tới 90% thương mại xuất nhập khẩu của thế giới. Nếu nước nào
không tham gia sẽ bị phân biệt đối xử, sẽ bị thiệt hại không nhỏ về lợi ích kinh
Nguy n am Ka Anh8 K2 TCNH K48ễ Đ
13
Tiểu luận triết học
tế. Ví dụ: Trung Quốc nếu được tham gia vào WTO thì hàng hoá vào thị trường
Mỹ sẽ có thuế suất bằng không, còn hàng hoá của ta khi chưa tham gia tổ chức

này xuất sang thị trường Mỹ sẽ bị đánh thuế tới 40%. Vì thế hàng hoá của ta khó
có thể cạnh tranh nổi với hàng hoá các nước về mặt giá cả.
- Toàn cầu hoá vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực. Tham gia vào các
tổ chức quốc tế để có điều kiện phát triển và cũng để đấu tranh bảo vệ quyền lợi
của mình. Quá trình toàn cầu hoá là một quá trình phức tạp, vừa là cơ hội, vừa là
thách thức rất lớn.
Bốn là, các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới những hình thức
và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển, có mặt sâu sắc hơn. Từ trước tới
nay, Đảng ta vẫn xác định có bốn mâu thuẫn cơ bản là: Mâu thuẫn giữa Chủ
nghĩa tư bản và Chủ nghĩa xã hội, mâu thuẫn giữa các nước Đế quốc với Đế
quốc, mâu thuẫn giữa Đế quốc với các nước dân tộc, mâu thuẫn giữa tư bản với
công nhân. Trong đó đặc biệt chú ý đến mâu thuẫn giữa Chủ nghĩa tư bản và
Chủ nghĩa xã hội. Đối với Trung Quốc và Việt Nam các thế lực thù địch luôn tìm
cách chống phá, ngăn cản sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và công cuộc xây
dựng Chủ nghĩa xã hội. Cuộc đấu tranh giữa Chủ nghĩa tư bản và Chủ nghĩa xã
hội sẽ hết sức quyết liệt trong tình hình mới.
Năm là, Chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ những bài học thành công và
thất bại cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh từ các dân tộc, có điều kiện và khả
năng tạo ra bước phát triển mới.
Trước những thời cơ và thách thức mới của thời đại, vai trò lãnh đạo của
Đảng và Nhà nước đòi hỏi phải được nâng cao hơn nữa nhằm đưa đất nước ta
phát triển nhanh chóng, vững chắc và toàn diện trên mọi lĩnh vực văn hoá, kinh
tế, chính trị, xã hội.
Nguy n am Ka Anh8 K2 TCNH K48ễ Đ
14
Tiểu luận triết học
2/ Nâng cao vai trò của Nhà nước để xây dựng thành công Chủ nghĩa xã hội:
Quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một tất yếu lịch sử. Nước ta xây
dựng Chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ Tư bản chủ nghĩa tạo nên sự biến đỏi về
chất của xã hội trên các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, tất yếu phải

trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài, với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ
chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Để xây dựng thành công Chủ nghĩa xã
hội, trước mắt chúng ta còn rất nhiều công việc khó khăn, bề bộn đòi hỏi sự dẫn
dắt soi đường đúng đắn của Đảng và vai trò tích cực của Nhà nước.
3/ Khắc phục hạn chế vai trò của Nhà nước hiện nay:
Trong thực tế 20 năm đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng
kể. Đạt được những thành tựu đó, bên cạnh bản lĩnh chính trị vững vàng, đường
lối chỉ đạo đúng đắn của Đảng và đóng góp to lớn của toàn dân còn phải kể đến
những cố gắng lớn trong việc điều hành, quản lý của Nhà nước. Tuy nhiên, bên
cạnh những thành tựu còn tồn tại không ít những hạn chế trong vai trò của Nhà
nước cần phải được khắc phục ngay. Đó là sự cồng kềnh không cần thiết của bộ
máy Nhà nước; các thủ tục hành chính rườm ra, bất động, cũng như tình trạng
vừa chồng chéo, vừa bỏ sót chức năng nhiệm vụ trong nội bộ cơ quan quyền lực
Nhà nước.
II/ CẢI CÁCH THỂ CHẾ VÀ PHƯƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG CỦA NHÀ NƯỚC:
Bước sang thế kỷ XXI, công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu, càng đòi
hỏi phải xây dựng, kiện toàn bộ máy Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt
động có hiệu lực, hiệu quả, bảo đảm cho Nhà nước ta mãi mãi giữ bản chất cách
mạng, bản chất giai cấp, thực sự là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ
của nhân dân. Vì lẽ đó, Đại hội IX của Đảng khẳng định cần phải: “ Đẩy mạnh
cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp
chế ”.
Nguy n am Ka Anh8 K2 TCNH K48ễ Đ
15
Tiểu luận triết học
1/Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của
Quốc hội:
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, là cơ quan quyền lực
cao nhất ở nước ta, là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Để phát
huy vai trò, vị trí của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, Quốc hội phải được

kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động của mình theo hướng:
- Tăng cường và nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp nhằm nâng cao
chất lượng các đạo luật, tăng cường ban hành luật, hạn chế ban hành các pháp
lệnh và nghị định, tiến tới hoàn thiện hệ thống pháp luật trên cơ sở quán triệt
quan điểm, đường lối của Đảng phù hợp với thực tiễn Việt Nam và luật pháp,
thông lệ quốc tế, có tính khả thi cao.
- Làm tốt chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước,
quyết định và phân bổ ngân sách Nhà nước.
- Làm tốt chức năng giám sát tối cao của Quốc hội đối với toàn bộ hoạt
động của Nhà nước, trước mắt tập trung vào những vấn đề bức xúc như: Sử dụng
vốn và tài sản của Nhà nước; chống tham nhũng, quan liêu; vấn đề bắt giam,
điều tra, truy tố, xét xử. Việc giám sát của Quốc hội đối với hoạt động của Chính
phủ, của các cơ quan tư pháp được thực hiện dưới nhiều hình thức, trong đó có
hình thức báo cáo công tác và trả lời chất vấn của các thành viên Chính phủ, của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, của Chánh án Toà án nhân dân tối
cao tại các kỳ họp Quốc hội. Hình thức này đang được cử tri cả nước đồng tình,
hoan ngênh và coi đây cũng là một hình thức giám sát của mình đối với hoạt
động của Nhà nước. Việc trả lời chất vấn trong các kỳ họp Quốc hội sắp tới cũng
cần phải đổi mới theo hướng tập trung vào những vấn đề lớn, quan trọng của
Nhà nước, những vấn đề mà đông đảo nhân dân quan tâm và nâng cao trách
Nguy n am Ka Anh8 K2 TCNH K48ễ Đ
16
Tiểu luận triết học
nhiệm của đại biểu Quốc hội và của các thành viên Chính phủ và chất lượng của
câu hỏi và câu trả lời.
- Khẩn trương nghiên cứu và sớm sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến
pháp 1992 cho phù hợp với tình hình mới.
2/ Xây dựng một nền Nhà nước hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng
bước hiện đại hoá:

Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Chính phủ giữ quyền hành pháp, tức là Chính phủ có chức năng
thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã
hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước; đảm bảo hiệu lực của bộ
máy Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở; đảm bảo việc tôn trọng và chấp hành
Hiến pháp, pháp luật; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, đảm bảo ổn định và nâng cao đời sống vật chất, văn hoá của
nhân dân.
Trước hết, cần phải tập trung điều chỉnh chức năng và phương thức hoạt
động của Chính phủ theo hướng tăng cường quản lý vĩ mô các lĩnh vực hoạt
động của toàn xã hội bằng hệ thống pháp luật và hệ thống chính sách hoàn chỉnh,
đồng bộ, giảm khối lượng xử lý các vụ việc cụ thể. Hoạt động của Chính phủ tập
trung vào việc xây dựng thể chế, chỉ đạo và kiểm tra việc xây dựng các văn bản
quy phạm pháp luật, hoạch định chiến lược, kế hoạch phát triển tổng thể nền
kinh tế quốc dân, giải quyết những vấn đề quan trọng mang tính liên ngành, liên
vùng đảm bảo thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ và cơ quan ngang bộ cũng
được điều chỉnh theo hướng bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, bao quát tất cả các
Nguy n am Ka Anh8 K2 TCNH K48ễ Đ
17
Tiểu luận triết học
thành phần kinh tế trong phạm vi cả nước, cung cấp dịch vụ công. Sắp xếp, tinh
gọn các cơ quan thuộc Chính phủ, bộ máy giúp việc Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ; cơ cấu bộ máy và biến chế các bộ, cơ quan ngang bộ. Phân định rõ
ràng chức năng, thẩm quyền quản lý hành chính Nhà nước với nhiệm vụ cung
cấp dịch vụ công để bố trị bộ máy và phương thức hoạt động phù hợp.
Tổ chức, bộ máy chính quyền địa phương được cải cách, kiện toàn theo
nguyên tắc quyền lực Nhà nước là thống nhất, không có quyền lực Nhà nước ở

địa phương tách rời quyền lực Nhà nước ở Trung ương; được phân công, nâng
cấp theo hướng nâng cao tính chủ động của chính quyền địa phương, kết hợp
chặt chẽ quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ. Chính quyền địa phương
bao gồm Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân đều thực hiện chức năng chấp
hành pháp luật và các quyết định hành chính của cấp trên. Trên cơ sở đó tổ chức
hợp lí Hội đồng nhân dân, đảm bảo hoạt động thiết thực, hiệu quả. Theo vị trí,
trách nhiệm của từng cấp hành chính, sắp xếp, kiện toàn, tinh gọn các cơ quan
chuyên môn của Uỷ ban nhân dân.
Xây dựng và kiện toàn bộ máy và cán bộ chính quyền cấp xã, phường, thị
trấn có đủ năng lực và phẩm chất để quản lý, giải quyết đúng thẩm quyền những
vấn đề do cuộc sống đặt ra.
Cùng với việc điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ
quan, tổ chức trong hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước, cần xác định rõ trách
nhiệm của tập thể và trách nhiệm của cá nhân, trước hết là trách nhiệm cá nhân
của người đứng đầu cơ quan, tổ chức; đổi mới phương thức làm việc của các cơ
quan Nhà nước, xây dựng và thực hiện nghiêm ngặt quy chế làm việc.
Công cuộc cải cách bộ máy hành chính Nhà nước phải được lãnh đạo chặt
chẽ và tiến hành đồng bộ từ Trung ương đến cơ sở, gắn với xây dựng, chỉnh đốn
Đảng.
Nguy n am Ka Anh8 K2 TCNH K48ễ Đ
18
Tiểu luận triết học
3/Cải cách và kiện toàn các cơ quan tư pháp:
Ở nước ta, quyền tư pháp được hiểu là hoạt động xét xử của toà án và
những hoạt động của các cơ quan khác của Nhà nước, các tổ chức khác được
Nhà nước cho phép thành lập, trực tiếp liên quan đến hoạt động xét xử của toà
án, nhằm bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, lợi ích của xã hội. Vì vậy, ở nước ta, cơ quan tư pháp bao gồm Toà án nhân
dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan điều tra và các cơ quan, tổ chức bổ trợ
tư pháp như: Tổ chức luật sư, cơ quan công chứng giám định tư pháp, tư vấn

pháp luật, trong đó Toà án nhân dân là nơi biểu hiện tập trung của quyền tư
pháp, sử dụng công khai các kết quả của hoạt động điều tra, công tố, bào chữa,
giám định tư pháp thông qua các thủ tục tố tụng theo luật định để đưa ra phán
quyết cuối cùng, thể hiện quyền lực Nhà nước.
- Tiếp tục cải cách, kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ
quan tư pháp theo nguyên tắc nâng cao tinh thần trách nhiệm, làm tốt các công
tác điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử, không để xảy ra các trường hợp oan
sai.
- Viện Kiểm sát nhân dân không thực hiện chức năng kiểm sát chung mà
tập trung làm tốt chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, đảm bảo mọi
hành vi phạm tội đều bị phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh, đặc biệt là tội
phạm an ninh quốc gia và tội phạm tham nhũng.
- Sắp xếp lại hệ thống Toà án nhân dân, phân định thẩm quyền một cách
hợp lý theo nguyên tắc tổ chức Toà án theo cấp xét xử, tăng cường thẩm phán ở
những địa bàn trọng điểm, quy định rõ tiểu chuẩn, trách nhiệm và thẩm quyền
của Hội thẩm nhân dân. Toà án nhân dân tối cao làm nhiệm vụ hướng dẫn áp
dụng pháp luật và thực hiện công tác giám sát xét xử các bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật.
Nguy n am Ka Anh8 K2 TCNH K48ễ Đ
19
Tiểu luận triết học
- Tổ chức lại các cơ quan điều tra theo nguyên tắc gọn đầu mối, có sự chỉ
đạo tập trung thống nhất. Kiện toàn cơ quan thi hành án và thành lập cảnh sát tư
pháp. Cải cách và kiện toàn các cơ quan bổ trợ tư pháp, cơ quan quản lý hành
chính tư pháp.
Xây dựng kiện toàn đội ngũ cán bộ các cơ quan bảo vệ pháp luật trong
sạch, có phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn để đáp ứng yêu cầu nghiệp vụ.
Nguy n am Ka Anh8 K2 TCNH K48ễ Đ
20
Tiểu luận triết học

KẾT LUẬN
Trong thời đại ngày nay, việc nâng cao vai trò của Nhà nước là một trong
những vấn đề then chốt cần được xem xét đúng mức và triển khai có hiệu quả,
đặc biệt là vấn đề cải cách bộ máy hành chính Nhà nước. Nước ta vẫn đang trong
thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa, nhiệm vụ trước mắt vẫn còn nhiều khó khăn
và thử thách phải xây dựng một Nhà nước xã hội chủ nghĩa thực sự là của dân,
do dân, vì dân, một bộ máy Nhà nước có khả năng quản lý tốt để đưa đất nước
phát triển đi lên một cách nhanh lẹ, vững chắc, đẩy nhanh tiến trình quá độ lên
xã hội chủ nghĩa tránh nguy cơ tụt hậu quá xa so với các nước khác trong khu
vực và trên thế giới.
Nguy n am Ka Anh8 K2 TCNH K48ễ Đ
21
Tiểu luận triết học
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  
1. Giáo trình triết học Mác - Lênin, NXB Chính trị Quốc gia, 2005.
2. Giáo trình triết học Mác - Lênin ( Phần Chủ nghĩa duy vật lịch sử ), NXB
Lực lượng chính trị, 2004.
3. Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học, NXB Chính trị Quốc gia, 2005.
4. Văn kiện đại biểu Đại hội toàn quốc lần thứ IX, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, 2003.
5. Tài liệu nghiên cứu văn kiện Đại hội IX của Đảng, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, 2001.
6. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, 2003.
Nguy n am Ka Anh8 K2 TCNH K48ễ Đ
22

×