1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
VŨ VĂN HÙNG
CHÍNH SÁCH TIÊU THỤ NÔNG SẢN VIỆT NAM
TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CÁC CAM KẾT
VỚI TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Hà Nội - 2013
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
VŨ VĂN HÙNG
CHÍNH SÁCH TIÊU THỤ NÔNG SẢN VIỆT NAM
TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CÁC CAM KẾT
VỚI TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 62 31 01 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS. TS Phạm Văn Dũng
2. TS. Vũ Thị Dậu
Hà Nội - 2013
4
MỤC LỤC
Nội dung Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các hình vẽ
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: CHÍNH SÁCH TIÊU THỤ NÔNG SẢN TRONG QUÁ TRÌNH THỰC
HIỆN CÁC CAM KẾT VỚI TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI – CƠ SỞ LÝ
LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 15
1.1.
Một số vấn đề lý luận về chính sách tiêu thụ nông sản trong quá trình thực hiện
các cam kết với WTO
15
1.1.1. Nông sản và chuỗi giá trị nông sản toàn cầu
15
1.1.2. Chính sách tiêu thụ nông sản trong quá trình thực hiện các cam kết với WTO
27
1.2
Chính sách tiêu thụ nông sản trong quá trình thực hiện các cam kết với WTO của
một số nước và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
58
1.2.1.
Chính sách tiêu thụ nông sản của một số nước trong quá trình thực hiện các cam
kết với WTO
58
1.2.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
69
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
78
Chương 2: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TIÊU THỤ NÔNG SẢN VIỆT NAM
TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CÁC CAM KẾT VỚI TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI
THẾ GIỚI 79
2.1.
Cam kết của Việt Nam về thị trường nông sản và những cơ hội, thách thức đối với
tiêu thụ nông sản trong quá trình thực hiện các cam kết với WTO
79
2.1.1. Quy định của WTO và cam kết của Việt Nam về thị trường nông sản
79
2.1.2.
Cơ hội đối với tiêu thụ nông sản Việt Nam trong quá trình thực hiện các cam kết
với WTO
81
2.2.
Thực trạng tiêu thụ một số nông sản chủ yếu của Việt Nam trước và sau gia nhập
89
5
Tổ chức thương mại thế giới
2.2.1.
Tổng quan tiêu thụ một số nông sản chủ yếu của Việt Nam trước và sau gia nhập
Tổ chức thương mại thế giới
89
2.2.2.
Đánh giá chung về tình hình tiêu thụ một số nông sản chủ yếu của Việt Nam trước
và sau gia nhập Tổ chức thương mại thế giới
95
2.3.
Thực trạng chính sách tiêu thụ nông sản Việt Nam trong quá trình thực hiện các
cam kết với Tổ chức thương mại thế giới
103
2.3.1. Chính sách giá cả, sản lượng nông sản
103
2.3.2. Chính sách bảo quản, chế biến nông sản
108
2.3.3. Chính sách xúc tiến thương mại nông sản
117
2.3.4. Chính sách liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản
122
2.4.
Đánh giá chính sách tiêu thụ nông sản Việt Nam trong quá trình thực hiện các cam
kết với Tổ chức thương mại thế giới
129
2.4.1. Đánh giá thông qua các tiêu chí của chính sách tiêu thụ nông sản
129
2.4.2.
Đánh giá năng lực tham gia của nông sản Việt Nam vào chuỗi giá trị nông sản
toàn cầu
138
2.4.3.
Đánh giá chung về thành tựu và hạn chế của chính sách tiêu thụ nông sản trong
quá trình thực hiện các cam kết với WTO
145
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
147
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH
TIÊU THỤ NÔNG SẢN VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CÁC CAM
KẾT VỚI TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI 148
3.1. Bối cảnh mới ảnh hưởng đến chính sách tiêu thụ nông sản Việt Nam
148
3.1.1. Triển vọng kinh tế thế giới và trong nước giai đoạn 2012 – 2020
148
3.1.2. Những xu hướng mới của thị trường nông sản
150
3.1.3. Xu hướng vận động của chuỗi giá trị nông sản toàn cầu
154
3.2.
Quan điểm hoàn thiện chính sách tiêu thụ nông sản Việt Nam trong quá trình thực
hiện các cam kết với WTO
162
3.2.1.
Chính sách tiêu thụ nông sản phải vừa tuân thủ các cam kết với WTO, vừa bảo vệ
được lợi ích của đất nước
162
3.2.2.
Xây dựng chính sách tiêu thụ nông sản phải tôn trọng các quy luật của kinh tế thị
trường, xuất phát từ nhu cầu của thị trường
164
6
3.2.3.
Đảm bảo hài hòa quan hệ lợi ích giữa các chủ thể kinh tế trong hoạt động tiêu thụ
nông sản
165
3.2.4.
Tăng cường năng lực tham gia của nông sản Việt Nam vào chuỗi giá trị nông sản
toàn cầu trong điều kiện hội nhập WTO
166
3.2.5.
Xây dựng, thực hiện và điều chỉnh chính sách phải đồng bộ, hài hòa với các chính
sách và các mục tiêu kinh tế xã hội khác
167
3.3.
Giải pháp cơ bản hoàn thiện chính sách tiêu thụ nông sản Việt Nam trong quá
trình thực hiện các cam kết với WTO
168
3.3.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện mục tiêu của chính sách tiêu thụ nông sản
168
3.3.2.
Nhóm giải pháp hoàn thiện các chính sách bộ phận của chính sách tiêu thụ nông
sản trong quá trình thực hiện các cam kết với WTO
172
3.3.3.
Nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện chính sách tiêu thụ
nông sản
188
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
200
KẾT LUẬN 201
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN
ÁN ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
7
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Danh mục cụm từ viết tắt tiếng Anh
Viết tắt Nghĩa tiếng Anh Nghĩa tiếng Việt
AFTA ASEAN Free Trade Area Khu vực mậu dịch tự do Asean
AoA
Agreement on Agriculture Hiệp định Nông nghiệp
ASEAN
Association of South-East
Asian Nations
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
EU
European Union Liên minh châu Âu
FAO
Food and Agriculture
Organization of the United
Nations
Tổ chức nông lương Liên hợp quốc
FDI
Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GAP
Good Agricultural Practices Quy thông lệ sản xuất nông nghiệp
tốt
GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội
GVC Global Value Chain Chuỗi giá trị toàn cầu
IMF International Monetary Fund Quỹ tiền tệ quốc tế
IPC World Pepper Community Hiệp hội hồ tiêu quốc tế
IPSARD Institute of Policy and Strategy
for Agriculture and Rural
Development
Viện chính sách và chiến lược phát
triển nông nghiệp, nông thôn
MARD Ministry of Agriculture and
Rural Development
Bộ Nông nghiệp và phát triển nông
thôn
MFN Most Favoured Nation Thuế suất tối huệ quốc
MNC Multinational companies Công ty đa quốc gia
OECD
Organisation for Economic
Cooperation and Development
Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế
R & D Research and development Nghiên cứu và triển khai
SPS Sanitary and Phyto-Sanitary Kiểm dịch động thực vật
TNC Transnational companies Công ty xuyên quốc gia
TRQ Tariff quotas Hạn ngạch thuế quan
TBT Technical Barriers to Trade Rào cản kỹ thuật trong thương mại
VAT Value Added Tax Thuế giá trị gia tăng
VFA Vietnam Food Association Hiệp hội lương thực Việt Nam
VICOFA Vietnam Coffee and Cocoa Hiệp hội cà phê, ca cao Việt Nam
8
Association
VINACAS Vietnam Cashew Association Hiệp hội điều Việt Nam
WB World Bank Ngân hàng thế giới
WTO World Trade Organization Tổ chức thương mại thế giới
Danh mục cụm từ viết tắt tiếng Việt
Viết tắt Nghĩa tiếng Việt
AGROINFO
Trung tâm thông tin phát triển nông nghiệp nông thôn
ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long
ĐBSH Đồng bằng sông Hồng
NN & PTNT
Nông nghiệp và phát triển nông thôn
TCVN Tiêu chuẩn Việt Nam
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
VSATTP Vệ sinh an toàn thực phẩm
9
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 1.1 : Tiêu chí đánh giá chính sách tiêu thụ nông sản
57
Bảng 2.1 : Tổng sản lượng và lượng tiêu thụ nội địa một số mặt hàng nông
sản của Việt Nam trước gia nhậpWTO (2002 - 2006)
90
Bảng 2.2 : Tổng sản lượng và lượng tiêu thụ nội địa một số mặt hàng nông
sản của Việt Nam sau gia nhậpWTO (2007 – 2012)
91
Bảng 2.3 : Lượng và kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng nông sản của
Việt Nam trước gia nhậpWTO (2002 - 2006)
92
Bảng 2.4 Lượng và kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng nông sản của
Việt Nam sau gia nhậpWTO (2007 - 2012)
93
Bảng 2.5 : Cơ cấu các loại gạo xuất khẩu của Việt Nam năm 2011
98
Bảng 2.6 : Cơ cấu thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam năm 2011
99
Bảng 2.7 : Thị trường xuất khẩu cà phê chính của Việt Nam năm 2010
100
Bảng 2.8 : Thị trường xuất khẩu cao su chính của Việt Nam năm 2011
101
Bảng 2.9 : Thị trường xuất khẩu hạt tiêu chính của Việt Nam năm 2010
102
Bảng 2.10 : Thị trường xuất khẩu điều chính của Việt Nam năm 2011
102
10
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Trang
Hình 1.1 : Chuỗi giá trị gia tăng
19
Hình 1.2 : Chuỗi giá trị nông sản toàn cầu
24
11
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Tiêu thụ là khâu quan trọng trong toàn bộ quá trình tái sản xuất xã hội, nó là
mắt xích không thể thiếu trong hệ thống phân phối hàng hóa từ sản xuất đến tiêu
dùng, từ đó thúc đẩy sản xuất, phát triển kinh tế và gia tăng lợi ích cho người sản
xuất và người tiêu dùng. Ở các nước đang phát triển, do trình độ phát triển của kinh
tế thị trường còn thấp, quan hệ hàng hóa – tiền tệ chưa thật sự phát triển nên việc tiêu
thụ hàng hóa trong đó có nông sản còn nhiều bất cập, ảnh hưởng không tốt đến lợi
ích của người sản xuất, của người tiêu dùng và cả nền kinh tế. Nông nghiệp là ngành
sản xuất cơ bản, sự phát triển của ngành này có vai trò quyết định trong việc ổn định
một khu vực rộng lớn của nền kinh tế, đảm bảo hài hòa mối quan hệ nông nghiệp,
nông dân và nông thôn. Vì vậy, hoàn thiện chính sách tiêu thụ nông sản nhằm đáp
ứng tốt nhất lợi ích của các chủ thể là vấn đề mang tính cấp thiết.
Việt Nam là một nước nông nghiệp, khoảng 70% dân số sống ở nông thôn với
hơn 10 triệu hộ nông dân, 30 triệu người trong trong độ tuổi lao động đang sống ở
nông thôn. Khoảng 1/4 tổng GDP và khoảng 1/3 tổng kim ngạch xuất khẩu từ nông
nghiệp. Những năm gần đây, khu vực nông nghiệp đã có những bước phát triển vượt
bậc, đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội, tạo nhiều của cải, giải
quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, đẩy mạnh xuất khẩu Tuy nhiên, cùng với sự
phát triển chung của nền kinh tế, sự phát triển của khu vực này còn chậm, chưa
tương xứng với tiềm năng của nó, gần 90% hộ nghèo của cả nước nằm ở khu vực
này, bất bình đẳng giữa nông thôn và thành thị còn lớn, đô thị hóa khiến sản xuất
nông nghiệp bị ảnh hưởng, hội nhập kinh tế quốc tế khiến nông dân là những người
dễ bị tổn thương nhất; mối quan hệ nông nghiệp, nông dân, nông thôn chưa được
đảm bảo chặt chẽ và bền vững; vấn đề đầu ra cho nông sản…Trong tất cả những vấn
đề trên, tiêu thụ nông sản cho nông dân là vấn đề nổi cộm và có ảnh hưởng lớn đến
sản xuất nông nghiệp và đời sống của nông dân. Nhiều nông sản Việt Nam hiện nay
chiếm vị trí hàng đầu trên thị trường nông sản thế giới nhưng lượng giá trị thu về còn
khiêm tốn hay nói cách khác, phần giá trị gia tăng của nông sản trong chuỗi giá trị
toàn cầu còn rất hạn chế. Thực tế hiện nay cho thấy, tiêu thụ nông sản đang có nhiều
bất cập: Giá cả không ổn định, chi phí lưu thông quá cao, phần giá trị mà người nông
dân được hưởng trong giá trị nông sản rất thấp, người nông dân luôn phải đối mặt
với tình trạng: mất mùa lo đói, được mùa lo rớt giá; thêm vào đó, hoạt động đầu cơ
của tư thương và một số doanh nghiệp thương mại làm cho quá trình tiêu thụ nông
sản thêm lòng vòng, rối ren và dễ mất cân đối đã ảnh hưởng không tốt đến lợi ích của
người nông dân. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên đó là chính
sách tiêu thụ nông sản còn nhiều hạn chế, chưa phù hợp với việc đưa nền nông
12
nghiệp Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới mà trước hết là thực
hiện các cam kết với Tổ chức thương mại thế giới. Chính sách tiêu thụ nông sản là
một chính sách lớn, bao trùm gồm các chính sách bộ phận: Chính sách giá cả, sản
lượng nông sản; chính sách bảo quản, chế biến nông sản; chính sách xúc tiến thương
mại nông sản, chính sách liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản chưa được phối hợp
một cách đồng bộ. Việc khắc phục những hạn chế trong các chính sách về tiêu thụ
nông sản từ đó hoàn thiện chính sách tiêu thụ nông sản hợp lý, hiệu quả có ý nghĩa
trên nhiều phương diện, không chỉ đem lại lợi ích trước mắt cho người nông dân,
doanh nghiệp, người tiêu dùng và toàn xã hội; mà còn có ý nghĩa lâu dài, góp phần
quan trọng phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống của nông dân, xóa
đói - giảm nghèo bền vững, giải quyết tốt mối quan hệ nông thôn - thành thị…Điều
đó cho thấy, chính sách tiêu thụ nông sản có vai trò rất quan trọng trong giải quyết
vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân; trong ổn định kinh tế - xã hội ở Việt Nam.
Nông nghiệp Việt Nam có lợi thế cạnh tranh do điều kiện tự nhiên thuận lợi và
chi phí nhân công thấp. Tuy nhiên, những lợi thế này ngày càng giảm trong điều kiện
cạnh tranh thương mại toàn cầu hiện nay. Sau 6 năm gia nhập WTO, nông sản Việt
Nam đã có vị trí quan trọng trên thị trường nông sản thế giới với vị trí số 1 (xuất
khẩu hạt tiêu, hạt điều), vị trí số 2 (xuất khẩu gạo, cà phê), cùng với nó là những cam
kết được thực hiện nghiêm túc, đúng với quy định của WTO. Nhưng bên cạnh đó
còn tồn tại nhiều hạn chế về mặt chính sách khiến cho bài toán về việc đẩy mạnh tiêu
thụ về lượng nhưng chưa đi kèm với những lợi ích thiết thực mang về cho đất nước,
cho nông dân vẫn chưa có lời giải thỏa đáng. Nguyên nhân của tình trạng này là điều
hành vĩ mô chưa thật sự linh hoạt trong bối cảnh thị trường nông sản thế giới đang có
nhiều xu hướng phát triển mới như: sự gia tăng của các nhà bán lẻ trong việc đảm
nhận khâu tiêu thụ thậm chí cả khâu sản xuất và mang thương hiệu của họ, xu hướng
hợp nhất nhiều công đoạn trong việc tạo ra giá trị nông sản, xu hướng gia tăng vai trò
của các nước đang phát triển trong việc cung cấp nông sản cũng như tiêu thụ do khu
vực này chiếm tỷ lệ dân số lớn trên toàn cầu,…Những xu hướng mới của thị trường
nông sản thế giới cũng chỉ ra những cơ hội và thách thức lớn đối với nông sản Việt
Nam, điều đó cũng đồng nghĩa nó tạo ra áp lực trong việc ban hành và thực hiện các
chính sách trong điều kiện, bối cảnh mới nhằm phát huy hết tiềm năng, hạn chế tối
đa những yếu kém để đạt được hiệu quả cao nhất. Sự điều tiết của Nhà nước nhằm
giải quyết những vấn đề trên là vấn đề có ý nghĩa thực tiễn to lớn đối với Việt Nam
hiện nay.
Việt Nam đã chính thức trở thành Thành viên của Tổ chức thương mại thế giới
từ 1/2007 và đang tích cực thực hiện các cam kết theo lộ trình hội nhập, trong đó có
các cam kết về tiêu thụ nông sản. Sự tham gia của các công ty nước ngoài trong việc
13
thu mua hàng hóa (trong đó có nông sản) trên thị trường Việt Nam đã tạo ra những
cơ hội và thách thức mới trong sản xuất và tiêu thụ nông sản. Mặc dù có một số quy
định bắt buộc khi kinh doanh tại nước sở tại (theo Nghị định 109/2010/NĐ-CP của
Chính phủ ban hành ngày 4 tháng 11 năm 2010), người nông dân Việt Nam sẽ có
thêm nhiều sự lựa chọn trong hoạt động tiêu thụ nông sản nhưng điều này cũng báo
hiệu một cuộc cạnh tranh gay gắt và những biến động không nhỏ trên thị trường
nông sản Việt Nam. Bên cạnh sự nỗ lực nhằm giành ưu thế trong cạnh tranh của
nông dân và các doanh nghiệp, rất cần chính sách hợp lý từ phía Nhà nước nhằm
mang lại lợi ích tốt nhất cho các chủ thể và cho cả nền kinh tế. Vì vậy, câu hỏi đặt ra
là, chính sách tiêu thụ nông sản Việt Nam trong quá trình thực hiện các cam kết với
Tổ chức thương mại thế giới đã thật sự phù hợp chưa? Cần phải làm gì và làm như
thế nào để hoàn thiện và phát huy vai trò của chính sách tiêu thụ nông sản để tăng vị
thế của nông dân, gia tăng giá trị mà người nông dân nhận được trong chuỗi giá trị
nông sản toàn cầu?
Việc nghiên cứu thực trạng và tìm ra những giải pháp nhằm hoàn thiện chính
sách tiêu thụ nông sản của Việt Nam trong quá trình thực hiện các cam kết với Tổ
chức thương mại thế giới là vấn đề có ý nghĩa cả về lý luận và cấp thiết về thực tiễn.
Chính vì vậy, “Chính sách tiêu thụ nông sản Việt Nam trong quá trình thực hiện
các cam kết với Tổ chức thương mại thế giới” được Nghiên cứu sinh lựa chọn làm
đề tài luận án tiến sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu
Chính sách tiêu thụ nông sản Việt Nam được nghiên cứu dưới dạng sách
chuyên khảo, tham khảo, giáo trình, đề tài cấp bộ, bài đăng báo, tạp chí, bài viết hội
thảo các cấp cho thấy có nhiều công trình đề cập đến chính sách tiêu thụ nông sản
theo các vấn đề sau:
2.1. Về chính sách giá cả, sản lượng nông sản
- Sách chuyên khảo của Phan Huy Đường (2006), Tiêu thụ nông sản Việt Nam:
Thực trạng và những vấn đề đặt ra trong điều kiện đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc
tế, Nxb Khoa học – Xã hội. Công trình khoa học của tác giả Phạm Văn Khôi (2007),
Phân tích chính sách nông nghiệp, nông thôn, Nxb Đại học kinh tế quốc dân. Công
trình của Nguyễn Tiến Dũng (2010), Gia nhập WTO và điều chỉnh chính sách trong
ngành nông nghiệp Việt Nam. Đề tài NCKH cấp trường (Đại học kinh tế -
ĐHQGHN). Các bài viết này đã phân tích cập nhật tình hình thị trường nông sản thế
giới và trong nước, những biến động về giá nông sản và cơ hội của nông sản Việt
Nam trên thị trường thế giới. Các tác giả đã đưa ra một số khuyến nghị trong việc tận
dụng cơ hội về điều kiện thị trường thuận lợi để xuất khẩu những mặt hàng nông sản
có lợi thế của Việt Nam. Vì vậy, mới chỉ dừng lại ở khâu lưu thông, giá trị đem lại
14
phải đảm bảo hài hòa cho các chủ thể cả sản xuất và tiêu thụ. Trong cuốn sách Nông
nghiệp, nông dân, nông thôn trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở nước ta, Nxb chính trị quốc gia Hà Nội của GS.TS Hoàng Ngọc Hòa (2008),
- Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (2006), Tác động của hội nhập
kinh tế quốc tế đến sản xuất, chế biến và tiêu thụ một số nông sản ở Việt Nam: qua
nghiên cứu chè, cà phê, điều, Nxb Lý luận chính trị Hà Nội. Công trình nghiên cứu
này là sản phẩm của tập thể nhà nghiên cứu tại Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW,
trong đó đề cập và phân tích về tác động chủ yếu của hội nhập kinh tế quốc tế đến
tiêu thụ nông sản nhưng chỉ được giới hạn nghiên cứu trong 3 sản phẩm là chè, cà
phê và điều. Thêm nữa, công trình này chỉ đề cập đến tác động từ bên ngoài đến
nông sản Việt Nam chứ chưa bàn về chiều hướng ngược lại khi mà sản lượng nông
sản Việt Nam có ảnh hưởng như thế nào đối với sản lượng cà phê thế giới và từ đó vị
thế của nông sản Việt Nam đối với thị trường thế giới là như thế nào. Chẳng hạn như
cà phê Việt Nam bị mất mùa hay được mùa nó sẽ ảnh hưởng như thế nào đối với thị
trường thế giới?
- Bài viết của tác giả Đinh Phi Hổ (2010), Mô hình định lượng các yếu tố ảnh
hưởng đến thu nhập của nông dân, Tạp chí Phát triển kinh tế số 234 có đề cập đến
các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của nông dân, trong đó yếu tố sản lượng là rất
quan trọng, bởi người nông dân vẫn luôn đối mặt với tình trạng mất mùa lo đói, được
mùa lo rớt giá. Thu nhập của người nông dân gắn chặt với bài toán mất mùa, được
mùa. Vấn đề đặt ra cần được tiếp tục nghiên cứu là chính sách của nhà nước phải
được triển khai thực hiện như thế nào để đảm bảo nông dân không thiệt thòi khi được
mùa, giá giảm.
- Bài viết của tác giả Nguyễn Trần Trọng (2011), Phát triển nông nghiệp Việt
Nam trong nền kinh tế thị trường hội nhập giai đoạn 2011 – 2020, Tạp chí Nghiên
cứu kinh tế số 395 và bài viết của tác giả Chu Tiến Quang (2011), Nông nghiệp Việt
Nam sau 4 năm gia nhập WTO – Những thay đổi về chính sách, Tạp chí Thông tin và
dự báo kinh tế - xã hội, số 61+62, đã làm rõ những thành tựu của nông nghiệp Việt
Nam sau 4 năm gia nhập WTO. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, khu vực
nông nghiệp đã phát huy được những lợi thế có sẵn của mình đóng góp vào tăng
trưởng kinh tế nhưng đồng thời với nó là những thách thức cũng không nhỏ như: kết
cấu hạ tầng, trình độ công nghệ và tính chuyên nghiệp của nguồn nhân lực nông
nghiệp còn yếu; khủng hoảng tài chính toàn cầu đã làm giá các loại đầu vào của sản
xuất tăng mạnh trong khi giá nông sản tăng không tương xứng, theo đó đã tác động
tiêu cực đến người sản xuất. Các bài viết trên đã điểm lại những tác động chính đến
sản xuất và tiêu thụ nông sản từ đó làm cơ sở cho việc điều chỉnh chính sách nông
nghiệp phù hợp với các cam kết.
15
- Vấn đề giá nông sản, sản lượng nông sản ở thị trường trong nước và thị trường
nước ngoài có sự biến động phức tạp do nhiều yếu tố ảnh hưởng đã khiến cho chính
sách của Nhà nước và phản ứng của các chủ thể (sản xuất, tiêu thụ, chế biến, ) dễ rơi
vào tình trạng bị động đã và đang diễn ra nhiều hơn. Điều này đã được bàn tới ở các
bài viết của Trần Đức Viên (2011), Giải pháp chính sách phát triển vùng lúa chuyên
canh để đảm bảo mục tiêu an ninh lương thực quốc gia, Tạp chí Kinh tế và dự báo,
số 2; Hoàng Văn Hoan (2011), Những vấn đề đặt ra đối với nông dân Việt Nam và
khuyến nghị chính sách, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 392.
Tóm lại, vấn đề sản lượng nông sản có mối quan hệ mật thiết với giá cả nông
sản, vì vậy các công trình trên đã chỉ rõ mối quan hệ này và sự cần thiết can thiệp
của Nhà nước trong quá trình ra chính sách. Tuy nhiên, trong điều kiện thực hiện các
cam kết với tổ chức thương mại thế giới, giá cả luôn biến động theo thị trường thế
giới, chính sách sản lượng phải đảm bảo sự cập nhật, dự đoán sát với tình hình biến
động và quyết đoán ra các chính sách hợp lý. Chẳng hạn năm 2008, khi giá nông sản
thế giới tăng cao, Việt Nam lại quá chú trọng vấn đề an ninh lương thực (khi mà trữ
lượng gạo còn nhiều) mà hạn chế xuất khẩu gạo làm cho nông dân bị thiệt thòi,
không tận dụng được thời điểm tốt về giá. Vấn đề này cần được tiếp tục nghiên cứu
trong điều kiện mới – điều kiện thực hiện các cam kết với WTO.
2.2. Về chính sách bảo quản, chế biến nông sản
- Cuốn sách: Phát triển công nghiệp chế biến nông sản ở Việt Nam (2006), Nxb
chính trị quốc gia, Hà Nội của Mai Thị Thanh Xuân và Ngô Đăng Thành đã trình
bày một cách hệ thống phát triển công nghiệp chế biến nông sản trên phạm vi cả
nước, trong đó tập trung vào nghiên cứu một số sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt
Nam, đồng thời các tác giả cũng cung cấp một số kinh nghiệm của các nước trong
khu vực về phát triển công nghiệp chế biến từ đó đưa ra giải pháp nhằm thúc đẩy
công nghiệp chế biến nông sản nhằm gia tăng giá trị nông sản Việt Nam trên thị
trường quốc tế. Tuy vậy, vấn đề giá trị gia tăng mà người nông dân nhận được trong
quá trình tham gia vào chuỗi giá trị này chưa được tác giả làm rõ và cần được tiếp
tục nghiên cứu. Mặt khác, nghiên cứu của tác giả được hoàn thành vào năm 2006 –
thời điểm VN chuẩn bị gia nhập WTO, đến nay sau 5 năm gia nhập WTO, vấn đề
phát triển công nghiệp chế biến nông sản cần được tiếp tục nghiên cứu ở bối cảnh và
điều kiện mới.
- Viện Nghiên cứu Thương mại (2009), Chuỗi giá trị toàn cầu đối với hàng
nông sản và vấn đề tham gia của Việt Nam trong điều kiện hiện nay; Lưu Đức Khải
(2009), Năng lực tham gia của hộ nông dân đối với sản xuất nông sản hàng hoá:
Cách tiếp cận từ chuỗi giá trị. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ. Hai công trình
nghiên cứu này đã làm rõ thực trạng giá trị nông sản của Việt Nam trong chuỗi giá trị
16
toàn cầu và người nông dân nhận được là rất ít so với vị thế của người cung ứng
nông sản. Một trong những nguyên nhân của vấn đề này là chúng ta chỉ tập trung
xuất khẩu nguyên liệu thô, giá trị gia tăng thấp, muốn giải quyết được vấn đề này
theo các tác giả là phải đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến. Tuy nhiên, vấn đề
phát triển công nghiệp chế biến cần được xác định không phải là khâu độc lập mà
phải tính đến cả một hệ thống từ khâu sản xuất, vận chuyển, phát triển thương hiệu,
xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm, mới đem lại giá trị nông sản cao.
- Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (2011), Phân tích hệ quả can
thiệp chính sách với các tác nhân trong chuỗi xuất khẩu gạo và tôm tại Việt Nam.
Động cơ nghiên cứu là phân tích các chính sách liên quan đã thực sự tạo ra động lực
cho phát triển hai mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam hay chưa? Thông qua
việc tạo ra lợi ích hoặt gỡ bỏ những can thiệp mang tính cản trở cho các tác nhân
trong chuỗi gạo và tôm hoạt động hiệu quả hơn; chỉ rõ nguyên nhân của khoảng cách
phát triển giữa miền Nam và Bắc trong hai ngành này; đề tài nghiên cứu cũng xác
định các tác nhân trong chuỗi gạo và tôm, tổng quan các chính sách có ảnh hưởng
chủ yếu đến hai ngành này, phân tích lợi ích hoặc biến dạng thị trường tạo ra bởi mỗi
chính sách với các tác nhân trong chuỗi, làm rõ kiểm chứng tác động của chính sách
thông qua thu thập thông tin thực tế, các chính sách mà công trình đề cập đến bao
gồm chính sách nền chung, chính sách tác động trực tiếp, chính sách tác động gián
tiếp. Đề tài đã chỉ rõ hệ quả của các chính sách tác động đến chuỗi gạo và tôm. Vấn
đề cần tiếp tục nghiên cứu là chính sách tác động trực tiếp đến khâu chế biến nông
sản trong quá trình thực hiện các cam kết với WTO.
Như vậy, vấn đề bảo quản và chế biến đặc biệt quan trọng đối với nông sản, bảo
quản và chế biến tốt có thể gia tăng đáng kể giá trị của nông sản. Các giáo trình, sách
tham khảo và các bài viết trên chỉ đề cập đến việc làm thế nào để phát triển công
nghệ bảo quản sau thu hoạch và phát triển công nghiệp chế biến để gia tăng giá trị
của nông sản Việt Nam. Vấn đề còn bỏ ngỏ của các công trình này đó là: Lợi thế của
nông sản Việt Nam đang nằm ở khâu nào trong quá trình tái sản xuất xã hội, từ sản
xuất cho đến tiêu thụ. Nông sản Việt Nam đến nay mới chỉ có lợi thế trong việc sản
xuất và cung cấp nguyên liệu thô (khâu ít giá trị gia tăng nhất) trong khi khâu R&D,
chế biến, thương mại lại rất hạn chế và từ đó, giá trị thu về là rất hạn chế so với tổng
giá trị nông sản khi nó đến tay người tiêu dùng.
2.3. Về chính sách xúc tiến thương mại nông sản
Hàng loạt các bài viết của các tác giả như: Phạm Vũ Luận (2005), Những giải
pháp phát triển thị trường nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng giai đoạn hiện nay,
Đề tài Lao động - xã hội; Dự án của Ngân hàng thế giới (2009), Đặc điểm kinh tế
nông thôn Việt Nam – Kết quả điều tra hộ gia đình nông thôn năm 2008 tại 12 tỉnh,
17
Nxb Thống kê; Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (2010), Việt Nam sau ba
năm gia nhập WTO. Vấn đề đầu ra cho nông sản là vấn đề quan trọng để người nông
dân có thể hiện thực hóa lợi ích của mình và thu về lượng giá trị nông sản trong
chuỗi giá trị. Chính vì thế vấn đề xúc tiến thương mại trong và ngoài nước có vị trí
quan trọng trong việc quảng bá, thúc đẩy và nâng cao giá trị nông sản Việt Nam trên
thị trường trong và ngoài nước. Thực tế cho thấy những năm qua Việt Nam rất chú
trọng công tác xúc tiến thương mại nông sản nhưng thể hiện ở hàng loạt các hội chợ,
triển lãm, chương trình đưa hàng về nông thôn, chương trình Người Việt Nam ưu
tiên dùng hàng Việt Nam, khuyến mại,…Tuy nhiên, các công trình trên mới chỉ đề
cập đến việc làm thế nào để quảng bá thương hiệu nông sản Việt, bán được nhiều,
mở rộng thị trường cả trong và ngoài nước, đặc biệt là chính sách của Nhà nước chỉ
được quan tâm đúng mức khi mà thị trường nông sản gặp khó khăn. Vấn đề cần tiếp
tục nghiên cứu đó là chính sách này phải đảm bảo lợi ích hợp lý của mọi chủ thể
tham gia vào các công đoạn (nông dân, tư thương, người chế biến, người bán buôn
và bán lẻ…).
Một số công trình tuy không nghiên cứu trực tiếp chính sách tiêu thụ nông sản
nhưng đã đưa ra những gợi ý quý giá cho việc nghiên cứu chính sách này. Cuốn sách
“Nông dân, nông thôn & nông nghiệp: những vấn đề đang đặt ra” NXB Tri thức
(2008), bao gồm các bài viết của nhiều tác giả. Cuốn sách đã đề cập đến nhiều chiều
cạnh của vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân ở Việt Nam hiện nay, chỉ ra
những vấn đề đang tồn tại, bức xúc cần phải giải quyết.
Trong cuốn sách “Nông nghiệp, nông thôn, nông dân Việt Nam hôm nay và mai
sau”, NXB Chính trị quốc gia (2008) của tác giả Đặng Kim Sơn, những khó khăn
của nông dân trong việc tiêu thụ nông sản đã được điều tra nghiên cứu rất công phu.
Điều đó cho thấy, chính sách tiêu thụ nông sản của nhà nước nhằm hỗ trợ nông dân
là rất cần thiết. Do phạm vi nghiên cứu của cuốn sách rất rộng nên tác giả chưa có
điều kiện nghiên cứu sâu về chính sách này.
Cuốn sách “Nông nghiệp, nông thôn, nông dân Việt Nam trong quá trình phát
triển đất nước theo hướng hiện đại”, NXB Khoa học xã hội (2010), do Nguyễn Danh
Sơn chủ biên đã đề cập đến động lực để phát triển nông nghiệp, nông thôn là lợi ích
của các chủ thể kinh tế. Trong cuốn sách, các tác giả cho rằng, trong chính sách nông
nghiệp, nông thôn, lợi ích của nông dân phải là trung tâm. Tuy nhiên, do phạm vi và
đối tượng nghiên cứu, cuốn sách không có điều kiện để bàn kỹ chính sách tiêu thụ
nông sản cần phải như thế nào để đảm bảo lợi ích của chủ thể quan trọng đó.
2.4. Về chính sách liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản
- Doanh nghiệp Việt Nam trên tiến trình hội nhập vào tổ chức thương mại thế
giới WTO (2006), Nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin. Tập thể tác giả của cuốn sách
18
đã đưa ra bức tranh phát triển kinh tế trước khi Việt Nam chính thức là thành viên
của WTO, để thấy được những thành tựu to lớn của phát triển kinh tế - xã hội với
những chỉ tiêu: tăng trưởng, thu hút đầu tư nước ngoài, thu ngân sách, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế và đặc biệt là xuất nhập khẩu, trong đó thế mạnh của Việt Nam là xuất
khẩu nông sản – đã góp phần to lớn vào đưa nền kinh tế Việt Nam hội nhập với thế
giới. Cuốn sách cũng đã khuyến nghị những việc cần làm để đảm bảo thực hiện các
cam kết với WTO một cách hiệu quả nhất. Tuy nhiên, vấn đề kết hợp giữa các chủ
thể để tối đa hóa lợi ích khi tham gia vào thị trường toàn cầu, trong đó mối quan hệ
giữa Nhà nước, Doanh nghiệp, Nông dân, Nhà khoa học không được cuốn sách đề
cập một cách rõ nét. Vấn đề này cần tiếp tục làm rõ.
- Hoàng Thọ Xuân (2010), Phát triển mạnh hệ thống phân phối nòng cốt của
thị trường nội địa, Tạp chí cộng sản số 803, tháng 9. Bài viết đã phân tích rất kỹ về
tình trạng doanh nghiệp Việt Nam, kể cả các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh về
nông sản đã quá coi trọng thị trường nước ngoài, bỏ quên thị trường trong nước đầy
tiềm năng đặc biệt là thị trường nông thôn – điều này là không hợp lý xét cả về mặt
lý luận và thực tiễn khi mà trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, thị trường
đã không bị giới hạn về không gian và thời gian, nó có mối quan hệ mật thiết với
nhau. Cho nên, thị trường nội địa được phát triển mạnh và cân đối sẽ là tiền đề quan
trọng để chiếm lĩnh thị trường ngoài nước. Để làm được điều đó, phải có sự phối hợp
đồng bộ và hiệu quả giữa doanh nghiệp và nông dân, giữa nghiên cứu và nuôi trồng
và chế biến nông sản để phát huy lợi thế sân nhà của mình trước khi tính đến việc
vươn ra thị trường quốc tế. Đây là vấn đề mà bài viết chưa bàn tời và nó cần được
làm rõ hơn nữa.
Vấn đề liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản đã được các công trình trên nghiên
cứu và đề cập đến những khía cạnh sau: Chính sách này bắt nguồn từ Quyết định
80/QĐ-TTg nhằm thúc đẩy việc tiêu thụ thông qua hợp đồng nông sản. Tuy nhiên,
qua thực hiện vẫn cho thấy một thực trạng đó là: Tỷ lệ bán qua hợp đồng thấp
(khoảng 30% sản lượng), tình trạng vi phạm hợp đồng diễn ra phổ biến, hợp đồng đã
bị biến dạng thành hợp đồng giữa doanh nghiệp chế biến và đại diện của nông dân,
hợp đồng chỉ hướng đến các hộ có quy mô lớn nên các hộ nhỏ dễ dàng bị bỏ rơi
trong quá trình tham gia vào chuỗi giá trị của ngành hàng nông sản và rơi vào thế bất
lợi. Tuy nhiên, những công trình trên chưa làm rõ được nguyên nhân của những thực
trạng trên, đó là lợi ích của các chủ thể - đây là yếu tố quyết định mối liên kết chặt
chẽ (chỉ được đảm bảo khi các bên tham gia đạt được lợi ích tối đa cho minh), khi lợi
ích không được đảm bảo thì việc phá bỏ hợp đồng là điều khó tránh khỏi, đặc biệt
không nên quá nhấn mạnh lợi ích của chủ thể nào mà phải hài hòa về lợi ích mới
đảm bảo một liên kết bền vững. Đây là vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu.
19
Kết luận: Các công trình nghiên cứu chính sách tiêu thụ nông sản Việt Nam đã
đạt được những kết quả chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, chỉ rõ giá cả nông sản Việt Nam thấp, thiếu ổn định, ảnh hưởng trực
tiếp đến đời sống của nông dân. Các giải pháp vĩ mô của Nhà nước cũng như những
nỗ lực cần thiết của người nông dân có ý nghĩa hết sức quan trọng để giải quyết vấn
đề này. Đồng thời, các công trình cũng đã chỉ ra mối liên hệ mật thiết của thị trường
trong nước và thị trường ngoài nước về giá cả, từ đó có thể chọn được thời điểm đẩy
mạnh xuất khẩu nông sản cho tối ưu hóa lợi ích.
Thứ hai, giá cả nông sản có liên quan mật thiết với vấn đề sản lượng, mùa vụ,
quy hoạch, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, phát triển công nghệ sinh học để
lai tạo các giống năng suất cao, chất lượng tốt, kháng trừ sâu bệnh. Vấn đề thu mua
và cất trữ nông sản, vừa đảm bảo về tính tự chủ, vừa đảm bảo có lợi về kinh tế khi
mà giá thấp thì thu mua dự trữ và bán ra khi giá cao cũng đã được phân tích kỹ, theo
đó là các giải pháp của Nhà nước về vấn đề này cũng được các nghiên cứu chỉ rõ.
Thứ ba, vấn đề liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản (đặc biệt là mối liên hệ
giữa Nhà nông, Nhà nước, Nhà doanh nghiệp và Nhà khoa học) đã được đề cập và
phân tích, trong đó đặc biệt là mối quan hệ giữa nông dân và doanh nghiệp đã được
các bài viết, các đề tài phản ánh rõ nét về thực trạng mối quan hệ này. Nhiều giải
pháp về phía nhà nước, về phía các chủ thể trong chuỗi liên kết trên cũng được các
tác giả đưa ra và phản ánh đúng thực trạng của vấn đề.
Thứ tư, cần phải phát triển công nghiệp chế biến theo hướng công nghệ hiện đại
để gia tăng giá trị cho nông sản trong chuỗi giá trị toàn cầu, khắc phục tình trạng
nông sản Việt Nam chỉ tham gia vào khâu mang lại ít giá trị nhất đó là sản xuất,
trong khi khâu chế biến, thương mại có giá trị gia tăng cao lại “nhường” cho quốc
gia khác.
Thứ năm, vấn đề xúc tiến thương mại nhằm xây dựng và quảng bá thương hiệu
nông sản Việt Nam thời gian qua cũng đã được chú trọng từ cấp vĩ mô đến cấp vi
mô; từ trung ương đến địa phương. Các doanh nghiệp Việt Nam đã nhận ra và bước
đầu có những biện pháp cụ thể để chiếm lĩnh thị trường trong nước khi mà các cam
kết với WTO đang dần hết biên độ cho phép theo lộ trình mở cửa (cả trong lĩnh vực
nông sản).
Tuy nhiên, trong các công trình nghiên cứu về chính sách tiêu thụ nông sản,
một số vấn đề vẫn còn bỏ ngỏ hoặc cần được tiếp tục nghiên cứu trong bối cảnh, điều
kiện mới, đó là:
Thứ nhất, chính sách tiêu thụ nông sản phải góp phần gia tăng giá trị nông sản
và thu nhập của người nông dân trong chuỗi giá trị toàn cầu khi thực hiện các cam
20
kết với Tổ chức thương mại thế giới; từ đó nâng cao đời sống vật chất và tinh thần,
gia tăng vị thế của nông dân.
Thứ hai, phân tích chính sách tiêu thụ nông sản dưới góc độ kinh tế chính trị,
tức là phân tích mối quan hệ lợi ích giữa các chủ thể tham gia vào quá trình tái sản
xuất nông sản, từ sản xuất đến phân phối, lưu thông. Chính sách đó phải coi lợi ích
của nông dân là trung tâm nhưng phải hài hòa với lợi ích của các chủ thể khác như
nhà doanh nghiệp, nhà khoa học, nhà nước. Đặc biệt, chính sách của Nhà nước về
vấn đề liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản (Thể hiện chủ yếu ở QĐ 80/2002/QĐ-
TTg năm 2002) vấn còn nhiều bất cập và cần bổ sung sửa đổi QĐ này cho phù hợp
với điều kiện và bối cảnh mới.
Thứ ba, vấn đề bảo quản, chế biến nông sản cần được tập trung phát triển
nhưng phải đặc biệt lưu ý đến đặc thù của từng loại sản phẩm. Chính sách bảo quản
giúp cho nông dân và doanh nghiệp tránh được tổn thất lớn trong quá trình sản xuất
và chế biến cũng như có tác động tích cực đến chất lượng và giá thành. Phát triển
công nghiệp chế biến giúp cho phần giá trị gia tăng mà các chủ thể kinh tế Việt Nam
nhận được sẽ tăng lên; mặt khác, nó còn làm cho cơ cấu các mặt hàng nông sản đa
dạng hơn, xâm nhập được những thị trường lớn, tăng khả năng cạnh tranh.
Thứ tư, đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, vấn đề nông nghiệp,
nông thôn, nông dân có tầm quan trọng đặc biệt bởi chúng dễ bị tổn thương nhất
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Là thành viên của Tổ chức thương mại thế
giới, Việt Nam vừa phải thực hiện các cam kết về thị trường nông sản với tổ chức
này, vừa phải bảo vệ được lợi ích của nông dân, của đất nước. Bởi vậy, kinh nghiệm
của các nước đi trước trong việc hoạch định và thực thi chính sách tiêu thụ nông sản
nhằm thực hiện các mục tiêu trên cần phải được học hỏi một cách nghiêm túc và phù
hợp về điều kiện kinh tế - xã hội.
Thứ năm, thị trường nông sản thế giới hiện nay có nhiều xu hướng phát triển
mới mang lại nhiều cơ hội nhưng cũng không ít những thách thức, khó khăn cho
nông sản Việt Nam. Vì vậy, chính sách tiêu thụ nông sản phải phù hợp với điều kiện
mới – điều kiện Việt Nam đã gia nhập WTO được 6 năm. Vấn đề này cần tiếp tục
được nghiên cứu trong bối cảnh và điều kiện mới.
Thứ sáu, chính sách tiêu thụ nông sản Việt Nam có những ưu điểm và hạn chế
gì? cần phải được hoàn thiện như thế nào để vừa thực hiện được các cam kết với Tổ
chức thương mại thế giới, vừa phải bảo vệ được lợi ích của nông dân, của đất nước.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục tiêu nghiên cứu
Từ việc phân tích thực trạng chính sách tiêu thụ nông sản ở Việt Nam hiện nay,
đánh giá mặt tích cực, hạn chế và nguyên nhân của tình hình, luận án đưa ra các giải
21
pháp hoàn thiện chính sách tiêu thụ nông sản nhằm gia tăng giá trị nông sản Việt
Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu; đảm bảo hài hòa lợi ích của các chủ thể kinh tế
nông nghiệp, nông thôn mà trung tâm là lợi ích của người nông dân trong quá trình
thực hiện các cam kết với Tổ chức thương mại thế giới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xây dựng khung lý thuyết về chính sách tiêu thụ nông sản trong quá trình thực
hiện các cam kết với Tổ chức thương mại thế giới.
- Từ việc nghiên cứu chính sách tiêu thụ nông sản của một số nước, luận án rút
ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc hoạch định, thực thi và điều
chỉnh chính sách tiêu thụ nông sản trong quá trình thực hiện các cam kết với Tổ chức
thương mại thế giới.
- Phân tích thực trạng tiêu thụ nông sản và chính sách tiêu thụ nông sản sau 6
năm gia nhập WTO; đánh giá chính sách tiêu thụ nông sản Việt Nam thời gian qua,
chỉ ra thành tựu và hạn chế, nguyên nhân của hạn chế.
- Đưa ra một số quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện, phát huy vai trò của
chính sách tiêu thụ nông sản của Việt Nam trong quá trình thực hiện các cam kết với
Tổ chức thương mại thế giới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Chính sách tiêu thụ nông sản Việt Nam là đối tượng nghiên cứu của luận án.
Chính sách được nghiên cứu dưới góc độ là sản phẩm chủ quan của nhà nước, phản
ánh năng lực nhận thức và vận dụng các quy luật kinh tế khách quan của Nhà nước;
đồng thời chính sách còn được nghiên cứu dưới góc độ là công cụ quản lý kinh tế vĩ
mô, thể hiện quan điểm, mục tiêu và giải pháp của nhà nước trong lĩnh vực tiêu thụ
nông sản.
* Cách tiếp cận
Luận án tiếp cận vấn đề dưới góc độ kinh tế chính trị. Bằng các tác động kinh
tế, chính trị, xã hội phù hợp với các cam kết với WTO, chính sách tiêu thụ nông sản
Việt Nam phải góp phần gia tăng giá trị của nông sản Việt Nam trong chuỗi giá trị
toàn cầu; từ đó đảm bảo hài hòa lợi ích của nhà nông - nhà khoa học - nhà doanh
nghiệp - nhà nước, mà trung tâm là lợi ích của nhà nông. Trên cơ sở đó, luận án chỉ
ra những ưu, nhược điểm và đưa ra các khuyến nghị nhằm hoàn thiện chính sách.
* Phạm vi nghiên cứu
- Giới hạn nội dung nghiên cứu:
Luận án tập trung nghiên cứu các chính sách vĩ mô của Nhà nước tác động trực
tiếp đến hoạt động tiêu thụ nông sản: Chính sách giá cả, sản lượng nông sản; chính
22
sách bảo quản, chế biến nông sản; chính sách xúc tiến thương mại nông sản; chính
sách liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản.
Nông sản chỉ bao gồm các sản phẩm nông nghiệp theo danh mục cam kết với
Tổ chức thương mại thế giới (không bao gồm thủy sản). Đề tài tập trung nghiên cứu
5 nông sản thế mạnh của Việt Nam: Gạo, cà phê, cao su, tiêu và điều.
- Thời gian: Chính sách tiêu thụ nông sản của Việt Nam từ 2002 đến nay và tầm
nhìn đến 2020.
- Không gian: Thị trường tiêu thụ nông sản nội địa và xuất khẩu.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử được sử dụng để
nghiên cứu các nội dung của luận án. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể là:
- Phương pháp trừu tượng hóa khoa học sử dụng để tạm gạt bỏ những nhân tố
thứ yếu, không ảnh hưởng quyết định đến vấn đề nghiên cứu. Chính sách tiêu thụ
nông sản là tổ hợp của rất nhiều chính sách tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến tiêu
thụ nông sản. Để đảm bảo thực hiện mục tiêu của luận án, nghiên cứu có trọng tâm
vào các chính sách có tác động chủ yếu đến tiêu thụ nông sản; các chính sách tác
động gián tiếp đến tiêu thụ nông sản chỉ đề cập nhằm làm rõ hơn vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng để đánh giá một cách khách
quan về thực trạng chính sách tiêu thụ nông sản của Việt Nam. Các chính sách của
Nhà nước đối với việc tiêu thụ nông sản giai đoạn 2007 - 2011 sẽ được phân tích kỹ
lưỡng trên nhiều chiều cạnh. Đồng thời, luận án sẽ xem xét các kết quả nghiên cứu
trong các mối liên hệ tổng thể; đặt chúng trong mối quan hệ tương tác của nhiều yếu
tố: khách quan-chủ quan, bên trong-bên ngoài
- Phương pháp so sánh được sử dụng trong việc xem xét chính sách tiêu thụ
nông sản của một số quốc gia để chỉ ra những tương đồng, khác biệt và bài học rút ra
cho Việt Nam. Phương pháp này còn được sử dụng để làm rõ những thay đổi về
không gian và thời gian, về điều kiện kinh tế - xã hội đòi hỏi chính sách tiêu thụ
nông sản phải được thay đổi như thế nào…
- Phương pháp phân tích chính sách kinh tế - xã hội được sử dụng để làm rõ nội
dung, ưu điểm và hạn chế của các chính sách có tác động trực tiếp đến tiêu thụ nông
sản. Đối tượng nghiên cứu của luận án là chính sách tiêu thụ nông sản nên sử dụng
phương pháp phân tích chính sách là một trong những phương pháp quan trọng để
đạt được mục tiêu nghiên cứu. Phân tích chính sách tiêu thụ nông sản chính là đi sâu
phân tích mục tiêu và các công cụ, giải pháp thực hiện chính sách; tìm hiểu quá trình
chính sách, đặc biệt là tập trung vào 3 khâu quan trọng là hoạch định chính sách,
thực hiện chính sách và điều chỉnh chính sách. Việc phân tích chính sách còn gắn với
việc phân tích lợi ích của nông dân có được từ những chính sách đó, những tác động
23
của Nhà nước, tương tác với các chủ thể mà chính sách hướng tới sẽ làm sáng rõ
phần giá trị gia tăng mà người nông dân nhận được trong quá trình toàn cầu hóa,
trong quá trình thực hiện các cam kết với Tổ chức thương mại thế giới.
6. Đóng góp của luận án
- Luận án nghiên cứu chính sách tiêu thụ nông sản ở Việt Nam với tư cách là
công cụ thúc đẩy sự gia tăng giá trị nông sản Việt Nam trong chuỗi giá trị nông sản
toàn cầu; đảm bảo lợi ích của các chủ thể kinh tế ở nông thôn, trong đó lợi ích của
người nông dân làm trung tâm.
- Luận án tiếp cận chính sách tiêu thụ nông sản dưới góc độ kinh tế chính trị.
Chính sách tiêu thụ nông sản được nghiên cứu không đơn thuần là chính sách bán
nông phẩm, mà là vấn đề mang tính liên ngành, liên quan đến cả 4 khâu của quá trình
tái sản xuất (sản xuất – phân phối – trao đổi – tiêu dùng); mà điều quan trọng hơn là
phải đảm bảo được các lợi ích của các chủ thể Việt Nam trong điều kiện người chơi,
sân chơi, luật chơi toàn cầu.
- Làm rõ được thực trạng chính sách tiêu thụ nông sản của một số nước trong
quá trình thực hiện cam kết với Tổ chức thương mại thế giới; rút ra được những bài
học kinh nghiệm cho Việt Nam nhằm hoàn thiện chính sách tiêu thụ nông sản trong
điều kiện mới của đất nước và thế giới.
- Phân tích và đánh giá chính sách tiêu thụ nông sản Việt Nam thời gian qua,
vừa phải thực hiện các cam kết với Tổ chức thương mại thế giới, vừa phải bảo vệ
được lợi ích của nông dân, của đất nước; từ đó chỉ ra những thành tựu, những hạn
chế, tồn tại và nguyên nhân.
- Đưa ra một số gợi ý hoàn thiện chính sách tiêu thụ nông sản Việt Nam nhằm
gia tăng giá trị của nông sản Việt Nam trong chuỗi giá trị nông sản toàn cầu; gia tăng
thu nhập và vị thế của nông dân Việt Nam trong bối cảnh thực hiện các cam kết với
Tổ chức thương mại thế giới.
7. Kết cấu của luận án
Để thực hiện mục tiêu và các nhiệm vụ của đề tài, kết cấu luận án ngoài phần
mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, gồm 3 chương:
Chương 1: Chính sách tiêu thụ nông sản trong quá trình thực hiện các cam kết
với Tổ chức thương mại thế giới – Cơ sở lý luận và kinh nghiệm quốc tế
Chương 2: Thực trạng chính sách tiêu thụ nông sản Việt Nam trong quá trình
thực hiện các cam kết với Tổ chức thương mại thế giới
Chương 3: Quan điểm và giải pháp cơ bản hoàn thiện chính sách tiêu thụ nông
sản Việt Nam trong quá trình thực hiện các cam kết với Tổ chức thương mại thế giới
24
Chương 1
CHÍNH SÁCH TIÊU THỤ NÔNG SẢN TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN
CÁC CAM KẾT VỚI TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI – CƠ SỞ
LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
1.1. Một số vấn đề lý luận về chính sách tiêu thụ nông sản trong quá trình
thực hiện các cam kết với Tổ chức thương mại thế giới
1.1.1. Nông sản và chuỗi giá trị nông sản toàn cầu
1.1.1.1. Nông sản và các đặc điểm của nó
* Nông sản
Theo WTO, hàng hóa được chia làm hai nhóm chính: nông sản và phi nông sản.
Nông sản được xác định trong Hiệp định nông nghiệp là tất cả các loại hàng hóa có
nguồn gốc từ hoạt động nông nghiệp như:
- Các sản phẩm nông nghiệp cơ bản: lúa gạo, lúa mỳ, bột mỳ, sữa, động vật
sống, cà phê, hồ tiêu, hạt điều, chè, rau quả tươi,…
- Các sản phẩm phái sinh: bánh mỳ, bơ, dầu ăn, thịt,…
- Các sản phẩm được chế biến từ sản phẩm nông nghiệp: bánh kẹo, sản phẩm từ
sữa, xúc xích, nước ngọt, rượu, bia, thuốc lá, bông xơ, da động vật thô,…[5, tr. 544].
Theo sự phân chia có tính chất tương đối của Việt Nam, nông nghiệp theo nghĩa
hẹp là ngành sản xuất vật chất mà con người phải dựa vào quy luật sinh trưởng của
cây trồng và vật nuôi để tạo ra sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của con người. Như vậy,
theo nghĩa hẹp nông nghiệp bao gồm chăn nuôi và trồng trọt. Theo nghĩa rộng nông
nghiệp bao gồm: chăn nuôi, trồng trọt, lâm nghiệp, ngư nghiệp và diêm nghiệp [28,
tr. 312].
Các ngành công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản được gộp vào lĩnh vực công
nghiệp. Như vậy, đã có sự khác biệt trong khái niệm về hàng nông sản giữa WTO và
Việt Nam. Vì vậy, đối với doanh nghiệp kinh doanh và xuất khẩu nông sản cần xác
định rõ sản phẩm của mình có thuộc nhóm nông sản theo quy định của WTO hay
không. Việc xác định này rất quan trọng bởi nhóm nông sản sẽ được hoặc phải áp
dụng những quy chế pháp lý đặt thù, không giống với quy chế áp dụng chung cho
các loại hàng hóa phi nông nghiệp. Quan niệm về nông sản và mở cửa thị trường
nông sản về nguyên tắc là các nghĩa vụ của Chính phủ các nước thành viên WTO,
không phải là nghĩa vụ của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, doanh nghiệp kinh doanh
và xuất khẩu nông sản lại là những đối tượng chịu tác động trực tiếp từ việc các
Chính phủ thực hiện những nghĩa vụ này (được lợi vì thị trường mở cửa hoặc bị ảnh
hưởng do không còn được bảo hộ như trước). Vì vậy, doanh nghiệp cần biết các
nguyên tắc chung về mở cửa thị trường nông sản để có kế hoạch kinh doanh phù
25
hợp, đồng thời cũng có căn cứ để khiếu nại, khiếu kiện bảo vệ lợi ích của mình khi
cần thiết.
Điều này còn được lý giải bởi một lý do nữa, nông sản là một loại hàng hóa
“nhạy cảm” trong thương mại:
Thứ nhất, thương mại hàng nông sản đụng chạm đến lợi ích của một số bộ phận
dân cư vốn có thu nhập thấp ở cả các nước phát triển và các nước đang phát triển.
Thứ hai, mỗi nước đều có nhu cầu đảm bảo nguồn cung lương thực ổn định
trong hoàn cảnh thế giới thường xuyên có biến động về thu hoạch và các nguy cơ
nạn đói rình rập.
* Đặc điểm nông sản
Sản xuất nông sản, có nhiều đặc điểm khác với các ngành sản xuất khác:
Một là, sản xuất nông sản mang tính thời vụ và tính khu vực rõ rệt. Do quá trình
sản xuất nông sản được tiến hành trên những địa bàn khác nhau và phụ thuộc vào
điều kiện tự nhiên. Quá trình sản xuất và tái sản xuất nông sản là quá trình kinh tế
nhưng lại gắn liền với quá trình sản xuất tự nhiên, thời gian và không gian sản xuất
xen kẽ nhau, song lại không hoàn toàn trùng hợp với nhau. Do các điều kiện tự nhiên
thường xuyên biến đổi nên mỗi loại cây trồng có sự thích ứng nhất định đối với điều
kiện đó, dẫn đến tính mùa vụ của các loại cây trồng khác nhau. Tính mùa vụ trong
sản xuất nông sản là không thể thay đổi được, trong quá trình sản xuất nông sản, con
người chỉ có thể tìm cách hạn chế nó. Thiên nhiên đã cung cấp cho con người các
yếu tố đầu vào cho sản xuất nông sản như: ánh sáng, nước, độ ẩm,… Những yếu tố
tự nhiên đó nếu biết khai thác một cách hợp lý, cộng thêm sự tác động của khoa học
công nghệ hiện đại có thể sản xuất ra những nông sản có chất lượng tốt và chi phi
thấp.
Hai là, ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu của sản xuất nông sản lại bị giới
hạn về diện tích. Vì thế, quá trình sản xuất nông sản đòi hỏi phải có những giải pháp
để cải tạo và bồi dưỡng đất làm cho ruộng đất màu mỡ hơn, sản xuất ra nhiều sản
phẩm trên một đơn vị diện tích với chi phí thấp nhất trên một đơn vị sản phẩm.
Ba là, các nhà khoa học đã dự báo trong thế kỷ XXI, nông nghiệp thế giới sẽ có
7 mặt biến đổi quan trọng đó là: tự động hóa, điện khí hóa, công xưởng hóa, sinh vật
hóa, đa nguyên hóa thực vật, khoa học quản lý và phát triển liên tục hóa. Từ sau
những năm 70 của thế kỷ XX, người ta đã nhận thấy việc cơ giới hóa và hóa học hóa
nông nghiệp tuy đã thúc đẩy sản xuất nông sản phát triển tăng vọt nhưng kèm theo
đó gây ra ô nhiễm môi trường, thoái hóa tài nguyên. Trong khi đó, ngày nay chất
lượng hàng hóa trở thành vấn đề quan trọng mà cả xã hội quan tâm. Chất lượng hàng
nông sản bao gồm cả chất lượng dinh dưỡng và chất lượng vệ sinh an toàn thực
phẩm có tác dụng trực tiếp đến vấn đề sức khỏe, tính mạng của con người. Những
26
yếu tố chủ yếu quyết định đến chất lượng nông sản là giống cây, giống con; quy trình
và kỹ thuật nuôi trồng; công nghệ chế biến và bảo quản;… Trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế hiện nay, khi các quốc gia là thành viên của WTO cam kết cắt giảm
thuế và tiến tới xóa bỏ hàng rào phi thuế quan như trợ cấp xuất khẩu, hạn ngạch,…
các quy định về tiêu chuẩn và vệ sinh an toàn thực phẩm có xu hướng ngày càng khắt
khe hơn. Hơn nữa, do chất lượng cuộc sống ngày càng cao, yêu cầu của con người
đối với những sản phẩm có chất lượng, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cao. Vì
vậy, xu hướng sản xuất nông sản theo phương thức sản xuất hữu cơ, theo quy trình
sản xuất sạch, đảm bảo dinh dưỡng và an toàn vệ sinh thực phẩm phải được đạt lên
hàng đầu và sẽ trở thành một lợi thế nếu quốc gia nào biết nắm bắt và đầu tư sản xuất
theo hướng này.
Nông sản mang tính thiết yếu (hầu hết nông sản là những sản phẩm phục vụ
nhu cầu thiết yếu)
Tính thiết yếu của nông sản thể hiện rõ nhất ở việc cung cấp lương thực, thực
phẩm cho nhu cầu cơ bản của con người. Xã hội có thể thiếu nhiều loại sản phẩm
nhưng không thể thiếu lương thực và thực phẩm. Do đó, việc thỏa mãn các nhu cầu
về lương thực, thực phẩm trở thành điều kiện quan trọng để ổn định kinh tế, chính
trị, xã hội. Sự phát triển của nông nghiệp có ý nghĩa quyết định đối với việc thỏa
mãn nhu cầu này. Đảm bảo nhu cầu về lương thực không chỉ là yêu cầu duy nhất của
nông nghiệp, mà còn là cơ sở phát triển các mặt khác của đời sống kinh tế - xã hội.
Tiêu thụ nông sản có những khác biệt so với các sản phẩm khác
Đặc điểm quan trọng của nông sản là tính chất tươi sống của sản phẩm và sản
xuất, thu hoạch theo mùa vụ và theo khu vực (nhu cầu tiêu dùng lại quanh năm).
Mặc khác, mỗi loại nông sản có một hình thức tiêu thụ và chế biến riêng. Những
nông sản yêu cầu tiêu thụ tươi thì gặp khó khăn trong bảo quản lâu và vận chuyển xa.
Những sản phẩm chế biến đòi hỏi công nghệ đặc thù và giữ được hương vị, màu sắc
tự nhiên. Yêu cầu chất lượng tiêu dùng ngày càng cao, đòi hỏi thu hoạch, vận chuyển
và bảo quản, chế biến theo những quy trình công nghệ chặt chẽ. Quá trình tiêu thụ
nông sản được tổ chức tốt, nhanh chóng thuận tiện sẽ góp phần đảm bảo chất lượng
nông sản tốt hơn, quá trình sản xuất diễn ra nhanh hơn. Ngược lại, hệ thống tiêu thụ
được tổ chức không tốt sẽ làm chậm quá trình lưu thông của nông sản, từ đó ảnh
hưởng đến chất lượng và chi phí của nông sản.
Về chế biến nông sản
Nông sản là loại hàng hóa khó bảo quản, dễ hư hỏng và thối rữa. Sự phát triển
của công nghiệp chế biến nông sản tạo ra sự đa dạng của giá trị sử dụng, tăng thời
gian bảo quản nông sản và giảm tỷ lệ thất thoát sau thu hoạch. Sự phát triển của công
nghiệp chế biến còn làm giảm sự phụ thuộc của sản xuất vào điều kiện tự nhiên, khắc