Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

BÀI ĐIỀU KIỆN Chuyên đề Kiểm định, đáng giá và quản lý giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.63 KB, 10 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
@&?

BÀI ĐIỀU KIỆN
Chuyên đề: Kiểm định, đáng giá và quản lý giáo dục
.
Giảng viên : PGS.TS. Trần Thị Tuyết Oanh
Học viên:
Lớp cao học K23 - QLGD2.

Hà Nội, ngày 20 tháng 11 năm 2014
1
BÀI ĐIỀU KIỆN
Chuyên đề: Kiểm định đánh giá và quản lý chất lượng giáo dục
Giảng viên: PGS.TS. Trần Thị Tuyết Oanh
Họ và tên: Nguyễn Hoàng Anh
Lớp Cao học quản lý giáo dục 2 - khoá 23
Trường Đại học sư phạm Hà Nội.
CÂU HỎI
Mục đích, ý nghĩa của KĐCL giáo dục, cho ý kiến đánh giá về thực trạng
KĐCL giáo dục hiện nay?
TRẢ LỜI
1. Mục đích của Kiểm định chất lượng
Kiểm định chất lượng giáo dục cơ sở giáo dục phổ thông, cơ sở giáo dục
thường xuyên nhằm giúp cơ sở giáo dục xác định mức độ đáp ứng mục tiêu giáo
dục trong từng giai đoạn, để xây dựng kế hoạch cải tiến chất lượng giáo dục, nâng
cao chất lượng các hoạt động giáo dục; thông báo công khai với các cơ quan quản
lý nhà nước và xã hội về thực trạng chất lượng của cơ sở giáo dục; để cơ quan
quản lý nhà nước đánh giá và công nhận cơ sở giáo dục đạt tiêu chuẩn chất lượng
giáo dục.


Trong giáo dục học, đánh giá được hiểu là quá trình hình thành những nhận
định, phán đoán về kết quả công việc, dựa vào sự phân tích những thông tin thu
được đối chiếu với mục tiêu, tiêu chuẩn đã đề ra, nhằm đề xuất những quyết định
thích hợp để cải thiện thực trạng, điều chỉnh, nâng cao chất lượng và hiệu quả công
tác giáo dục. Qua cách hiểu trên, đánh giá trong giáo dục không chỉ ghi nhận thực
trạng mà còn đề xuất những quyết định làm thay đổi thực trạng giáo dục theo chiều
hướng mong muốn của xã hội. Trong công tác giáo dục, việc đánh giá được tiến
hành ở nhiều cấp độ khác nhau và với những mục đích khác nhau.
Cụ thể, việc đánh giá tiến hành ở cấp độ sau:
- Đánh giá hệ thống giáo dục của một quốc gia.
- Đánh giá một dơn vị giáo dục.
- Đánh giá giáo viên.
- Đánh giá học sinh.
2. Ý nghĩa của đánh giá, kiểm định chất lượng giáo dục
- Chất lượng Giáo dục - Đào tạo có thể đánh giá trực tiếp qua sản phẩm đào tạo,
qua chất lượng sinh viên, học sinh lên lớp, tốt nghiệp, tuy nhiên cũng có thể đánh
giá gián tiếp qua các điều kiện để đảm bảo chất lượng.
- Kiểm định chất lượng tiếp cận theo cách phối hợp hai cách đánh giá trên.
2
- Kiểm định chất lượng giáo dục - đào tạo là một hệ thống tổ chức và giải pháp để
đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo (đầu ra) và các điều kiện bảo đảm chất lư-
ợng giáo dục - đào tạo theo các chuẩn mực được quy định.
- Những chương trình giáo dục - đào tạo và cơ sở đào tạo đạt chuẩn sau khi kiểm
định, được thông báo công khai cho người học, người sử dụng lao động và toàn xã
hội như một bằng chứng bảo đảm cho chất lượng giáo dục - đào tạo của các cơ sở
và các chương trình đào tạo.
+ Giúp giáo viên xác nhận thực trạng dạy và học. Giúp giáo viên điều chỉnh hoạt
động dạy, điều khiển hoạt động học để hoàn thiện hoạt động dạy học
+ Giúp nhà trường tự đánh giá chất lượng dạy học và giáo dục học sinh.
+ Đối với người học: điều chỉnh quá trình học

+ Đối với người quản lý: Nắm được chất lượng của việc dạy, việc học. Điều chỉnh
hoạt động dạy, hoạt động học
Kiểm định chất lượng mang lại cho cộng đồng, đặc biệt là sinh viên, học
sinh sự đảm bảo chắc chắn một trường học đã được chứng minh thỏa mãn các yêu
cầu và tiêu chí đáng tin cậy và có đủ cơ sở để tin rằng trường này sẽ tiếp tục đạt
các yêu cầu và tiêu chí đã đề ra.
Kiểm định chất lượng không những mang lại cho cộng đồng bằng chứng về
chất lượng đào tạo nhà trường mà còn mang lại cơ hội và động cơ để nâng cao chất
lượng cho các trường đã qua kiểm định. Một trường học chỉ được công nhận về
chất lượng khi đáp ứng được các yêu cầu và tiêu chí của hội đồng kiểm tra và chịu
sự kiểm tra của các cán bộ đánh giá giàu kinh nghiệm và hiểu các yêu cầu kiểm
định của giáo dục đại học.
Kiểm định chất lượng mang lại cho các trường cơ hội tự phân tích đánh giá
để có những cải tiến về chất lượng.
* Thực trạng: Qua thực tế hiện nay việc kiểm định chất lượng giáo dục hiện nay
tôi thấy thông qua việc kiểm định chất lượng chúng ta đã làm rõ được những nội
dung sau:
a. Đối với học sinh.
Việc kiểm tra và đánh giá được tiến hành thường xuyên, có hệ thống đã giúp
học sinh: Có hiểu biết kịp thời những thông tin “liên hệ ngược” bên trong. Điều
chỉnh hoạt động học tập của chính mình được thể hiện ở ba mặt sau:
- Về mặt giáo dưỡng , việc kiểm tra, đánh giá giúp các em học sinh thấy được:
+ Tiếp thu bài học ở mức độ nào?
+ Cần phải bổ khuyết những gì?
+ Có cơ hội nắm chắc những yêu cầu của từng phần trong chương trình học
tập.
- Về mặt phát triển, thông qua việc kiểm tra, đánh giá, học sinh có điều kiện để tiến
hành các hoạt động trí tuệ như:
+ Ghi nhớ
+ Tái hiện

+ Chính xác hóa
3
+ Khái quát hóa
+ Hệ thống hóa
+ Hoàn thiện những kĩ năng, kĩ xão vận dụng tri thức đã học
+ Phát triển năng lực chú ý
+ Phát triển năng lực tư duy sáng tạo.
Như vậy, nếu việc kiểm tra và đánh giá được tiến hành tốt nó sẽ tạo điều
kiện thuận lợi cho học sinh phát triển năng lực tư duy sáng tạo, linh hoạt vận dụng
kiến thức đã học giải quyết những tình huống thực tế.
- Về mặt giáo dục: Kiểm tra, đánh giá nếu được tổ chức tốt sẽ mang ý nghĩa giáo
dục đáng kể. Việc kiểm tra, đánh giá tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh: Hình
thành nhu cầu, thói quen tự kiểm tra, đánh giá, nâng cao tinh thần trách nhiệm
trong học tập và ý chí vươn tới những kết quả học tập ngày càng cao, đềø phòng và
khắc phục tư tưởng sai trái như “trung bình chủ nghĩa”, tư tưởng đối phó với thi
cử; nâng cao ý thức kỷ luật tự giác, không có thái độ và hành động sai trái với thi
cử. Củng cố được tính kiên định, lòng tự tin vào sức lực khả năng của mình, đề
phòng và khắc phục được tính ỷ lại, tính tự kiêu tự mãn, chủ quan ; phát huy được
tính độc lập sáng tạo, tránh được chủ nghĩa hình thức, máy móc trong kiểm tra.
Nâng cao ý thức tập thể, tạo được dư luận lành mạnh, đấu tranh với những tư
tưởng sai trái trong kiểm tra, đánh giá, tăng cường được mối quan hệ thầy trò…
- Như vậy chúng ta có thể khẳng định:
Việc kiểm tra, đánh giá học sinh có các tác dụng đối với học sinh như :
+ Giúp học sinh phát hiện và điều chỉnh thực trạng hoạt động học tập.
+ Củng cố và phát triển trí tuệ cho các em.
+ Giáo dục cho học sinh một số phẩm chất đạo đức nhất định .
b. Đối với giáo viên
Việc kiểm tra, đánh giá học sinh sẽ giúp cho người giáo viên những “thông tin
ngược ngoài” , từ đó có sự điều chỉnh hoạt động dạy cho phù hợp như :
- Kiểm tra, đánh giá, kết hợp theo dõi thường xuyên các em tạo điều kiện cho

người giáo viên: Nắm được cụ thể và tương đối chính xác trình độ năng lực của
từng học sinh trong lớp do mình giảng dạy hoặc giáo dục, từ đó có những biện
pháp giúp đỡ thích hợp, trước là đối với học sinh khá giỏi và học sinh yếu kém,
qua đó mà năng cao chất lượng học tập chung của cả lớp.
- Kiểm tra, đánh giá được tiến hành tốt sẽ giúp giáo viên nắm được :
Trình độ chung của cả lớp hoặc khối lớp
Những học sinh có tiến bộ rõ rệt hoặc sa sút đột ngột.
Qua đó, động viên hoặc giúp đỡ kịp thời các em này.
- Kiểm tra, đánh giá tạo cơ hội cho thầy giáo xem xét có hiệu quả những việc làm
sau:
Cải tiến nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học mà người giáo viên
đang tiến hành.
Hoàn thiện việc dạy học của mình bằng con đường nghiên cứu khoa học giáo
dục.
4
c. Đối với cán bộ quản lý giáo dục
- Kiểm tra, đánh giá học sinh sẽ cung cấp cho cán bộ quản lý giáo dục các cấp
những thông tin cần thiết về thực trạng dạy - học trong một đơn vị giáo dục để có
những chỉ đạo kịp thời, uốn nắn những sai lệch nếu có; khuyến khích, hỗ trợ những
sáng kiến hay đảm bảo thực hiện tốt mục tiêu giáo dục. Kiểm tra, đánh giá học sinh
có ý nghĩa về nhiều mặt, trong đó quan trọng nhất vẫn là đối với chính bản thân
từng em học sinh.
- Kiểm tra, đánh giá thực hiện ba chức năng :
+ Chức năng sư phạm: Kiểm tra, đánh giá học sinh sẽ làm sáng tỏ thực
trạng, định hướng điều chỉnh hoạt động dạy học cho phù hợp đạt kết quả tốt hơn.
+ Chức năng xã hội: Kiểm tra, đánh giá học sinh sẽ giúp cho việc công khai
hóa kết quả học tập của học sinh trong tập thể lớp, trong trường, báo cáo kết quả
học tập giảng dạy trước phụ huynh học sinh, trước nhân dân, trước các cấp quản lí
giáo dục.
+ Chức năng khoa học: Kiểm tra, đánh giá học sinh sẽ giúp cho việc đánh

giá, nhận định chính xác về một mặt nào đó trong hoạt động dạy học, về hiệu quả
thực nghiệm một sáng kiến cải tiến nào đó trong công tác dạy học. Đảm bảo tính
khách quan: Tạo điều kiện để mỗi học sinh bộc lộ thực chất khả năng và trình độ
của mình. Ngăn ngừa được tình trạng thiếu trung thực khi làm bài kiểm tra…Tránh
đánh giá chung chung về sự tiến bộ của toàn lớp hay của một nhóm thực hành, một
tổ thực tập. Việc đánh giá phải sát với hoàn cảnh và điều kiện dạy học. Tránh
những nhận định chủ quan, áp đặt, thiếu căn cứ.
Đảm bảo tính toàn diện: việc kiểm tra, đánh giá phải đảm bảo yêu cầu
đánh giá toàn diện, thể hiện:
Số lượng
Chất lượng
Kiến thức
Kĩ năng, kĩ xảo
Thái độ của từng cá nhân
Đảm bảo tính hệ thống: Việc kiểm tra, đánh giá học sinh phải đảm bảo tính
hệ thống, có kế hoạch, thường xuyên. Điều này được thể hiện ở các điểm sau:
Đánh giá trước, trong, sau khi học xong một phần, một chương, môn học. Kết hợp
kiểm tra đánh giá thường xuyên, kiểm tra đánh giá định kỳ, tổng kết cuối năm, cuối
khóa học. Số lần kiểm tra phải đủ mức để có thể đánh giá được chính xác.
Đảm bảo tính công khai: Việc kiểm tra, đánh giá phải được tiến hành công
khai: Kết quả kiểm tra, đánh giá phải được công bố kịp thời để mỗi học sinh có
thể: Tự xếp hạng trong tập thể . Tập thể học sinh hiểu biết, học tập giúp đỡ lẫn
nhau. Kết quả kiểm tra, đánh giá phải được ghi vào hồ sơ, sổ sách.
* Chất lượng giáo dục là một vấn đề luôn được xã hội quan tâm vì tầm quan trọng
hàng đầu của nó đối với sự nghiệp phát triển đất nước nói chung, sự nghiệp phát
triển giáo dục nói riêng. Mọi hoạt động giáo dục được thực hiện đều hướng tới
mục đích góp phần đảm bảo, nâng cao chất lượng giáo dục; và một nền giáo dục ở
5
bất kì quốc gia nào bao giờ cũng phải phấn đấu để trở thành một nền giáo dục chất
lượng cao. Mặc dù vậy, do tính chất phức tạp, đa dạng, nhiều chiều của vấn đề,

hiểu đầy đủ về chất lượng giáo dục cũng như xác định quy trình, phương pháp, kĩ
thuật đánh giá chất lượng giáo dục một cách khoa học, phù hợp với thực tiễn phát
triển của xã hội, của giáo dục trong một hoàn cảnh cụ thể không phải là điều đơn
giản.
Một vài năm trở lại đây, trong lí luận và thực tiễn giáo dục Việt Nam đã xuất
hiện một khái niệm khá mới mẻ: kiểm định chất lượng giáo dục (KĐCLGD). Là
một giải pháp quản lí chất lượng nhằm đưa ra những kết quả tin cậy bằng cách
kiểm soát các điều kiện, quá trình tổ chức giáo dục thông qua những tiêu chuẩn,
tiêu chí, chỉ số ở các lĩnh vực cơ bản của hệ thống giáo dục cũng như của các cơ sở
giáo dục, KĐCLGD ở Hoa Kì và nhiều nước phát triển trên thế giới đã trở thành
hoạt động thường xuyên, quen thuộc, thậm chí trở thành điều kiện tồn tại của nhiều
cơ sở giáo dục (trước hết là giáo dục đại học). Trong khi đó, ở Việt Nam,
KĐCLGD vẫn còn là một lĩnh vực chưa thực sự được nhiều người, thậm chí cả
những người trực tiếp làm công tác quản lí giáo dục các cấp hiểu, đánh giá và quan
tâm đúng mức.
Trong hệ thống các mô hình quản lí chất lượng giáo dục, KĐCLGD thực
chất là bước phát triển của một mô hình quen thuộc hơn: mô hình đánh giá chất
lượng giáo dục. Do vậy, KĐCLGD thường được quan niệm là một quá trình đánh
giá ngoài nhằm đưa ra một quyết định công nhận tính chuẩn mực của mộtcơ sở giáo
dục hay một chương trình đào tạo của cơ sở giáo dục. Chẳng hạn, theo định nghĩa
của CHEA (Hiệp hội kiểm định giáo dục đại học), KĐCLGD đại học được xác định
là “một quá trình xem xét chất lượng từ bên ngoài, được giáo dục đại học sử dụng để
khảo sát đánh giá các cơ sở giáo dục cao đẳng và đại học và các ngành đào tạo đại
học nhằm đảm bảo và cải tiến chất lượng" (CHEA, 2003); còn theo cách diễn đạt
của SEAMEO (Tổ chức Bộ trưởng Giáo dục các nước Đông Nam Á): KĐCLGD đại
học là“một quá trình đánh giá nhằm đưa ra một quyết định công nhận một cơ sở
giáo dục đại học hay một ngành đào tạo của cơ sở giáo dục đại học đáp ứng các
chuẩn mực quy định” (SEAMEO, 2003). Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng: trong mô
hình đánh giá chất lượng giáo dục, để phân biệt các loại đánh giá trường học, người
ta thường dựa vào tính chất của các thành phần tham gia đánh giá. Có bốn nhóm

chính tham gia đánh giá trường học là:
- Các tổ chức đánh giá độc lập/các nhà tài trợ hoặc cơ quan quản lí đề xướng việc
đánh giá;
- Các cán bộ đánh giá (có chuyên môn);
- Những người có thể cung cấp thông tin;
- Người sử dụng hoặc tiếp nhận các kết quả đánh giá.
Nếu cả bốn nhóm trên ở trong cùng một tổ chức, người ta gọi đó là “đánh giá
trong” hay “tự đánh giá”; trong trường hợp ngược lại, người ta gọi đó là “đánh giá
ngoài”.KĐCLGD bao gồm trong mình cả hai loại hình đánh giá cơ bản đó; nói cách
khác, để hiểu đầy đủ hơn về KĐCLGD theo đúng quy trình của nó, vấn đề cần xác
6
định thêm là: KĐCLGD tuy là một quá trình đánh giá ngoài nhưng nhiệm vụ chủ
yếu của đánh giá ngoài ở đây lại là đánh giá kết quả tự đánh giá. Tự đánh giá là một
khâu quan trọng trong hoạt động KĐCL các cơ sở giáo dục. Đây là quá trình cơ sở
giáo dục tự xem xét, đối chiếu với các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng do cơ quan
có thẩm quyền ban hành để báo cáo về tình trạng chất lượng, hiệu quả hoạt động
giáo dục – dạy học, nghiên cứu khoa học, nhân lực, cơ sở vật chất cũng như các
vấn đề liên quan khác, từ đó tiến hành điều chỉnh các nguồn lực và quá trình thực
hiện nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng. Tự đánh giá không chỉ tạo cơ sở cho
công tác đánh giá ngoài mà còn là điều kiện để cơ sở giáo dục cải tiến chất lượng,
do vậy, có thể xem KĐCLGD là sự thể chế hoá được phát triển đầy đủ nhất về tính
tự chủ, tự chịu trách nhiệmcủa cơ sở giáo dục đối với chất lượng của mình và đối
với công luận. KĐCLGD không những mang lại cho cộng đồng bằng chứng về
chất lượng đào tạo mà còn mang lại cơ hội và động cơ để nâng cao chất lượng cho
các trường đã qua kiểm định. Chính điều này là một trong những đặc điểm làm nên
sự khác biệt giữa KĐCLGD với các mô hình quản lí chất lượng giáo dục khác,
chẳng hạn như thanh tra giáo dục…
Một vấn đề nữa cần lưu ý đối với công tác KĐCLGD là: KĐCLGD tuy là
một quá trình đánh giá ngoài nhưng tính chất chủ yếu của đánh giá ngoài là đánh
giá đồng cấp; và một trong những mục tiêu cơ bản của đánh giá ngoài là giúp cơ sở

giáo dục nhận thấy rõ hơn các điểm mạnh, điểm yếu và đưa ra kế hoạch cải tiến
chất lượng của mình hợp lí, thiết thực hơn. Đây là một đặc điểm hết sức quan trọng
khiến choKĐCLGD nhanh chóng hoà nhập được vào các hoạt động của cơ sở giáo
dục trong một không khí làm việc thân thiện, cởi mở.
Để có thể đánh giá chính xác chất lượng, hiệu quả hoạt động của một hệ
thống hay một tổ chức giáo dục, giới nghiên cứu hết sức quan tâm đến việc xây
dựng một bộ thước đo bao gồm các tiêu chuẩn, tiêu chí và các chỉ số làm căn cứ
chủ yếu để xem xét chất lượng giáo dục gắn với mục tiêu theo những yêu cầu và
trong những lĩnh vực, điều kiện thực tế khác nhau. Dựa vào mô hình đánh giá chất
lượng giáo dục cơ bản, chúng ta có bốn hệ tiêu chí đánh giá sau đây đối với một cơ
sở giáo dục:
1) Các tiêu chí thể hiện bối cảnh chung của cơ sở giáo dục (các chuẩn mực
được thiết lập bởi cơ quan quản lí cấp trên, hoàn cảnh kinh tế - xã hội địa phương,
sự hỗ trợ của cộng đồng…);
2) Các tiêu chí đầu vào (nguồn lực tài chính, trình độ chuyên môn và kinh
nghiệm của đội ngũ giáo viên, nguồn tuyển sinh, kích cỡ lớp học, trang thiết bị của
nhà trường, cơ sở vật chất…);
3) Các tiêu chí đánh giá quá trình (các chủ trương, chính sách, sự lãnh đạo
của nhà trường, đội ngũ giáo viên, môi trường sư phạm, phương pháp dạy học,
phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả học tập…)
4) Các chỉ số về đầu ra (sản phẩm) (kết quả đạt được của học viên về các
môn học cơ bản, tỉ lệ học viên lên lớp, tỉ lệ học viên bỏ học, tỉ lệ học viên tiếp tục
7
theo học bậc cao hơn, tỉ lệ học viên tìm được việc làm phù hợp sau khi tốt
nghiệp…).
Tiếp tục phát triển các hệ tiêu chí đánh giá này, KĐCLGD sẽ tiến hành xây
dựng các quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục cho từng loại hình
trường và dùng quy định tiêu chuẩn đó làm công cụ để đánh giá mức độ yêu cầu và
điều kiện mà các cơ sở của từng loại hình trường phải đáp ứng để được công nhận
đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục. Các tiêu chuẩn (gồm nhiều tiêu chí) kiểm định

chất lượng cơ sở giáo dục phải quán triệt quan điểm tiếp cận tổng thể, đánh giá
toàn bộ các lĩnh vực hoạt động giáo dục của nhà trường. Các yếu tố được đánh giá
có mối quan hệ biện chứng với nhau trong một chỉnh thể thống nhất, có tác động
ảnh hưởng qua lại với nhau và với chất lượng sản phẩm giáo dục của nhà trường.
Theo tinh thần ấy, KĐCLGD là một công cụ nhằm mục đích xác định mức
độ đáp ứng mục tiêu giáo dục trong từng giai đoạn của cơ sở giáo dục, thông qua
sự đánh giá tổng thể về tất cả các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng. Kết quả kiểm
định là thước đo cơ sở giáo dục trong chuẩn chất lượng, đạt được những gì, còn
thiếu những gì để điều chỉnh, bổ sung các điều kiện và tổ chức giáo dục, nhằm đạt
chuẩn chất lượng. Kết quả kiểm định sẽ được công khai với cơ quan chức năng
quản lí và xã hội. Ðiều đó một mặt là sự thể chế hoá được phát triển đầy đủ nhất về
tính chịu trách nhiệmcủa cơ sở giáo dục đối với công luận, mặt khác sẽ thúc đẩy
tích cực các cơ sở giáo dục phải tìm nhiều giải pháp, giải bài toán đảm bảo và nâng
cao chất lượng giáo dục của đơn vị mình.
KĐCLGD được coi là hoạt động có hiệu quả khi không chỉ đánh giá xem
một trường hay một chương trình đào tạo có đạt chất lượng hay không mà còn phải
có vai trò như những chuyên gia tư vấn sẵn sàng giúp nhà trường giải quyết các
vấn đề tồn đọng và không ngừng nâng cao chất lượng các hoạt động giáo dục - đào
tạo.
Một số nơi, KĐCLGD còn nhằm mục đích giải trình với xã hội, với các cơ
quan quyền lực hay các cơ quan, tổ chức tài trợ, cấp kinh phí. Người học trước
khi lựa chọn trường để đăng kí dự tuyển, các doanh nghiệp sử dụng lao động
trước khi tuyển chọn cũng thường cân nhắc xem nhà trường hay ngành đào tạo đã
được kiểm định hay chưa…
KĐCLGD có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng khi mà:
- Quyền tự chủ (quản lí, học thuật và tài chính) của các cơ sở đào tạo được mở rộng;
- Tỉ trọng (số người theo học) và thành phần (loại trường đào tạo) phi chính phủ
(ngoài công lập) trong hệ thống giáo dục quốc dân ngày một phát triển;
- Yếu tố nước ngoài tham gia đào tạo (trong và ngoài công lập) ngày một tăng (do
toàn cầu hoá).

Kết quả KĐCLGD góp phần định hướng các hoạt động sau đây của xã hội:
- Định hướng lựa chọn của người học để xác định cơ sở giáo dục có chất lượng,
hiệu quả, phù hợp với khả năng của mình;
- Định hướng đầu tư của nhà nước để đào tạo nguồn nhân lực theo những ngành
nghề cần thiết cho sự phát triển trong tương lai
8
- Định hướng đầu tư của các doanh nghiệpđể đào tạo nguồn nhân lực thích hợp cho
doanh nghiệp của mình
- Định hướng cho các nhà đầu tư nước ngoài làm từ thiện hay cần phát triển vốn
của mình
- Định hướng phát triểncho các cơ sở giáo dục để tăng cường năng lực cạnh tranh
trong và ngoài nước (xây dựng văn hoá chất lượng, không ngừng nâng cao chất
lượng và hiệu quả học thuật, quản lí và tài chính…)
- Định hướng cho sự hợp tác đào tạo (chuyển đổi, công nhận văn bằng chứng
chỉ…)giữa các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước…
Tại Hội nghị lần thứ VI Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX (tháng 7/2002)
Nghị quyết Hội nghị đã chỉ rõ: một trong những nhiệm vụ trọng tâm hiện nay của
giáo dục và đào tạo là “xây dựng cơ quan kiểm định chất lượng giáo dục theo mục
tiêu giáo dục”. Đến Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ IX (tháng
1/2004), Nghị quyết tiếp tục nhấn mạnh: “Đẩy mạnh việc xây dựng và triển khai
các hoạt động của hệ thống kiểm định chất lượng giáo dục”
Hiện nay, công tác KĐCLGD đã được khẳng định về mặt pháp lí trong Luật
Giáo dục 2005 (Điều 17, Điều 99) và Nghị định số 75/2006/NĐ-CP ngày
1/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ, đồng thời được Bộ Giáo dục và Đào tạo
(GD&ĐT) lựa chọn là biện pháp chủ yếu nhằm xác định mức độ thực hiện mục tiêu,
chương trình, nội dung giáo dục đối với nhà trường và cơ sở giáo dục khác.
Những năm qua, giáo dục đại học Việt Nam đã và đang phát triển mạnh cả
về quy mô và loại hình đào tạo. “Năm học 2002 – 2003, hệ thống giáo dục đại học
bao gồm 111 trường đại học và 119 trường cao đẳng, trong đó có 15 trường đại
học dân lập, 2 trường đại học bán công và 2 trường cao đẳng dân lập, 4 trường cao

đẳng bán công, 9 trường cao đẳng cộng đồng”1 nhưng đến thời điểm này, số lượng
các trường đại học, học viện, cao đẳng của nước ta đã có những thay đổi rất lớn,
hiện trên cả nước có khoảng 400 trường đại học, cao đẳng. Một khi quy mô và loại
hình đào tạo tăng nhanh, trong khi nguồn lực tại các cơ sở đào tạo còn nhiều hạn
chế, chưa thực sự đáp ứng đầy đủ các yêu cầu đào tạo, những băn khoăn, lo lắng về
chất lượng đào tạo tất yếu sẽ được xã hội đặt ra. Theo một nhận xét chung: Mặc dù
đã có nhiều cố gắng và chuyển biến mạnh mẽ nhưng giáo dục đại học nước ta vẫn
còn nhiều yếu kém và bất cập; chất lượng đào tạo còn thấp so với yêu cầu phát
triển kinh tế xã hội trong giai đoạn hiện nay và so với kết quả đào tạo đại học của
nhiều nước trong khu vực và trên thế giới.
Ở đây, tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường đại học, cao đẳng là mức độ
yêu cầu và điều kiện mà trường đại học, cao đẳng phải đáp ứng để được công nhận
đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục về 10 lĩnh vực:
1. Sứ mạng và mục tiêu của nhà trường;
2. Tổ chức và quản lí;
3. Chương trình đào tạo;
5. Đội ngũ cán bộ quản lí, giảng viên và nhân viên;
6. Người học;
9
7. Nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ;
8. Hoạt động hợp tác quốc tế;
9. Thư viện, trang thiết bị học tập và cơ sở vật chất khác;
10. Tài chính và quản lí tài chính.
Bộ Tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường đại học, cao đẳng với 10
khía cạnh, như đã nói ở trên, đã bao quát gần như toàn bộ các lĩnh vực liên quan
đến cơ chế quản lí cũng như các mặt hoạt động của một trường đại học, cao đẳng
hiện đại, tiệm cận với các tiêu chuẩn của các nước trong khu vực và quốc tế. Có
được một bộ tiêu chuẩn minh bạch để quản lí chất lượng trường đại học, cao đẳng
thực sự là một bước đột phá trong tư duy quản lí giáo dục Việt Nam, cho thấy
quyết tâm hội nhập của ngành giáo dục, và với nhiều hứa hẹn sẽ đem lại những

thay đổi tích cực cho vấn đề chất lượng giáo dục đại học trong thời gian tới.
Bằng nhận thức và ý thức sâu sắc về mục đích, ý nghĩa của công tác
KĐCLGD, bằng việc triển khai công tác KĐCLGD một cách tích cực, khách quan,
trung thực, toàn bộ hệ thống giáo dục Việt Nam nói chung và các cơ sở giáo dục
đại học, cao đẳng nói riêng dần dần sẽ tạo ra được những chuyển biến mới, hình
thành "văn hóa chất lượng" trong mỗi trường học, mỗi cán bộ quản lí giáo dục,
giáo viên, học viên để từ đó, chất lượng giáo dục được đảm bảo và không ngừng
được cải tiến, nâng cao. Trong quản lí chất lượng giáo dục, KÐCLGD được coi là
biện pháp, công cụ, phương tiện; nhưng xây dựng "văn hóa chất lượng" của các
trường, làm cho mỗi trường đều hiểu rằng chất lượng là câu chuyện sống còn của
chính mình mới là mục tiêu cuối cùng của công tác này. Riêng đối với các cơ sở
giáo dục đang trên con đường đổi mới, phát triển, chuyển đổi từ loại hình, cấp độ
này sang loại hình, cấp độ khác, việc triển khai và tham gia tích cực vào quy trình
KĐCLGD cũng là một việc làm hết sức cần thiết để tự chứng minh khả năng, năng
lực của mình một cách toàn diện.
HỌC VIÊN
Nguyễn Hoàng Anh
10

×