Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

QUAN ĐIÊM CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ CON NGƯỜI VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NGUỒN NHÂN LỰC CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ,HIỆN ĐẠI HOÁ Ở NƯỚC TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.77 KB, 25 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN MÔN
NGUYÊN LÝ MÁC-LÊNIN
TÊN ĐỀ TÀI
QUAN ĐIÊM CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ CON NGƯỜI VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG
NGUỒN NHÂN LỰC CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ,HIỆN
ĐẠI HOÁ Ở NƯỚC TA
Họ tên sinh viên : Đặng Quốc Khánh
Lớp : Anh 8-Khối 2-TC-K48
Mục Lục
Lời mởđầu
Nội dung
Chương Một. Lý luận của Mác về con người
I -Nguồn gốc và bản chất con người.
II-Quan hệ giữa cá nhân và xã hội
III-Vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử.
Chương hai.VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NGUỒN NHÂN LỰC
CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ,HIỆN ĐẠI
HOÁ Ở NƯỚC TA
I-Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
II-Mục tiêu con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại
hoá ở nước ta hiện nay.
III-Hiện trạng và giải pháp cho nguồn lực con người ở nước ta
hiện nay.
LỜI MỞ ĐẦU
Vấn đề con người luôn là chủ đề trung tâm của lịch sử triết học từ cổ đại đến
hiện đại,theo nghĩa rộng,bao gồm toàn bộ nội dung nghiên cứu các khoa hoc xa
hội và nhân văn. Chủ nghĩa Mác-lênin thực chất là học thuyết về giải phóng con
người và xã hội loài người . Vấn đề con người là nội dung cơ bản của chủ nghĩa
Mác-lênin nói chung, triết học Mác-lênin nói riêng.


Con người từ đâu sinh ra? Ý nghĩa cuộc sống con người là gì? Trong mỗi thời
đại lịch sử, con người quan hệ với tự nhiên và với đồng loại như thế nào? Vì đâu
ở mỗi con người,mỗi cộng đồng người có những nét độc đáo về tư tưởng , tình
cảm , tâm lý,tính cách, nghị lực,tài năng? Con người có thể làm chủ tự nhiên, xã
hội và bản thân mình hay không? Con người phải làm gì để có cuộc sống xứng
đáng với con người?
Đó là những vấn đề chung nhất, cơ bản nhất mà các học thuyết triết học từ cổ
đại đến nay đã đặt ra và giải đáp bằng những cách khác nhau.
Với sự ra đời của quan điểm duy vật về lịch sử,lần đầu tiên vấn đề con người có
được vị trí mà nó cần phải có;lần đầu tiên vấn đề con người được nhận thức một
cách thật sự khoa học.
CHƯƠNG MỘT:QUAN ĐIỂM MAC-LENIN VỀ VẤN ĐỀ CON NGƯỜI
I-nguồn gốc và bản chất con người
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã từng tôn tại rất nhiều quan điểm khác nhau
xung quanh vấn đề nguồn gốc và bản chất của con người. Trước C.Mác, vấn đề
bản chất con người vẫn chưa được giải đáp một cách thực sự khoa học.Không
những chủ nghĩa duy tâm mà cả chủ nghĩa duy vật trực quan, siêu hình cũng
không nhận thức đúng bản chất con người.
Đã từng có những ý kiến cho rằng triết hoc Mác-lênin coi nhẹ vấn đề con người.
Ngược lại chủ nghĩa Mác-lênin nói chung,triết học Mác-lênin nói riêng xem vấn
đề con người là trung tâm của mọi khoa học xã hội và nhân văn. Chủ nghĩa Mác-
lênin ra đời xuất phát từ con người và mục đích cuối cùng của nó là soi sáng sự
nghiệp giải phóng cho mỗi con người và cho cả loài người.
từ buổi sơ khai của mình , do hạn chế về nhận thức,con người đã không hiểu
được những sức mạnh của thiên nhiên. Thiên nhiên vừa nuôi dưỡng con người,
vừa thường xuyên gây ra những tai hoạ như: bão,lụt,sấm,sét v.v Sợ hãi trước
sức mạnh đó, con người đã thờ trời,thờ đất, thờ núi sông, thờ muông thú, nhiều
lúc coi những thứ ấy là nguồn gốc, là tổ tiên của mình. Rất nhiều dân tộc và tộc
người đã nhận một con vật nào đó như vật tổ của mình và thờ cúng con vật
đó(Tôtem)

Thời kì cuối xã hội nguyên thuỷ, đầu xã hội cổ đại, con người bắt đầu tìm hiểu
nguồn gốc của mình và có những ý thức ban đầu về sức mạnh của bản thân
mình.
Nói chung,các tôn giáo đều quan niệm con người do thần thánh, Thượng đế sinh
ra, cuộc sống con người do đấng tối cao an bài, sắp đặt. Giáo lý Kitô quan niệm
con người về bản chất là kẻ có tội. con người không chỉ có xác mà có linh hồn.
Thể xác sẽ mất đi nhưng linh hồn thì còn lại. Con người phải cứu lấy linh hồn
của mình.linh hồn hay tinh thần là phần cao quý của con người,thể xác là phần
thấp hèn, phần gần gũi với súc vật và đáng khinh trong cuộc sống của con
người, vì vậy người ta phải chăm lo phần linh hồn.
Có những trào lưu triết học duy tâm không trực tiếp giải thích nguồn gốc con
người từ trời, từ thần linh, hay từ con vật linh thiêng nào, nhưng đã giải thích một
cách không kém phần bí hiểm. Theo hêghen, ý niệm tuyệt đối tự tha hoá thành
tự nhiên, thành con người. Cái bí hiểm của ý niệm tuyệt đối cũng phần nào giống
như những từ thái cực,đạo,khí ở phương đông, được coi như nguồn gốc sinh ra
vũ trụ và con người .
Ở những nước chịu ảnh hưởng của Khổng giáo, Phật giáo và lãnh giáo, triết
học cũng giải thích nguồn gốc của con người hoặc từ một đấng thần linh tối cao,
hoặc từ một lực lượng thần bí đã nói ở trên.
Theo Mạnh Tử, con người sinh ra vốn là tốt(thiện), do không biết tu dưỡng,
chịu ảnh hưởng của tập quán xấu mà xa dần cái tốt, thông qua tu dưỡng mà con
người có thể hiểu được lẽ phải và giữ được cái tốt của mình.
Khác với Mạnh Tử, Tuân Tử lại cho rằng, con người sinh ra vốn ác, nhưng
có thể cải biến được; phải chống lại cái ác ấy thì con người mới tốt được.
Hai quan điểm khác nhau đó có điểm tương đồng là yêu cầu con người phải
tu dưỡng làm những điều lễ nghĩa. Điểm khác nhau là : theo quan điểm tính
thiện của Mạnh Tử thì con người phải được dẫn dắt bằng đạo đức. Còn theo
quan điểm tính ác của Tuân Tử, thì phải lấy pháp luật mà ngăn chặn cái ác.
Trong triết học duy tâm của phương đông còn có thuyết coi trời và người
cùng hoà hợp với nhau (thiên nhân hợp nhất), tư tưởng này khá phổ biến.

Thuyết này coi trời và người tác động lẫn nhau theo cùng một tính chất. Tuy
nhiên cũng có tư tưởng ngược lại, đó là quan niệm thiên nhân bất tương quan
của Tuân Tử. Ông chủ trương về phương diện sinh dưỡng thì nguời mang ơn
của trời, nhưng về phương diện trị loạn, thịnh suy thì đạo trời không can hệ gì
đến đạo người, trời không thể làm hại được người, mà cả trời cũng không thể
giúp được người. Tư tưởng triết học ấy có mầm mống duy vật ấy của Tuân Tử
có tác dụng khắc phục thái độ bị động của con người, khuyến khích con người
có tinh thần tích cực, dám tự mình giải quyết những vấn đề của mình.
Trong lịch sử triết học ở cả phương Tây và phương Đông, thời nào cũng có tư
tưởng duy vật, gắn liền với thực tiễn xã hội. Tuy nhiên, bàn về nguồn gốc, bản
chất con người, tư tưởng thống trị trong thời cổ đại và trung đại, vẫn là quan
điểm duy tâm. Thời cận đại, nhận thức về nguồn gốc và bản chất con người có
một bước tiến đáng kể. triết học duy vật và duy tâm đều phản ánh những vấn đề
mới mẻ do thời đại đặt ra. Các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII và Phoiơbắc, nhà
duy vật lớn trong triết học cổ điển Đức, đều phê phán mạnh mẽ quan điểm duy
tâm, thần bí và tìm cách giải thích nguồn gốc,bản chất con người theo quan
điểm duy vật. Với sự ra đời thuyết tiến hoá các loài của Đácuyn, các nhà triết
học duy vậtnói trên đã có căn cứ khoa học để chỉ ra nguồn gốc phi thần thánh
của con người.”Không phải Chúa đã tạo ra con người theo hình ảnh của chúa
mà chính con người đã tạo ra chúa theo hình ảnh của con người”. Lời nói sắc
sảo này của Phoiơbắc đã được C.Mác và Ph.Ăngghen đánh giá cao khi hai ông
nói về vai trò của các nhà duy vật trong việc phê phán những quan điểm duy tâm
thần bí về nguồn gốc và bản chất của con người.
Tư tưởng triết học của nhà duy vật Phoiơbắc đã vượt qua những hạn chế
trong triết học Hêghen để hy vọng tìm đến bản chất con người một cách đích
thực. Phoiơbắc phê phán tính chất siêu tự nhiên, phi vật chất, phi thể xác về bản
chất con người trong triết học Hêghen, đồng thời khẳng định con người do sự
vận động của thế giới vật chất tạo nên. Con người là kết quả của sự phát triển
của thế giới tự nhiên. Con người và tự nhiên là thống nhất, không thể tách rời.
Phoiơbắc đề cao vai trò và trí tuệ của con người với tính cách là những cá thể

người. Đó là những con người cá biệt, đa dạng, phong phú, không ai giống ai.
Quan điểm này dựa trên nền tảng duy vật, đề cao yếu tố tự nhiên, cảm tính,
nhằm giải phóng cá nhân con người. Tuy nhiên, Phoiơbắc không thấy được bản
chất xã hội trong đời sống con người, tách con người khỏi những điều kiện lịch
sử cụ thể. Con người của Phoiơbắc là phi lịch sử, phi giai cấp và trừu tượng.
Có thể khái quát rằng, các quan niệm về con người trong triết học trước Mác, dù
là đứng trên nền tảng thế giới quan duy tâm, nhị nguyên luận hoặc duy vật siêu
hình, đều không phản ánh đúng bản chất con người. Nhìn chung, các quan niệm
trên đều xem xét con người một cách trừu tượng, tuyệt đối hoá mặt tinh thần
hoặc thể xác con người, tuyệt đối hoá mặt tự nhiên - sinh học mà không thấy
mặt xã hội trong đời sống con người. Tuy vậy, một số trường phái triết học vẫn
đạt được một số thành tựu trong việc phân tích, quan sát con người, đề cao lý
tính, xác lập các giá trị về nhân bản học để hướng con người tới tự do. Đó là
những tiền đề có ý nghĩa cho việc hình thành tư tương về con người của triết
học macxit. Khi phê phán quan điểm của Phoiơbắc, Mác đã khái quát bản chất
con người qua câu nói nổi tiếng sau đây :
“phoiơbắc hoà tan bản chất tôn giáo vào bản chất con người. Nhưng bản chất
con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt.
Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã
hội:”.
Với quan điểm duy vật triệt để và phương pháp biện chứng, Mác đã đưa ra một
quan niệm hoàn chỉnh về khái niệm con người , cũng như về bản chất của con
người. Chủ nghĩa Mác phân biệt rõ hai mặt trong khái niệm con người : mặt sinh
vật và mặt xã hội.
C.Mác không hề phủ nhận mặt tự nhiên, mặt sinh học khi xem xét con người với
tư cách là những cá nhân sống. Mác viết: “vì vậy,điều cụ thể đầu tiên cần phải
xác định là tổ chức cơ thể của những cá nhân ấy và mối quan hệ ấy mà tổ chức
cơ thể ấy tạo ra giữa họ với phần còn lại của giới tự nhiên”. Theo Mác, “mọi
khoa ghi chép lích sử đều phải xuất phát từ những cơ sở tự nhiên ấy”.
Trước hết Mác thừa nhận con người là một động vật cao cấp nhất, sản phẩm

của sự tiến hóa lâu dài giới sinh vật như tiến hóa luận của Đácuyn đã khẳng
định. Như mọi động vật khác, con người là một bộ phận của thiên nhiên, tìm
thức ăn, nước uống từ trong thiên nhiên. Như mọi động vật khác, con người
phải”đấu tranh” để tồn tại, ăn uống, sinh con đẻ cái Tuy nhiên, C.Mác không
thừa nhận quan điểm cho rằng: cái duy nhất tạo nên bản chất con người là đặc
tính sinh học,là bản năng sinh vật của con người. Con người vốn là một sinh vật
có đầy dủ những đặc trưng của sinh vật, nhưng lại có nhiều điểm phân biệt với
các sinh vật khác. Vậy con người khác động vật ở chỗ nào? Trước C.Mác và
cùng thời đã có nhiều nhà tư sản lớn đã đưa ra những tiêu chí phân biệt người
và động vật có sức thuyết phục, chẳng hạn như Phranklin cho rằng con người
khác con vật ở chỗ con người biết sử dụng công cụ lao động, Arixtot đã gọi con
người là “một động vật có tính xã hội”, Pascal nhấn mạnh đặc điểm của con
người và sức mạnh của con người là ở chỗ con người biết suy nghĩ(con người
la”một cây sậy,nhưng là một cây sậy biết suy nghĩ”). Các nhận định trên đều
đúng khi nêu nên một khía cạnh về bản chất của con người, nhưng những nhận
định đó đều phiến diện, không nói nên được nguồn gốc của những đặc điểm ấy
và mối quan hệ biên chứng giữa chúng với nhau.
Triết học Mác nhìn nhận vấn đề bản chất con người một cách toàn diện, cụ thể,
xem xét bản chất con người không phải một cách chung chung, trừu tượng mà
trong tính hiện thực, cụ thể của nó, trong quá trình phát triển của nó. C.Mác và
Ph.angghen đã phân tích vai trò của lao động sản xuất ở con người như sau :”có
thể phân biệt con người với súc vật bằng ý thức,bằng tôn giáo, nói chung bằng
bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng tự phân biệt với súc
vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình-đó
là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định. Sản xuất ra những
tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời
sống vật chất của mình”.
con người hoàn toàn khác con vật.
C.Mác phân biệt rõ ràng :”về mặt thể xác, con người chỉ sống bằng những
sản phẩm tự nhiên ấy, dù là dưới hình thức thực phẩm, nhiên liệu , áo

quần,nhà ỏ ,v.v. về mặt thực tiễn, tính phổ biến của con người biểu hiện ra
chính ở cái tính phổ biến nó biến toàn bộ giới tự nhiên thành thân thể vô cơ
của con người “
Ông kết luận:” Con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái
sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên”.
Câu nói sâu sắc này nêu nên tính tất yếu của sự hòa hợp giữa con người và
tự nhiên. Nhờ hoạt động thực tiễn, con người quan hệ quan hệ với tự nhiên
cũng có nghĩa là con người quan hệ với bản thân mình, bởi tự nhiên là “ thân
thể vô cơ của con người “.
Tính loài của con người không phải tính loài trừu tượng. Nó cũng có nghĩa là
tính xã hội, và loài người chính là “xã hội người”.
Con người có tính xã hội trước hết bởi bản thân hoạt động sản xuất của
con người là hoạt động mang tính chất xã hội. Trong hoạt động sản xuất, con
người không thể tách khỏi xã hội. Tính xã hội là đặc điểm cơ bản làm cho
con người khác con vật. Hoạt động của con vật chỉ phục vụ nhu cầu trực tiếp
của nó, còn hoạt động của con người gắn liền với xã hội và phục vụ cho cả
xã hội. Xã hội cùng với tự nhiên là điều kiện tồn tại của con người. Tính xã
hội của con người thể hiện ở hoạt động và giao tiếp xã hội. Hoạt động của
con người không phải tuân theo bản năng như động vật mà là hoạt động có ý
thức. Tư duy con người phát triển trong hoạt động và giao tiếp xã hội, trước
hết là hoạt động lao động sản xuất. Với ý nghĩa trên đây, có thể nói con
người phân biệt với động vật ở tư duy mà ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư
duy. Bởi cơ sở của tư duy là hoạt động thực tiễn của xã hội. “những miền sâu
thẳm của tâm linh” cũng không thể có được nếu như không có hoạt động
mang tính xã hội và những quan hệ xã hội của loài người.
Nói tóm lại, con người khác con vật về bản chất ở cả ba mặt: quan hệ với
thiên nhiên, quan hệ với xã hội, quan hệ với bản thân. Cả ba mối quan hệ đó
ddeuf mang tính xã hội, trong đó quan hệ xã hội là quan hệ bản chất nhất,
bao quát nhất trong mọi hoạt động của con người, cả trong lao động, sinh
con đẻ cái và trong tư duy.

Khi C.Mác nói :” Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là con
người là tổng hòa những quan hệ xã hội”, thì ta hiểu những quan hệ những
quan hệ ấy thể hiện trong toàn bộ hoạt động cụ thể của con người. Không có
con người trừu tượng mà chỉ có những con người sống, hoạt động trong một
xã hội nhất định, trong những điều kiện lích sử nhất định, nghĩa là những con
người cùng với xã hội mình khai thác thiên nhiên, sinh hoạt xã hội, phát triển
ý thức. Chỉ trong toàn bộ những quan hệ cụ thể đó, con người mới bộc lộ và
thực hiện được bản chất thật sự của mình. Xét về bản chất của một con
người cũng như của một dân tộc phải xuất phát từ toàn bộ những quan hệ xã
hội ấy.
Tính xã hội của con người phát triển từ thấp đến cao, từ hoạt động bản
năng đến hoạt động có ý thức cũng như bản thân có ý thức.
Con người không chỉ có bản năng sinh học, mà còn có bản năng xã hội. Cá
bản năng xã hội đã bắt đầu nhen nhóm trong những tập đoàn động vật, đặc
biệt là tập đoàn khỉ, nó tạo nên tính xã hội của những động vật ấy. Cách đây
hàng triệu năm trong sự tiến hóa của một số loài khỉ thì cái bản năng xã hội
hay tính xã hội phát triển và bao trùm từng bước cái bản năng sinh học. Vì
vậy, “bản năng xã hội là một trong những đòn bẩy quan trọng nhất của sự
phát iển của con người từ khỉ”, bản năng xã hội của con người là bản năng
có ý thức.
Trong hệ tư tưởng Đức, khi bàn về buổi đầu của ý thức con người ở thời
khởi nguyên, C.Mác và Ph. Angghen đã nhận định:”đó là một ý thức quần cư
đơn thuần, và trong trường hợp này, con người khác với con cừu chỉ là ở chỗ
trong con người, ý thức thay thế bản năng hoặc bản năng của con người là
bản năng đã được ý thức”
Khi nhận định bước nhảy vọt từ loài vượn (một giống khỉ nhất định) sang loài
người, nhờ lao động và ngôn ngữ, Ph. Angghen không hề bỏ qua quá trình
tiến hóa sinh học.
Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác
động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động

phát triển của lịch sử xã hội. Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện có
sẵn của tự nhiên. Con người thì trái lại, thông qua hoạt động thực tiễn của
mình để làm phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai
.
Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình.
Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử
của chính bản thân con người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện
cho sự tồn tại của con người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống
và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, con người
thông qua hoạt động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp
đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra . Không có
hoạt động của con người thì cũng không tồn tại quy luật xã hội, và do đó,
không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người .
Không có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai đoạn
phát triển nhất định của xã hội. Do vậy, bản chất con người trong mối quan
hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động, biến đổi cũng không phải
thay đổi cho phù hợp. Bản chất con người không phải là một hệ thống đóng
kín, mà là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người. Mặc
dù là “tổng hoà các quan hệ xã hội”, con người có vai trò tích cực trong tiến
trình lịch sử với tư cách là chủ thể sáng tạo. Thông qua đó, bản chất con
người cũng vận động biến đổi cho phù hợp. Có thể nói rằng, mỗi sự vận
động và tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng ( mặc dù không trùng
khắp) với sự vận động và biến đổi của bản chất con người.Vì vậy, để phát
triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm cho hoàn cảnh
ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó chính là toàn bộ môi
trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo khuynh hướng phát
triển nhằm đạt tới các giá trị có tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa định hướng
giáo dục. Thông qua đó, con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích cực và
tác động trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau: hoạt động
thực tiễn, quan hệ ứng xử, hành vi con người, sự phát triển của phẩm chất trí

tuệ và năng lực tư duy, các quy luật nhận thức hướng con người tới hoạt
động vật chất. Đó là biện chứng của mối quan hệ giữa con người và hoàn
cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người.
II: Quan hệ giữa cá nhân và xã hội
Cá nhân là khái niệm chỉ con người cụ thể sống trong một xã hội nhất định và
được phân biệt với các cá thể khác thông qua tính đơn nhất và tính phổ biến
của nó. Khái niệm cá nhân cũng được phân biệt với khái niệm con người vì
con người là khái niệm dùng để chỉ tính phổ biến trong bản chất người của
tất cả các cá nhân.
Xã hội do các cá nhân tạo nên. Các cá nhân sống và hoạt động trong các
nhóm, cộng đồng và tập đoàn xã hội khác nhau, mang tính lịch sử xác định.
Yếu tố xã hội là đặc trưng căn bản để hình thành cá nhân. Một đứa trẻ chưa
tiếp nhận quan hệ xã hội thì chưa trở thành một cá nhân .
Như vậy, cá nhân là một chỉnh thể đơn nhất vừa mang tính cá biệt, vừa
mang tính phổ biến, là chủ thể của lao động, của mọi quan hệ xã hội và của
mọi nhận thức nhằm thực hiện chức năng cá nhân và chức năng xã hội trong
một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử - xã hội.
Mỗi cá nhân có đời sống riêng, có quan hệ xã hội riêng, có nhu cầu nguyện
vọng và lợi ích riêng, nhưng điều đó không loại trừ tính chung trong mỗi cá
nhân là thành viên của xã hội và mang bản chất xã hội.
Trong quan hệ với xã hội, cá nhân được phân biệt với các đặc trưng sau đây:
Thứ nhất, cá nhân là phương thức tồn tại cụ thể của loài người một cách trực
tiếp cảm tính. Không có con người nói chung, mà chỉ có con người cụ thể -
cá nhân - của giống loài.
Thứ hai, cá nhân là phần tử đơn nhất, riêng lẻ, tạo thành cộng đồng xã hội, là
cơ sở hình thành lịch sử xã hội loài người.
Thứ ba, cá nhân là một chỉnh thể toàn vẹn có nhân cách, biểu hiện trong
phẩm chất sinh lý và tâm lý riêng biệt của mỗi con người.
Thứ tư, cá nhân trong mối quan hệ với xã hội là một hiện tượng lịch sử, vận
động phát triển phù hợp với mỗi thời đại nhất định. Do đó, trong bất kỳ xã hội

nào, cá nhân cũng không tách rời khỏi xã hội, mỗi thời đại sản sinh ra một
kiểu cá nhân có tính đặc thù, thậm chí đối lập nhau, trong những quan hệ xã
hội nhất định.
II.2. Khái niệm nhân cách
Nhân cách là khái niệm chỉ bản sắc độc đáo, riêng biệt của mỗi cá nhân, là
nội dung và tính chất bên trong của mỗi cá nhân. Bởi vậy, nếu cá nhân là
khái niệm chỉ sự khác biệt giữa cá thể với giống loài thì nhân cách là khái
niệm chỉ sự khác biệt giữa các cá nhân. Cá nhân là phương thức biểu hiện
của giống loài, còn nhân cách vừa là nội dung, vừa là cách thức biểu hiện
của mỗi cá nhân riêng biệt.
Nhân cách biểu hiện thế giới cái tôi của mỗi cá nhân, là sự tổng hợp của các
yếu tố sinh học, tâm lý, xã hội, tạo nên đặc trưng riêng về di truyền, về sinh lý
thần kinh, về hoàn cảnh sống của cá nhân theo cách riêng của mình. Mỗi cá
nhân tiếp thu những giá trị phổ biến của văn hoá xã hội, từ đó, thông qua sự
lọc bỏ, tự tiếp nhận của bản thân để hình thành các giá trị định hướng của
nhân cách. Các giá trị như lý tưởng, niềm tin, quan hệ lợi ích, nhận thức và
hành động được mỗi cá nhân lựa chọn để xác lập hành vi cụ thể, hình thành
nhân cách trong quan hệ xã hội.
Vì vậy, nhân cách là toàn bộ những năng lực và phẩm chất xã hội - sinh lý -
tâm lý của cá nhân tạo thành chỉnh thể đóng vai trò chủ thể tự ý thức, tự
đánh giá, tự khẳng định và tự điều chỉnh mọi hoạt động của mình.
Nhân cách không phải là bẩm sinh, sẵn có mà được hình thành và phát triển
phụ thuộc vào ba yếu tố sau đây:
Thứ nhất, nhân cách phải dựa trên tiền đề sinh học và tư chất di truyền học,
một cá thể sống phát triển cao nhất của giới hữu sinh.
Thứ hai, môi trường xã hội là yếu tố quyết định sự hình thành và phát triển
của nhân cách thông qua sự tác động biện chứng của gia đình, nhà trường
và xã hội đối với mỗi cá nhân.
Thứ ba, hạt nhân của nhân cách là thế giới quan cá nhân, bao gồm toàn bộ
các yếu tố như quan điểm, lý luận, niềm tin, định hướng giá trị

Yếu tố quyết định để hình thành thế giới quan cá nhân là tính chất của thời
đại, lợi ích, vai trò địa vị cá nhân trong xã hội; khả năng thẩm định giá trị đạo
đức - nhân văn và kinh nghiệm của mỗi cá nhân. Dựa trên nền tảng của thế
giới quan cá nhân để hình thành các thuộc tính bên trong về năng lực, về
phẩm chất xã hội như năng lực trí tuệ, chuyên môn, phẩm chất chính trị, đạo
đức, pháp luật, thẩm mĩ. Sự hình thành và phát triển của nhân cách là sự
thống nhất của các yếu tố sinh học, tâm lý và xã hội để xác lập “cái tôi” của
cá nhân.
Nhân cách là thế giới quan bên trong của mỗi cá nhân. Một xã hội tiến bộ là
một xã hội mà mỗi cá nhân phát triển nhân cách của mình theo hướng tích
cực, phát huy vai trò động lực, chủ thể sáng tạo của mỗi cá nhân. Chủ nghĩa
xã hội, vừa khắc phục chủ nghĩa cá nhân cực đoan, vừa tạo ra những điều
kiện mới cho cá nhân phát triển và sáng tạo. Tinh thần đó được Đảng Cộng
sản Việt Nam khẳng định trong Cương lĩmh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội: con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột,
bất công, làm theo năng lực hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.
II.3. Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội
a. Quan hệ biện chứng giữa cá nhân và tập thể
Trong mối quan hệ vừa thống nhất, vừa khác biệt, tập thể là phần tử tạo
thành xã hội. Nó là hình thức liên kết các cá nhân thành từng nhóm trong xã
hội xuất phát từ lợi ích, nhu cầu về kinh tế, chính trị, đạo đức, thẩm mỹ, khoa
học, tư tưởng, nghề nghiệp
Cá nhân tồn tại trong tập thể với tư cách là đơn vị cấu thành của cái toàn thể,
biểu hiện bản sắc của mình thông qua hoạt động tập thể.
Suy đến cùng, thực chất mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể là quan hệ lợi
ích. Sự thống nhất biện chứng giữa cá nhân và tập thể là điều kiện cơ bản
đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân cũng như của tập thể.
Xuất phát từ bản chất xã hội của con người, cá nhân không tồn tại một cách
đích thực nếu không gắn với một tập thể nhất định. Đó là cơ sở để hình

thành tính tập thể, tính cộng đồng. Tuy nhiên, tính tập thể sẽ trở nên trừu
tượng nếu không dựa trên cơ sở lợi ích. Thông qua lợi ích, hình thành nên
sự liên kết giữa cá nhân và tập thể, quy định phương hướng hoạt động của
tập thể, nhằm làm cho tập thể vừa đảm bảo lợi ích cá nhân, vừa là điều kiện
cho sự phát triển cá nhân. Từ đó, mỗi cá nhân lại tác động thúc đẩy tập thể
phát .
Sự liên kết giữa cá nhân và tập thể được quy định bởi các mối quan hệ
khách quan và chủ quan. Tính khách quan bắt nguồn từ bản chất xã hội của
mọi thành viên, những quy định, quy tắc của tập thể bắt buộc mọi thành viên
phải thực hiện. Tính chủ quan là năng lực tự tiếp nhận điều chỉnh mọi suy
nghĩ và hành vi của cá nhân. Sự thống nhất giữa tính khách quan và chủ
quan trong quan hệ cá nhân và tập thể là điều kiện cần thiết để tập thể phát
triển lành mạnh.
Mặt khác, dựa trên cơ sở lợi ích, tính phong phú đa dạng của lợi ích cá nhân
trong một tập thể biểu hiện thành nhu cầu phong phú, đa dạng của mỗi con
người. Trong điều kiện hiện thực của tập thể, không thể đáp ứng mọi yêu cầu
của cá nhân. Vì vậy, dẫn đến mâu thuẫn giữa cá nhân với cá nhân và cá
nhân với tập thể. Tuy nhiên, đây là mâu thuẫn tất yếu nảy sinh trong quá trình
vận động và phát triển của cá nhân và tập thể. Bởi vậy, cần phải phát hiện
mâu thuẫn một cách kịp thời và phân biệt vị trí các loại mâu thuẫn để giải
quyết, trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc định hướng về sự phát triển hài hoà và
toàn diện nhu cầu và lợi ích của cá nhân và tập thể. Sự kết hợp hài hoà và
toàn diện của các quan hệ lợi ích và nhu cầu; sự bình đẳng và tôn trọng lẫn
nhau trên cơ sở nguyên tắc; ý thức trách nhhiệm về nghĩa vụ và hành vi của
mỗi cá nhân trước tập thể là những điều kiện chủ yếu cho sự phát triển của
tập thể và cá nhân phù hợp với sự phát triển của xã hội.
Mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân và tập thể đòi hỏi phải chống hai
khuynh hướng cực đoan có hại cho sự phát triển của tập thể và cá nhân:
tuyệt đối hoá tập thể, bắt cá nhân phải hy sinh một chiều; hoặc ngược lại,
tuyệt đối hoá lợi ích cá nhân để “cái tôi” của chủ nghĩa cá nhân phát triển.

Đây là hai khuynh hướng cần phải loại trừ, nhất là trong điều kiện nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
b. Quan hệ biện chứng giữa cá nhân và xã hội.
Trong triết học Mác - Lênin, quan hệ giữa cá nhân và xã hội là vấn đề có ý
nghĩa lớn được đề cập một cách toàn diện và sâu sắc trên cơ sở của chủ
nghĩa duy vật lịch sử.
Khái niệm xã hội được biểu hiện ở nhiều cấp độ khác nhau, cao nhất là xã
hội loài người (toàn thể nhân loại), thấp hơn là những hệ thống xã hội như
quốc gia, dân tộc, giai cấp, chủng tộc.
Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội có những nội dung thống nhất với quan
hệ giữa cá nhân và tập thể, chúng đều dựa trên cơ sở lợi ích, biểu hiện mối
quan hệ giữa cái bộ phận và cái toàn thể, đồng thời thể hiện tính biện chứng
vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn.
Trong bất cứ giai đoạn nào, cá nhân cũng không tách rời khỏi xã hội. Là một
hiện tượng lịch sử, quan hệ cá nhân - xã hội luôn luôn vận động, biến đổi và
phát triển, trong đó, sự thay đổi về chất chỉ diễn ra khi có sự thay thế hình
thái kinh tế - xã hội này bằng hình thái kinh tế - xã hội khác. Trong giai đoạn
cộng sản nguyên thuỷ, không có sự đối lập giữa cá nhân và xã hội. Lợi ích cá
nhân và lợi ích xã hội là thống nhất. Khi xã hội phân chia giai cấp, quan hệ cá
nhân và xã hội vừa có thống nhất vừa có mâu thuẫn. Những người bị bóc lột
không có tư cách và điều kiện để trở thành cá nhân thực sự. Những thành
viên thuộc giai cấp bóc lột có đặc quyền, đặc lợi, được khẳng định tư cách cá
nhân đặc trưng cho mỗi thời đại như cá nhân phong kiến, cá nhân tư sản.
Các kiểu cá nhân này đối lập về lợi ích với quần chúng nhân dân lao động
trong xã hội. Trong chủ nghĩa xã hội, những điều kiện của xã hội mới tạo tiền
đề cho cá nhân, để mỗi cá nhân phát huy năng lực và bản sắc riêng của
mình, phù hợp với lợi ích và mục tiêu của xã hội mới. Vì vậy, xã hội xã hội
chủ nghĩa và cá nhân là thống nhất biện chứng, là tiền đề và điều kiện của
nhau.
Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, xã hội giữ vai trò quyết định đối

với cá nhân. Bởi vậy, thực chất của việc tổ chức xã hội là giải quyết quan hệ
lợi ích nhằm tạo khả năng cao nhất cho mỗi cá nhân tác động vào mọi quá
trình kinh tế, xã hội, cho sự phát triển được thực hiện. Xã hội càng phát triển
thì cá nhân càng có điều kiện để tiếp nhận ngày càng nhiều những giá trị vật
chất và tinh thần. Vì vậy, thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu và lợi ích
chính đáng của cá nhân là mục tiêu và động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội.
Bất cứ vấn đề gì, dù là phạm vi nhân loại hay cá nhân, dù trực tiếp hay gián
tiếp, nếu lợi ích cá nhân và xã hội là thống nhất thì chính ở đó bắt gặp mục
đích và động lực của sự nỗ lực chung vì một tương lai tốt đẹp.
Vấn đề chăm sóc và phát triển những nhu cầu và năng lực phong phú, đa
dạng của mỗi cá nhân hoàn toàn không mâu thuẫn với sự phát triển của xã
hội, đồng thời, nhân cách mỗi cá nhân trong xã hội càng phát triển thì càng
có điều kiện để thúc đẩy xã hội tiến lên. Do đó, cá nhân tác động đến xã hội
tuỳ thuộc ở trình độ phát triển của nhân cách. Những cá nhân có đạo đức và
tài năng thường đóng góp tích cực và xứng đáng vào sự phát triển của xã
hội. Những cá nhân kém cỏi về nhân cách thì tác động xấu tới xã hội, kìm
hãm sự phát triển.
Mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội do sự quy định của mặt
khách quan và mặt chủ quan. Mặt khách quan biểu hiện ở trình độ phát triển
và năng suất lao động xã hội. Mặt chủ quan biểu hiện ở khả năng nhận thức
và vận dụng quy luật xã hội phù hợp với mục đích của con người.
Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội và ngay cả dưới chế độ xã hội chủ
nghĩa, những mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội vẫn còn tồn tại. Do đó, để
giải quyết đúng đắn quan hệ cá nhân - xã hội, cần phải tránh hai thái độ cực
đoan.
Một là, chỉ thấy cá nhân mà không thấy xã hội, đem cá nhân đối lập với xã
hội, nhu cầu cá nhân chưa phù hợp với điều kiện phát triển của xã hội.
Khuynh hướng này có thể dẫn đến chủ nghĩa cá nhân.
Hai là, chỉ thấy xã hội mà không thấy cá nhân, quan niệm sai lầm về lợi ích
xã hội, về chủ nghĩa tập thể, thực chất là chủ nghĩa bình quân, coi nhẹ vai trò

cá nhân lợi ích cá nhân. Xã hội càng phát triển thì nhu cầu, lợi ích cá nhân
càng đa dạng. Nếu không quan tâm đến vấn đề cá nhân, sẽ dẫn đến một xã
hội nghèo nàn, chậm phát triển, không phù hợp với bản chất của chủ nghĩa
xã hội.
Ở nước ta hiện nay, nền kinh tế thị trường đang thúc đẩy sự phát triển của
lực lượng sản xuất, nâng cao năng xuất lao động, tạo ra cơ sở vật chất và
văn hoá tinh thần ngày càng đa dạng và phong phú. Lợi ích cá nhân ngày
càng được chú ý, tạo ra cơ hội mới để phát triển cá nhân. Tuy nhiên, cơ chế
này có thể dẫn đến tuyệt đối hoá lợi ích kinh tế, dẫn tới phân hoá giàu nghèo
trong xã hội, chứa đựng những khả năng đối lập giữa cá nhân và xã hội. Do
đó, chúng ta cần khắc phục mặt trái của cơ chế thị trường, phát huy vai trò
nhân tố của con người, thực hiện chiến lược con người của Đảng ta là một
mục tiêu có ý nghĩa quyết định để giải quyết mối quan hệ giữa cá nhân và xã
hội theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ ra: Xây
dựng con người Việt Nam có tinh thần yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội, có
ý thức tự cường dân tộc, trách nhiệm cao trong lao động, có lương tâm nghề
nghiệp, có tác phong công nghiệp, có ý thức cộng đồng, tôn trọng tình nghĩa,
có lối sống văn hoá, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã hội.
III.1: Vai trò của quần chúng nhân dân và cá nhân trong lịch sử.
Sự vận động và phát triển của lịch sử xã hội đã chứng minh rằng con người
là chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch sử. Tuy nhiên, vai trò quyết định sự
phát triển xã hội là thuộc về quần chúng nhân dân hay của các cá nhân có
phẩm chất đặc biệt - vĩ nhân lãnh tụ? Vấn đề đó chúng ta sẽ giải quyết dưới
đây:
Căn cứ vào điều kiện lịch sử xã hội và những nhiệm vụ đặt ra của mỗi thời
đại mà quần chúng nhân dân bao gồm những thành phần, tầng lớp xã hội và
giai cấp khác nhau.
Như vậy, quần chúng nhân dân là một bộ phận có cùng chung lợi ích căn
bản, bao gồm những thành phần, những tầng lớp và những giai cấp, liên kết
lại thành tập thể dưới sự lãnh đạo của một cá nhân, tổ chức hay đảng phái

nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của một thời đại nhất
định.
Khái niệm quần chúng nhân dân được xác định bởi nội dung sau:
Thứ nhất, những người lao động sản xuất ra của cải vật chất và các giá trị
tinh thần, đóng vai trò là hạt nhân cơ bản của quần chúng nhân dân.
Thứ hai, những bộ phận dân cư chống lại giai cấp thống trị áp bức, bóc lột,
đối kháng với nhân dân.
Thứ ba, những giai cấp, những tầng xã hội thúc đẩy sự tiến bộ xã hội thông
qua hoạt động của mình, trực tiếp hoặc gián tiép trên các lĩnh vực của đời
sống xã hội.
Do đó, quần chúng nhân dân là một phạm trù lịch sử, vận động biến đổi theo
sự phát triển của lịch sử xã hội.
b. Vai trò của quần chúng nhân dân.
Các trường phái triết học trước Mác đều chưa nhận thức được vai trò của
quần chúng nhân dân. Tư tưởng tôn giáo cho rằng mọi sự thay đổi trong lịch
sử xã hội là do ý chí của đấng tối cao, do mệnh trời tạo nên, và trao quyền
cho các cá nhân thực hiện. Chủ nghĩa duy tâm trong triết học đề cao vai trò
của các vĩ nhân, còn quần chúng nhân dân chỉ là công cụ, phương tiện để sai
khiến. Chủ nghĩa duy vật trước Mác vẫn chưa thoát khỏi quan điểm duy tâm
của xã hội khi cho rằng, nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội là tư
tưởng, đạo đức, là các vĩ nhân và chỉ có họ mới sớm nhận thức được chân lý
vĩnh cửu. Có nhà tư tưởng lại đề cao vai trò của quần chúng nhân dân, phủ
nhận vai trò của các vĩ nhân hoặc không lý giải được một cách khoa học vai
trò quần chúng nhân dân.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định quần chúng nhân dân là chủ thể sáng
tạo chân chính ra lịch sử. Bởi vì, mọi lý tưởng giải phóng xã hội, giải phóng
con người chỉ được chứng minh thông qua sự tiếp thu và hoạt động của
quần cúng nhân dân. Hơn nữa, tư tưởng tự nó không làm biến đổi xã hội mà
phải thông qua hành động cách mạng, hoạt động thực tiễn của quần chúng
nhân dân, để biến lý tưởng ước mơ thành hiện thực trong đời sống xã hội.

Vai trò quyết định lịch sử của quần chúng nhân dân được biểu hiện ở ba nội
dung sau:
Thứ nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản suất cơ bản của xã hội,
trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của
xã hội. Con người muốn tồn tại phải có các điều kiện vật chất cần thiết, mà
những nhu cầu đó chỉ có thể đáp ứng được thông qua sản xuất. Lực lượng
sản xuất cơ bản là dông đảo quần chúng nhân dân lao động bao gồm cả lao
động chân tay và lao động trí óc. Cách mạng khoa học kĩ thuật hiện nay có
vai trò đặc biệt đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Song vai trò của
khoa học chỉ có thể phát huy thông qua thực tiễn sản xuất của quần chúng
nhân dân lao động, nhất là đội ngũ công nhân hiện đại và trí thức trong nền
sản xuất xã hội, của thời đại kinh tế tri thức. Điều đó khẳng định rằng hoạt
động sản xuất của quần chúng nhân dân là điều kiện cơ bản để quyết định
sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Thứ hai, quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng
xã hội. Lịch sử đã chứng minh rằng, không có cuộc chuyển biến cách mạng
nào mà không là hoạt động đông đảo của quần chúng nhân dân. Họ là lực
lượng cơ bản của cách mạng, đóng vai trò quyết định thắng lợi của mọi cuộc
cách mạng xã hội. Trong các cuộc cách mạng làm chuyển biến xã hội từ hình
thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác, nhân dân lao
động là lực lượng tham gia đông đảo. Cách mạng là ngày hội của quần
chúng nhân dân, là sự nghiệp của quần chúng. Tất nhiên, suy đến cùng,
nguyên nhân của mọi cuộc cách mạng là bắt đầu từ sự phát triển của lực
lượng sản xuất dẫn đến mâu thuẫn với quan hệ sản xuất, nghĩa là bắt đầu từ
hoạt động sản xuất vật chất của quần chúng nhân dân. Bởi vậy, nhân dân lao
động là chủ thể của các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội, đóng vai trò là
động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.
Thứ ba, quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra những giá trị văn hoá tinh
thần. Quần chúng nhân dân đóng vai trò to lớn trong sự phát triển của khoa
học, nghệ thuật, văn học, đồng thời áp dụng những thành tựu đó vào hoạt

động thực tiễn. Những sáng tạo về văn học, nghệ thuật, khoa học, y học,
quân sự, kinh tế, chính trị, đạo đức của nhân dân vừa là cội nguồn, vừa là
điều kiện để thúc đẩy sự phát triển nền văn hoá tinh thần của các dân tộc
trong mọi thời đại. Hoạt động của quần chúng nhân dân từ trong thực tiễn là
nguồn cảm hứng vô tận cho mọi sáng tạo tinh thần trong đời sống xã hội. Mặt
khác, các giá trị văn hoá tinh thần chỉ có thể trường tồn khi được đông đảo
quần chúng nhân dân chấp nhận và truyền bá sâu rộng, trở thành giá trị phổ
biến.
Tóm lại, xét từ kinh tế đến chính trị, từ hoạt động vật chất đến hoạt động tinh
thần, quần chúng nhân dân luôn đóng vai trò quyết định trong lịch sử. Tuy
nhiên, tuỳ vào điều kiện lịch sử mà vai trò chủ thể của quần chúng nhân dân
cũng biểu hiện khác nhau. Chỉ có trong chủ nghĩa xã hộ, quần chúng nhân
dân mới có đủ điều kiện để phát huy tài năng và trí sáng tạo của mình.
Lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng minh vai trò, sức mạnh của quần chúng
nhân dân, như Nguyễn Trãi đã nói: “Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng
là dân, thuận lòng dân thì sống, nghịch lòng dân thì chết”. Đảng Cộng sản
Việt Nam cũng khẳng định rằng cách mạng là sự nghiệp của quần chúng
nhân dân và quan điểm “lấy dân làm gốc” trở thành tư tưởng thường trực nói
lên vai trò sáng tạo ra lịch sử của nhân dân Việt Nam.
III.2. Khái niệm lãnh tụ và vai trò của lãnh tụ
a. Khái niệm.
Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, lãnh tụ là những cá nhân kiệt
xuất do phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân tạo nên.
Vĩ nhân là những cá nhân kiệt xuất, trưởng thành từ trong phong trào của
quần chúng, nắm bắt được những vấn đề căn bản nhất trong một lĩnh vực
nhất định của hoạt động thực tiễn và lý luận. Đó là những cá nhân kiệt xuất
trong các lĩnh vực chính trị, khoa học, kinh tế, nghệ thuật
Để trở thành lãnh tụ, ngoài những phẩm chất trên, cá nhân kiệt xuất còn phải
gắn bó với quần chúng, được quần chúng tín nhiệm và nguyện hy sinh quên
mình cho lợi ích của quần chúng nhân dân.

Như vậy, lãnh tụ phải là người có những phẩm chất cơ bản sau đây:
Một là, có tri thức khoa học uyên bác, nắm bắt được xu thế vận động của dân
tộc, quốc tế và thời đại.
Hai là, có năng lực tập hợp quần chúng nhân dân, thống nhất ý chí và hành
động của quần chúng nhân dân vào nhiệm vụ của dân tộc, quốc tế và thời
đại.
Ba là, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, hy sinh quên mình vì lợi ích
của dân tộc, quốc tế và thời đại.
Bất cứ một thời kỳ nào, một dân tộc nào, nếu lịch sử đặt ra những nhiệm vụ
cần giải quyết thì từ trong phong trào của quần chúng nhân dân, tất yếu sẽ
xuất hiện những lãnh tụ đáp ứng nhu cầu của lịch sử. Lênin viết: “Trong lịch
sử chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không
đào tạo được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại
biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào.
Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, lãnh tụ có nhiệm vụ chủ yếu
như sau:
Thứ nhất, nắm bắt xu thế của dân tộc, quốc tế và thời đại, trên cơ sở hiểu
biết những quy luật khách quan của các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội.
Thứ hai, định hướng chiến lược và hoạch định chương trình hành động cách
mạng.
Thứ ba, tổ chức lực lượng giáo dục thuyết phục quần chúng, thống nhất ý chí
và hành động của quần chúng nhằm hướng vào giải quyết những mục tiêu
cách mạng đề ra.
Từ nhiệm vụ trên ta thấy lãnh tụ có vai trò to lớn đối với phong trào quần
chúng như sau:
Một là, thúc đẩy hoặc kìm hãm sự tiến bộ của xã hội. Nếu lãnh tụ nắm bắt
được những quy luật vận động và phát triển của xã hội thì sẽ thúc đẩy xã hội
phát triển; ngược lại, nếu không nắm bắt được những quy luật của lịch sử xã
hội thì lãnh tụ sẽ kìm hãm sự phát triển đối với xã hội, thậm trí có thể dẫn lịch
sử đến những bước quanh co, phức tạp.

Hai là, lãnh tụ là người sáng lập ra các tổ chức chính trị, xã hội, là linh hồn
của các tổ chức đó. Vì vậy, lãnh tụ là người tổ chức điều khiển và quản lý các
tổ chức chính trị, xã hội, có vai trò và ảnh hưởng lớn đến sự tồn tại phát triển
và hoạt động của các tổ chức ấy.
Ba là, lãnh tụ của mỗi thời đại chỉ có thể hoàn thành những nhiệm vụ đặt ra
của thời đại đó. Không có lãnh tụ cho mọi thời đại, mà chỉ có lãnh tụ gắn với
một thời đại nhất định. Sau khi hoàn thành vai trò của mình, lãnh tụ trở thành
biểu tượng tinh thần mãi mãi trong tình cảm và niềm tin của quần chúng nhân
dân.
III.3. Quan hệ giữa quần chúng nhân dân với lãnh tụ
Cần phải khẳng định rằng, mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân với lãnh
tụ là quan hệ biện chứng. Tính biện chứng của mối quan hệ trên biểu hiện:
Thứ nhất, tính thống nhất giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ. Không có
phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân, không có các quá trình
kinh tế, chính trị, xã hội của đông đảo quần chúng nhân dân, thì cũng không
thể xuất hiện lãnh tụ. Những cá nhân ưu tú, những lãnh tụ kiệt xuất là sản
phẩm của thời đại, vì vậy, họ sẽ là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển
của phong trào quần chúng.
Thứ hai, quần chúng nhân dân và lãnh tụ thống nhất trong mục đích và lợi
ích của mình. Sự thống nhất về các mục tiêu của cách mạng, của hành động
cách mạng giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ do chính quan hệ lợi ích
quy định. Lợi ích biểu hiện trên nhiều khía cạnh khác nhau: lợi ích kinh tế, lợi
ích chính trị, lợi ích văn hoá Quan hệ lợi ích là cầu nối liền, là nội lực để liên
kết các cá nhân cũng như quần chúng nhân dân và lãnh tụ với nhau thành
một khối thống nhất về ý trí và hành động. Lợi ích đó vận động và phát triển
tuỳ thuộc vào thời đại, vào địa vị lịch sử của giai cấp cầm quyền mà lãnh tụ là
đại biểu, phụ thuộc vào khả năng nhận thức và vận dụng để giải quyết mối
quan hệ giữa các cá nhân, các giai cấp và tầng lớp xã hội. Từ đó, có thể thấy
rằng, mức độ thống nhất về lợi ích là cơ sở quy định sự thống nhất về nhận
thức và hành động giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ trong lịch sử.

Thứ ba, sự khác biệt giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ biểu hiện trong
vai trò khác nhau của sự tác động đến lịch sử. Tuy cùng đóng vai trò quan
trọng đối với tiến trình phát triển của lịch sử xã hội, nhưng quần chúng nhân
dân là lực lượng quyết định sự phát triển, còn lãnh tụ là người định hướng,
dẫn dắt phong trào, thúc đẩy sự phát triển của lịch sử.
Bởi vậy, mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân và vĩ nhân lãnh tụ là biện
chứng vừa thống nhất vừa khác biệt.
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định vai trò quyết định của quần chúng nhân
dân đồng thời đánh giá vai trò của lãnh tụ, kiên quyết chống lại tệ sùng bái cá
nhân.
Tệ sùng bái cá nhân, thần thánh hoá cá nhân người lãnh đạo dẫn đến tuyệt
đối hoá cá nhân kiệt xuất, vai trò người lãnh đạo mà xem nhẹ vai trò của tập
thể lãnh đạo và của quần chúng nhân dân. Căn bệnh trên dẫn đến hạn chế
hoặc tước bỏ quyền làm chủ của nhân dân, làm cho nhân dân thiếu tin tưởng
vào chính bản thân họ, dẫn đến thái độ phục tùng tiêu cực, mù quáng, không
phát huy được tính năng động sáng tạo chủ quan của mình. Người mắc căn
bệnh sùng bái cá nhân thường đặt mình cao hơn tập thể, đứng ngoài đường
lối chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Họ không thực hiện đúng
chính sách cán bộ của Đảng, vi phạm nguyên tắc sinh hoạt Đảng, chia rẽ, bè
phái, mất đoàn kết, tạo ra nhiều hiện tượng tiêu cực, đánh mất lòng tin trong
cán bộ và nhân dân, phá hoại sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân
ta. Vì thế, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin luôn luôn coi sùng bái
cá nhân là một hiện tượng hoàn toàn xa lạ đối với bản chất, mục đích, lý
tưởng của giai cấp vô sản. Những lãnh tụ vĩ đại của giai cấp vô sản như
C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh đều hết sức khiêm tốn, gần gũi
với nhân dân, đề cao vai trò sức mạnh của quần chúng nhân dân, xứng đáng
là những cá nhân kiệt xuất mà toàn thể loài người tôn kính và ngưỡng mộ.
CHƯƠNG HAI:VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NGUỒN NHÂN LỰC CON NGƯỜI
TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA,HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY.

I. Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xu hướng phát triển của các nước trên thế
giới. Đó cũng là con đường phát triển tất yếu của nước ta để đi lên mục tiêu
"Xã hội công bằng văn minh, dân giàu nước mạnh" công nghiệp hoá, hiện đại
hoá không chỉ là công cuộc xây dựng kinh tế mà chính là quá trình biến đổi
cách mạng sâu sắc với lĩnh vực đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, khoa học
của con người…) làm cho xã hội phát triển lên một trạng thái mới về chất. Sự
thành công của quá tình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi ngoài mới
trường chính trị ổn định, phải có nguồn lực cần thiết như nguồn lực con
người, vốn tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật. Các nguồn lực
này quan hệ chặt chẽ với nhau. Cùng tham gia vào quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nhưng mức độ tác động vào vai trò của chúng đối với toàn
bộ quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá không giống nhau, tỏng đó nguồn
nhân lực phải đủ về số lượng mạnh về chất lượng. Nói cách khác,
Theo các nhà kinh điều của chủ nghĩa Mác - Lênin, con người vừa là điểm
khởi đầu vừa là sự kết thúc, đồng thời lại vừa là trung tâm của sự biến đổi
lịch sử, nói cách khác con người là chủ thể chân chính của các quá trình xã
hội.Ở đây tính tích cực của con người với tư cách là chủ thể được tập trung
chú ý khai thác và bồi dưỡng chủ yếu ở những phẩm chất cần cù, trung
thành, nhiệt tình, quyết tâm với cách mạng. Một quan niệm và một cách làm
như vậy đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và khôi
phục
kinh tế sau chiến tranh. Tuy nhiên quan niệm và cách làm này cũng bộc lộ
những hạn chế nhất định trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
Trong xã hội con người không chỉ tạo ra các hệ thống và các quá trình khác
nhau của xã hội (giai cấp, đảng phía, nhà nước, sản xuất, văn hoá), mà họ
còn làm người, chính họ đã in đậm dấu ấn của tiến trình lịch sử. Lịch sử (suy
đến cùng) cũng chính là lịch sử phát triển cá nhân của con người, dù họ có
nhận thức được điều đó hay không. Từ đây cho phép tách ra một bình diện

đặc biệt trong việc xem xét "con người chủ thể" bình diện " con người cá
nhân" có nghĩa là nâng nhận thứac lên một trình độ mới - quan niệm "cái cá
nhân" là sự thể hiện (hiện thân) một cách cụ thể sinh động của "cái xã hội"
khi con người trở thành chủ thể của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường con người không chỉ nhận được sự
tích cực, mà còn cả những tác động tiêu cực của nó trước con người không
chỉ có những thời cơ và những triển vọng tươi sáng mà còn chứa đựng
những thách thức, nguy cơ, thậm chí là cả những tai hoạ khủng khiếp. (Thất
nghiệp, ô nhiễm môi trường, bệnh tật và những tệ nạn xã hội). Vì vậy trong
mỗi con người luôn có những "giằng xé" bởi những cực "chủ tớ" giầu nghèo,
thiện ác, … trong điều keịen này cần xem xét con người chủ thể với những
phẩm chất nghề nghiệp chuyên môn cụ thể trong những hoàn cảnh cụ thể
của họ.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình biến đổi căn bản và sâu sắc toàn
bộ đời sống xã hội, nó đòi hỏi vật chất cao với người "chủ thể", ở đây chỉ cần
sự cần cù, trung thành, nhiệt tình quyết tâm cách mạng chưa đủ mà điều
quan trọng hơn là trí tuệ khoa học, ý chí chiến thắng cái nghèo nàn lạc hậu,
tính năng động luôn thích ứng với hoàn cảnh, ý thức kỷ luật, bản lĩnh .
Như vậy trong điều kiện mới cần xem xét đánh giá bồi dưỡng "con người chủ
thể" không chỉ trên bình diện "con người - xã hội" mà còn trên cả bình diện.
Hơn nữa là "con người - chuyên môn nghề nghiệp" nhất định (như nhà lãnh
đạo, quản lý, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp công nhân…). Bởi vì ấn dấu
đằng sau những chủ thể cụ thể này là lợi ích tương ứng với chúng. Chỉ có
quan niệm và cách làm như vậy chúng ta mới biết tác động vào đâu.
Nói đến nguồn nhân lực tức là nói đến chủ thể tham gia vào quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy nhiên nó không phải là chủ thể biệ lập riêng rẽ,
mà là chủ thể được tổ chức thành lực lượng thống nhất về tư tưởng hành
động. Nói cách khác công nghiệp hoá, hiện đại hoá là tổng hợp những chủ
thể với những phẩm chất nhất định tham gia vào quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá. Nhưng cần phải hiểu rằng tổng hợp những chủ thể này không

phải là tập hợp giản đơn số lượng người mà nó là sức mạnh tổng hợp của
chỉnh thể người trong hành động. Sức mạnh này bắt nguồn trước hết là
những phẩm chất vốn có bên trong của mỗi chủ thể và nó được nhân lên gấp
đôi trong hoạt động thực tiễn. Động lực công nghiệp hoá, hiện đại hoá là
những gì thúc đẩy quá trình vận động và phát triển. Vì vậy khi nói "nguồn lực
với tính cách là động lực của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá" là chủ
yếu nói đến những phẩm chất tích cực của tổng hợp những chủ thể được
bộc lộ trong quá trinfh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và thúc đẩy quá trình
này vận động phát triển và thể hiện mặt tích cực mang lại những hiệu quả.
Mặt khác để xem xét vai trò nguồn lực của con người, cần đặt nó trong quan
hệ so sánh với các nguồn lực khác và ở mức độ chi phối của nó đến sự
thành bại của công cuộc đổi mới đất nước. Khi cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật và công nghiệp hiện đại phát triển mạnh mẽ, lao động trí tuệ ngày càng
gia tăng và trở thành xu thế phổ biến của nhân loại. Khi công nghiệp hoá gắn
liền với hiện đại hoá mà thực chất là hiện đại hoá lực lượng sản xuất với
cách tiếp cận như vậy vai trò quyết định nguồn lực của con người được biểu
hiện:
Trước hết các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý…
tự nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng chúng chỉ có tác dụng và có ý thức của
con người. Bởi lẽ con người là ngùn lực duy nhất biết tư duy, có trí tuệ và ý
chí biết lợi dụng, các nguồn lực khác gắn kết chúng lại với nhau tạo thành
sức mạnh tổng hợp cũng tác động vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. các nguồn lực khác là những khách thể, chịu sự cải tạo, khai thác của
con người và nói đúng thì chúng đều phục vụ nhu cầu, lợi ích của con người
nên con người biết cách tác động và chi phối trong mọi hoàn cảnh.
Thứ hai: Các nguồn lực khác là có hạn, có thể bị cạn kiệt khi khai thác. Trong
khi đó nguồn lực con người mà cốt lõi là trí tuệ lại là nguồn lực vô tận. Tính
vô tận, trí tuệ con người biểu hiện ở chỗ nó có khả năng không chỉ tái sinh
mà còn tự sản sinh về mặt sinh học mà còn đổi mới không ngừng phát triển
về chất trong con người xã hội, nếu biết chăm lo, bồi dưỡng và khai thác hợp

lý. Đó là cơ sở làm cho năng lực và nhận thức hoạt động thực tiễn của con
người phát triển như một quá trình vô tận. Xét trên bình diện cộng đồng nhân
loại.
Nhờ vậy con người đã từng bước làm chủ tự nhiên, khám phá ra những tài
nguyên mới và sáng tạo ra những tài nguyên vốn không có sẵn trong tự
nhiên. Với bản chất hoạt động có mục đích sáng tạo ra những hệ thống công
cụ sản xuất mới đã tác động vào tự nhiên một cách dễ dàng hơn. Chính sự
phát triển không ngừng của công cụ sản xuất từ thủ công đến cơ khí và ngày
nay là tự động hoá được xã hội loài người chuyển qua các nền văn minh.
Thứ ba: Trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn một khi nó được vật
thể hoá, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Dự báo này của Mác đã và
đang trở thành hiện thực. Sự phát triển vũ bão của cuộc cách mạng khoa học
kỹ thuật công nghệ hiện đại đang dẫn các nền kinh tế của các nước công
nghiệp phát triển vận động đến nền kinh tế trí tuệ (mà gọi là tri thức). Ở
những nước này lực lượng sản xuất trí tuệ ngày càng phát triển và chiếm tỷ
trọng cao. Nguồn lợi mà họ thu được từ lao động chất xám chiếm tới 1/2 tổng
giá trị tài sản quốc gia. Giờ đây sức mạnh của trí tuệ đạt đến mức nhờ có
cuộc cách mạng con người có thể tạo ra những máy móc "bắt chước" hay
phỏng theo những đặc tính trí tuệ của chính con người. Rõ ràng bằng những
kỹ thuật công nghệ hiện đại do chính bàn tay khối óc con người mà ngày nay
nhân loại đang chứng kiến sự biến đổi nhanh chóng vũ bão.
Thứ tư: Kinh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn của chính nước ta cho thấy
sự thành công của công nghiệp hoá hiện đại hoá phụ thuộc chủ yếu vào
hoạch định đường lối chính sách cũng như tổ chức thực hiện nghĩa là phụ
thuộc vào năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
Việc thực hiện và hoàn thành tốt công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá có
ý nghĩa đặc biệt to lớn và có tác dụng hoàn thiện nhiều mặt.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá làm thay đổi căn bản kỹ thuật, công nghệ, sản
xuất, tăng năng suất lao động công nghiệp hoá hiện đại hoá chính là thực
hiện xã hội hoá nhiều mặt, góp phần ổn định, ngày càng nâng cao đời sống

vật chất và văn hoá của mọi thành viên trong cộng đồng xã hội.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá phát triển mối quan hệ kinh tế giữa các
ngành, các vùng trong phạm vi mỗi nước và các nước với nhau, nâng cao
trình độ quản lý kinh tế của nhà nước nâng cao khả năng tích luỹ mở rộng.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá không ngừng nâng cao vai trò của nhân tố
con người trong nền sản xuất và đặc biệt trong nền sản xuất lớn hiện đại, kỹ
thuật cao. Chỉ trên cơ sở thực hiện tốt công nghiệp hoá, hiện đại hoá mới có
khả năng thực hiện và quan tâm đầy đủ đến sự phát triển tự do và toàn diện.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo điều kiện vật chất cho việc củng cố và
tăng cường tiềm lực quốc phòng khả năng đảm bảo an ninh và quốc phòng,
các yếu tố vật chất, kỹ thuật đáp ứng yêu cầu đó, công nghiệp hoá, hiện đại
hoá có tác dụng trực tiếp và chủ yếu trong việc tạo ra tiềm lực to lớn.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn tạo nhiều khả năng cho việc thực hiện tốt
sự phân công và hợp tác quốc tế về kinh tế, khoa học, công nghệ văn hoá xã
hội.
II. Mục tiêu con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước
ta hiện nay
Mục tiêu "Xây dựng nước ta thành thành một nước công nghiệp có cơ sở vật
chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý quan hệ sản xuất tiến bộ, phù
hợp với trình độ của lực lượng sản xuất đời sống vật chất và tinh thần cao,
quốc phòng an ninh giữ vững, dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn
minh". Đó trước hết là cuộc cách mạng con người vì con người và do con
người. Bởi khi chúng ta nói về những ưu việt của chủ nghĩa xã hội thì những
ưu việt đó không do ai đưa đến. Đó phải là kết quả những nỗ lực vượt bậc và
bền bỉ của toàn dân ta với những con người phát triển cả về trí lực về cả khả
năng lao động và tính tích cực chính trị - xã hội và đạo đức tình cảm trong
sáng.
Nhìn lại toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng từ ngày thành lập (3-2-1930)
đến nay. Đảng ta đã nhiều lần khẳng định "con người là vốn quý nhất chăm
lo cho hạnh phúc của con người mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta".

Trên thực tế trong suốt những năm tháng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác Đảng ta đã cố gắng làm nhiều việc theo
hướng đó. Dân sự chăm lo cho hạnh phúc con người chưa có nhiều thành
công như mong muốn, việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho
những người lao động còn thấp, song phần nào đã đáp ứng nguyện vọng
của nhân dân, của những người lao động chăm lo cho hạnh phúc của nhân
dân". Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân ta
phải hết sức tránh" đã được Đảng ta đặt lên vị trí hàng đầu và coi đó là nhiệm
vụ Trung tâm. Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh - "Vì lợi ích mười năm trồng
cây, vì lợi ích trăm năm trồng người" và "muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội
trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa" - đã trở thành tư tưởng
quán xuyến toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng ta với tư cách là Đảng
cầm quyền ngay từ đầu mọi chủ trương, chính sách, đường lối của Đảng đều
quán triệt việc chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy,phẩm chất đạo đức.
Trong "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội" Đảng ta đã chỉ rõ: "Phương hướng lớn của chính sách xã hội là: Phát
huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về nghĩa vụ
và quyền lợi công dân kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa
đời sống vật chất và đời sống tinh thần, giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt
với chăm lo lợi ích lâu dài giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội".
Định hướng có ý nghĩa chiến lược đó chính là thể hiện tư tưởng vì con
người, của mục tiêu phát triển con người Việt Nam, toàn diện trong công
cuộc xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay.
Việc đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước đòi hỏi
chúng ta phải nhận thức một cách sâu sắc đầy đủ những giá tị lớn lao và có ý
nghĩa quyết định của nhân tố con người chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn
của cải vật chất và văn hoá tinh thần. Phải có sự thay đổi sâu sắc cách nhìn,
cách nghĩ, cách hành động của con người và coi việc bồi dưỡng phát huy
nhân tố con người Việt Nam hiện đại như một cuộc cách mạng. Hơn nữa, với

tinh tất yếu khách quan của sự nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và cách mạng con
người phải được nhận thức là hai mặt thống nhất, không thể tách rời của sự
nghiệp.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
không thể không xuất phát từ tinh thần nhân văn sâu sắc, không thể không
phát triển con người Việt Nam toàn diện để lấy đó làm động lực xây dựng xã
hội ta thành một xã hội "công bằng, nhân ái", "tốt đẹp và toàn diện" để bồi
dưỡng và phát huy nhân tố con người, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ, nhất thiết
phải từng bước hiện đại hoá đất nước và đời sống xã hội và chúng ta "tăng
trưởng nguồn lực con người khi quá hiện đại hoá các ngành giáo dục, văn
hoá, văn nghệ, bảo vệ sức khoẻ, dân số và kế hoạch hoá gia đình gắn liền
với việc kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc"
chỉ có trên cơ sở đó khi phát triển nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị
trường chúng ta mới có thể tránh được nguy cơ tha hoá, không xa rời những
giá trị truyền thống, không đánh mất bản sắc dân tộc, đánh mất bản thân
mình trở thành cái bóng của người khác,của các dân tộc khác.
Nền công nghiệp hoá, hiện đại hoá là vì mục tiêu phát triển con người toàn
diện thì con người ở đây không chỉ hiểu với tư cách là người lao động sản
xuất mà còn với tư cách là công dân của xã hội, một cá nhân trong tập thể,
một thành viên trong cộng đồng dân tộc, một con người trí tuệ trước vận
mệnh quốc gia. Đó không chỉ là đội ngũ những người lao động có năng suất
cao những nhà khoa học giỏi, các chuyên gia kỹ thuật, các nhà doanh nghiệp
biết làm ăn, những nhà quản lý, lãnh đạo có tài, mà đó còn là hàng triệu
những công dân yêu nước, ý thức được cuộc sống đói nghèo và nguy cơ tụt
hậu.
Qua sự phân tích trên có thể khẳng định rằng bước sang thời kỳ phát triển
mới - đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, chúng ta phải lấy việc phát huy nguồn lực con người Việt Nam
hiện đại làm yếu tố cơ bản cho việc phát triển nhanh, bền vững phải gắn tăng

trưởng kinh tế với cải thiện đời sống nhân dân phát triển văn hoá, giáo dục,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Nếu công nghiệp hoá, hiện đại hoá là
vì sự nghiệp phát triển con người, thì con người phải được coi là giá trị tối
cao.
III. Hiện trạng và giải pháp cho nguồn lực con người ở nước ta hiện nay.
Để thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
chúng ta phải sử dụng đúng nguồn lực trong đó nguồn lực con người là
nguồn lực quan trọng nhất. Muốn sử dụng tốt nguồn lực này chúng ta phải
hiểu rõ thực trạng và tiềm năng của nó. Khi đó chúng ta mới có thể khắc
phục.
Nhìn thực trạng nguồn lực nước ta hiện nay không thể không có những băn
khoăn. Bên cạnh những ưu thế như, lực lượng lao động dồi dào (hơn 65 triệu
lao động). Con người Việt Nam cần cù chịu khó, thông minh và sáng tạo có
khả năng vận dụng và thích ứng nhanh, thì những hạn chế về mặt chất lượng
người lao động, sự bất hợp lý về phân công lao động được đào tạo trong các
lĩnh vực sản xuất và những khó khăn trong phân bổ dân cư cũng không phải
là nhỏ. Đại bộ phận lao động nước ta chưa được đào tạo đầy đủ, số người
đào tạo mới chỉ chiếm 10%, nền kinh tế quốc dân còn thiếu nhiều lao động và
cán bộ có tay nghề và trình độ kỹ thuật, nghiệp vụ cao trong tổng số người
lao động chỉ hơn 1,65% có trình độ cao đẳng trở lên 30% (số liệu mới) tốt
nghiệp phổ thông trung học, 50% chưa tốt nghiệp phổ thông cơ sở. Mặt khác
mặt bằng dân trí còn thấp, số năm đi học của mỗi người dân từ 7 tuổi trở lên
mới đạt bình quân 4,5 năm. Điều đáng kể lo ngại và đau đầu nhất của nhà
nước ta đó là nạn mù chữ, tới nay nước ta 8% dân số mù chữ, chưa phổ cập
được giáo dục tiểu học. Mặt khác người lao động Việt Nam còn hạn chế về
thể lực, sự phát triển về phương diện sinh lý và thế lực dường như còn
chững lại, hơn nữa người lao động nước ta nói chung văn hoá còn kém, lao
động công nghiệp quen theo kiểu sản xuất nhỏ,tự phát,nhỏ lẻ.
Cùng với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường thực trạng đội ngũ cán bộ
tri thức Việt Nam đặc biệt là tri thức cao đang đặt ra một vấn đề được giải

quyết, sự già hoá của đội ngũ trí thức, trong các ngành khoa học trọng yếu
tuổi bình quân của tiến sỹ là 52,8, phó tiến sỹ 48,1, giáo sư 59,5, phó giáo sư
56,4. Cấp viện trưởng là 55 (số liệu này cho tới nay đã thay đổi). Như vậy
đến năm 2001 hơn 80% số người có học hàm, học vị hiện nay đã đến tuổi về
hưu.
Trong khi số người có học vấn cao giảm thì số sinh viên tốt nghiệp đại học và
cao đẳng không tìm được việc làm lại tăng lên phải chăng chúng ta đã quá
thừa những người có học vấn chắc chắn là không. Sự thừa đó chính là tác
động của mặt trái của kinh tế thị trường. Rõ ràng sự chậm cải tạo giáo dục và
nội dung đào tạo không theo kịp những đòi hỏi của người sử dụng đã dẫn
đến sự lãng phí trong đầu tư cho giáo dục, lực lượng lao động ở nước ta hiện
nay rất hạn chế về chất lượng nhất là trình độ chuyên môn, nghề nghiệp, kỹ
năng lao động, thể lực và văn hoá lao động công nghiệp. Thêm vào đó việc
sử dụng và khai thác số lao động, đã được đào tạo, có trình độ lại không hợp
lý và kém hiệu quả. Nếu chúng ta không có một nỗ lực phi thường bằng hành
động thực tế trong việc xây dựng và sử dụng nguồn lực lao động thì sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá khó có thể thực hiện được thành công;
và đó cũng là lý do vì sao nhiều nhà khoa học kêu gọi phải tiến hành một
cuộc cách mạng về con người mà thực chất là cách mạng về chất lượng lao
động mỗi bước tiến của "cách mạng con người" sẽ đem lại những thành tựu
to lớn cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá, như chúng ta đã biết
"cách mạng con người" với công nghiệp hoá, hiện đại hoá là hai mặt của một
quá trình phát triển thống nhất, giữa chúng có một quan hệ.
Để tạo ra sự thay đổi căn bản về chất lượng trong nguồn lực con người cần
có hàng loạt những giải pháp thích ứng nhằm phát triển tốt yếu tố của con
người.
Chăm sóc đào tạo phát huy nguồn lực con người phục vụ cho xã hội.
Vấn đề con người trong công cuộc đổi mới vì công nghiệp hoá, hiện đại hoá
tập trung thành vấn đề quan trọng bậc nhất trong "kết cấu hạ tầng xã hội,
kinh tế" tức là một trong những tiền đề cơ bản để phát triển xã hội.

Đại hội VIII của Đảng ta là đại hội công nghiệp hoá, hiện đại hoá mở ra bước
ngoặt lịch sử đưa nước ta tiến lên một thời kỳ phát triển toàn diện mỗi "Lấy
việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững". Vì vậy cần được tập trung và chăm sóc bồi dưỡng, đào
tạo phát huy sức mạnh của con người Việt Nam thành lực lượng lao động xã
hội, lực lượng sản xuất có đủ bản lĩnh và kỹ năng nghề nghiệp đáp ứng yêu
cầu phát triển đất nước, đủ sức xây dựng và bảo vệ tổ quốc hợp tác cạnh
tranh trong kinh tế thị trường mở cửa nhiều thành phần theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Sức mạnh của con người và các dân tộc sống trên đất nước
Việt Nam. Phải thể hiện thành sức mạnh của đội ngũ nhân lực, trong đó có
bộ phận nhân tài trên nền dân trí với cốt lõi là nhân cách nhân phẩm đậm đà.
Nói đến nguồn lực con người là nói đến sức mạnh trí tuệ tay nghề. Phương
hướng chủ yếu của đổi mới giáo dục - đào tạo là phục vụ đắc lực cho công
cuộc phát triển đất nước, tức là cuối cùng phải tạo ra được nguồn lực con
người. Các trường chuyên nghiệp và đại học tập trung vào đào tạo nguồn
nhân lực đủ khả năng tiếp cận công nghệ tiên tiến, công nghệ coi như báo
cáo chính trị đại hội VIII đã chỉ ra. Phải mau chóng làm cho khoa học và công
nghệ trở thành nền tảng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Giáo dục đại học
phải kết hợp với nghiên cứu khoa học, phát triển khoa học cả về cơ bản và
ứng dụng. Bảo đảm tập trung đào tạo đội ngũ nhân lực cho công nghiệp hoá,
hiện đại hoá với diện đại trà, đồng thời đặc biệt chú ý tới mũi nhọn - có chính
sách phát hiện bồi dưỡng và sử dụng người tài mau chóng tăng cường đội
ngũ nhân lực có trình độ và năng lực cao, từ các nghệ nhân làm các nghề
truyền thống đến các chuyên gia công nghệ cao. Giáo dục và đào tạo kết hợp
chặt chẽ với khoa học kỹ thuật công nghệ mới có thể đóng góp xứng đangs
vào phát huy nguồn lực con người, tuy nhiên một yếu tố mà ngày nay con
người cần phải hoàn thiện đó là tiếp thu khoa học kĩ thuật,vốn tri thức.
Muốn có nguồn lực con người đáp ứng được công cuộc đổi mới giáo dục nhà
trường cùng với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội phải làm tốt việc phát
động một cao trào học tập trong toàn Đảng toàn dân, toàn quân nhằm đào

tạo nên những con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất,
phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Vậy mọi chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước cần phải quán triệt
việc chăm sóc, bồi dưỡng và phát triển nhân tố con người.


___Hết____
___Hết____

×