Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH THỰC HIỆN CÁC CAM KẾT GIA NHẬP WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.01 KB, 40 trang )

THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH
THỰC HIỆN CÁC CAM KẾT GIA NHẬP WTO .
1.1.Tổng quan về thị trường bán lẻ:
Khái niệm về phân phối:
Hoạt động phân phối có thể xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau:
Đối với người sản xuất, phân phối là những cách thức tổ chức giúp họ đưa sản
phẩm tới người tiêu dùng cuối cùng.
Đối với người tiêu dùng, hoạt động phân phối chủ yếu được thể hiện tại các cửa
hàng bán lẻ, nó thể hiện quá trình vận động của hàng hoá bao gồm quá trình vận
chuyển, dự trữ biến đổi và đưa hàng hoá đến phục vụ nhằm thoả mãn nhu cầu của họ.
Đối với bản thân các nhà phân phối, hoạt động phân phối là một lĩnh vực kinh tế
riêng biệt có chức năng trung gian giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng.
Như vậy, phân phối có thể hiểu là toàn bộ những hoạt động cách thức để đưa hàng
hoá từ nhà sản xuất, chế tạo tới tay người tiêu dùng. Các hoạt động cách thức này có thể
là đóng gói, vận chuyển, dự trữ, bán lẻ.... Hoạt động phân phối có thể coi là cầu nối
giữa người sản xuất và người tiêu dùng dù có thể người sản xuất tự cung cấp hàng hoá
hay cung cấp hàng hoá qua trung gian tới người tiêu dùng. Thông qua hoạt động phân
phối hàng hoá có thể lưu thông trên phạm vi toàn xã hội để đáp ứng nhu cầu phong phú,
đa dạng của người tiêu dùng.
1.1.1 Định nghĩa về thị trường bán lẻ:
Bán lẻ là hoạt động bán các sản phẩm hoàn chỉnh và dịch vụ cho người tiêu thụ để
thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng cá nhân hay hộ gia đình. Nói cách khác, bán lẻ gồm tất cả
các hoạt động liên quan đến việc bán hàng hóa trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng
để họ sử dụng vào mục đích cá nhân, không kinh doanh.
Người bán lẻ là các cá nhân hay tổ chức làm công việc bán lẻ thông qua các hình
thức đa dạng như bán hàng trực tiếp, bán qua điện thoại, bán hàng qua internet…
Thị trường bán lẻ là thị trường ở đó diễn ra hoạt động bán lẻ. Những người bán lẻ
và người tiêu dùng là hai tác nhân chính của thị trường. Những người bán lẻ (cá nhân,
tổ chức) và người tiêu dùng tiến hành hoạt động mua bán hàng hóa trong một khuôn
khổ khung pháp lý nhất định.
1.1.2. Cấu trúc kênh phân phối của thị trường bán lẻ:


Sơ đồ 1.1. Cấu trúc kênh phân phối của thị trường bán lẻ.

* Dù hàng hoá được phân phối như thế nào thì kênh phân phối của thị trường bán lẻ
về cơ bản bao gồm 3 thành viên: người sản xuất, người trung gian và người tiêu dùng
cuối cùng.
- Người sản xuất: là người trực tiếp sản xuất ra hàng hoá đó. Đôi khi người sản xuất
cũng là người bán thẳng hàng hoá đó tới tay người tiêu dùng không cần qua trung gian.
- Người trung gian: là những người tham gia vào việc phân phối hàng hoá tới người
tiêu dùng. Người trung gian có thể gồm: đại lý môi giới, người bán buôn, người bán lẻ
(cửa hàng tiện dụng, siêu thị và đại siêu thị, cửa hàng bách hoá, cửa hàng đại hạ giá,
cửa hàng chuyên doanh, trung tâm thương mại...).
Sơ đồ 1.2 : Minh hoạ cho các cửa hàng làm người trung gian bán lẻ
Người
tiêu dùng
Người
trung gian
Người
sản xuất
Môi giới
CH nhượng quyền
CH Bán và giới thiệu sản phẩm
CH bán lẻ độc lập
- Người tiêu dùng: là cuối cùng nhận được hàng hoá đó. Họ nhận hàng hoá đó với
mục đích để tiêu dùng.
* Do sự đa dạng của khâu trung gian mà hàng hoá có thể đến tay của người tiêu
dùng theo nhiều con đường dài ngắn khác nhau:
- Người sản xuất trực tiếp đưa hàng hoá của mình tới tận tay người tiêu dùng mà
không qua một khâu trung gian nào khác. Hàng hoá được bán tại các cửa hàng bán và
giới thiệu sản phẩm của mình hoặc qua điện thoại, qua mạng, qua đơn đặt hàng...
+ Ưu điểm: Ưu điểm của trường hợp này là hàng hoá tiêu thụ nhanh chóng. Vì

hàng hoá đến thẳng tay người tiêu dùng nên giá cả hợp lý hơn. Đồng thời, do không
phải qua khâu trung gian nên nhà sản xuất có thể thu được nhiều lợi nhuận hơn. Đặc
biệt, ưu điểm lớn nhất đó là nhà sản xuất có thể dễ dàng nắm bắt, nhận biết nhu cầu của
khách hàng.
Người
tiêu
dùng
Người
sản
xuất
Các loại hình
khác:CH đại lý,
CH của HTX
bán lẻ...
+Nhược điểm: Để thực hiện đưa hàng hoá theo con đường này và đảm bảo được
nguyên tắc lợi nhuận thì người tiêu dùng ở đây phải là người có nhu cầu tiêu thụ lớn và
ổn định. Trên thực tế, rất khó doanh nghiệp có thể tìm kiếm được những người tiêu
dùng đáp ứng được yêu cầu đó.
+ Ứng dụng: Con đường trực tiếp thường được áp dụng trong trường hợp bán
những hàng hoá có giá trị lớn, những hàng hoá có tính chất thương phẩm đặc biệt (hàng
tươi sống, hàng lâu bền)... Ví dụ: bán ô tô, cửa hàng bán và giới thiệu sản phẩm.
- Người sản xuất đưa hàng hoá của mình tới tay người tiêu dùng thông qua khâu
trung gian là những nhà bán lẻ hoặc là thông qua nhà bán buôn rồi đến người bán lẻ
cuối cùng là đến người tiêu dùng.
Trường hợp hàng hoá theo con đường ngắn chỉ có một người trung gian là người
bán lẻ:
+ Ưu điểm: Trong trường hợp này thì người sản xuất có thể tận dụng được vị trí
bán hàng, hệ thống phân phối của người bán lẻ. Qua đó, nhà sản xuất có thể tăng được
uy tín của hàng hoá. Ngoài ra, người sản xuất cũng dễ dàng điều chỉnh hoạt động bán
hàng của mình.

+ Nhược điểm: Rõ ràng trong trường hợp này lợi nhuận đã bị phân chia một phần
cho nhà bán lẻ. Người sản xuất cũng khó điều phối hàng hoá của mình do các địa điểm
bán hàng thuộc sở hữu nhiều người bán lẻ khác nhau.
+ Ứng dụng: Các người sản xuất có quy mô nhỏ nên thường kiêm cả hoạt động bán
buôn thì áp dụng trường hợp này. Các người bán lẻ cần phải đáp ứng được yêu cầu là
phải có vốn lớn và mạng lưới rộng rãi.
Trường hợp hàng hoá theo con đường trung bình là qua người bán buôn đến người
bán lẻ rồi đến người tiêu dùng.
+ Ưu điểm: Để mở rộng được thị trường của mình thì người sản xuất cần phải có
vốn lớn, quan hệ rộng rãi, có bí quyết trong sản xuất, phân phối, bảo quản hàng hoá.
Không phải người sản xuất nào cũng có thể đáp ứng được yêu cầu đó. Khi đó, để mở
rộng thị trường thì những người sản xuất này sẽ nhờ đến vai trò của người bán buôn.
+ Nhược điểm: Chi phí sản xuất hàng hoá chắc chắn sẽ tăng lên, từ dó người sản
xuất bị chia sẻ lợi nhuận nhiều hơn. Người sản xuất cũng không thể tự mình điều chỉnh
được thị trường phân phối của mình do còn phải phụ thuộc vào người bán buôn.
+ Ứng dụng: Mở rộng thị trường phân phối hàng hoá.
- Ngoài ra, hàng hoá có thể đến tay người tiêu dùng qua những con đường dài hơn.
Hàng hoá đi từ nhà môi giới đến những nhà bán buôn rồi đến những nhà bán lẻ cuối
cùng mới là người tiêu dùng.
+ Ưu điểm: Trong trường hợp này người sản xuất có thể chuyên tâm vào sản xuất,
khâu phân phối được giao phối các người môi giới.
+ Nhược điểm: Chi phí tăng lên rất nhiều.
+ Ứng dụng: Trường hợp này áp dụng khi hàng hoá phải thâm nhập vào những thị
trường có những luật lệ quy tắc khó khăn hoặc là những thị trường đầu tiên mà người
sản xuất bán hàng hoá của mình. Tại những thị trường này, để có thể bán được hàng
hoá thì cần những người am hiểu sâu sắc thị trường, có mối quan hệ tốt với các người
bán buôn. Người đó chính là người môi giới.
Cụ thể phân tích trên thành sơ đồ như sau:
Sơ đồ 1.3: Các kênh phân phối sản phẩm từ người sản xuất đến người tiêu dùng


Người
sản
xuất
Người
tiêu
dùng
Người
sản xuất
Người
bán lẻ
Người
tiêu
dùng
Người
sản xuất
Người
bán
buôn
Người
tiêu
dùng
Người
bán lẻ
Trên thực tế, người sản xuất không chỉ áp dụng duy nhất một con đường để đưa
hàng hoá của mình tới tay người tiêu dùng. Họ có thể bán hàng trực tiếp tới tay người
tiêu dùng thông qua các cửa hàng bán và giới thiệu sản phẩm, bán buôn cho những
người bán lẻ để phân phối được nhiều sản phẩm, đồng thời họ có thể bán hàng thông
qua môi giới khi đưa hàng hoá của mình sang thị trường nước ngoài. Kết hợp nhiều con
đường phân phối khác nhau giúp người sản xuất vừa am hiểu nhu cầu của thị trường để
điều chỉnh sản xuất vừa tiêu thụ sản phẩm được tốt hơn. Khi lựa chọn các con đường

phân phối hàng hoá của mình thì người sản xuất cần căn cứ vào:
+ Nhu cầu của thị trường: Nhu cầu của thị trường được xem xét trên các góc độ
sau: số lượng của hàng hoá thị trường cần nhiều hay ít; quy mô, những khu vực có nhu
cầu đối với sản phẩm hàng hoá; chu kỳ sống của sản phẩm.
+ Điều kiện của người sản xuất: Điều kiện ở đây là thực tế về vốn, về mạng lưới
phân phối của người sản xuất. Điều kiện cũng có thể hiểu đó là người sản xuất muốn
tung ra sản phẩm mới hay là mở rộng thị trường.
+ Chiến lược phân phối hàng hoá của người sản xuất.
1.1.3. Các loại hình bán lẻ:
Các loại hình bán lẻ vô cùng phong phú và đa dạng. Dựa trên các tiêu chí khác nhau
người ta có thể phân loại ra nhiều loại hình bán lẻ khác nhau. Ví dụ phân loại theo quy
mô thì các loại hình bán lẻ có các cơ sở bán lẻ lớn, vừa và nhỏ. Hay phân loại theo các
chủ thể tham gia bán lẻ thì các loại hình bán lẻ gồm có doanh nghiệp bán lẻ, hợp tác xã
bán lẻ, cá thể hộ gia đình... Tuy nhiên, phổ biến và dễ hiểu nhất thì người ta thường
phân loại thị trường bán lẻ theo tiêu thức cách thức bán hàng và hàng hoá kinh doanh.
Theo đó, trong thị trường bán lẻ các loại hình bán lẻ gồm có bán lẻ tại cửa hàng,
bán lẻ không qua cửa hàng và bán lẻ dịch vụ:
Người
sản xuất
Người
tiêu
dùng
Người
bán
buôn
Người
bán lẻ
Người
môi giới
- Bán lẻ tại cửa hàng: Đây là loại hình bán lẻ phổ biến nhất hiện nay. Theo loại bán

lẻ này, các tổ chức hay cá nhân bán lẻ có một địa điểm kinh doanh cố định. Tại đây,
người ta tổ chức trưng bày hàng hoá và người tiêu dùng tới đây để mua và thanh toán
trực tiếp. Các địa điểm bán hàng này tuỳ theo quy mô, tính chất của từng loại cửa hàng
mà người ta phân loại ra các loại cửa hàng khác nhau. Hiện nay có các loại cửa hàng
bán lẻ như sau:
Chợ: Chợ là một loại hình bán lẻ truyền thống lâu đời và phổ biến khắp nơi trên thế
giới. Chợ có thể hiểu là một nơi quy tụ nhiều người bán lẻ và người tiêu dùng để tiêu
thụ các loại hàng hoá khác nhau. Hoạt động buôn bán của chợ có thể diễn ra hàng ngày
hoặc định kỳ theo một khoảng thời gian nhất định.
Siêu thị: Siêu thị là một loại hình bán lẻ hiện đại, mới xuất hiện tại Việt Nam. Siêu
thị được hiểu là một cửa hàng bán lẻ kinh doanh theo phương thức tự phục vụ, được
trang bị cơ sở vật chất tương đối hiện đại, bày bán nhiều mặt hàng đáp ứng nhu cầu
phong phú của người dân. Giá cả tại siêu thị thường cố định theo sự ấn định của người
kinh doanh không linh hoạt như giá cả tại chợ là kết quả thương lượng giữa người bán
và người mua. Siêu thị thường phải đáp ứng được một số quy định nhất định về cơ sở
vật chất: quy mô, địa điểm, kho... Quy định này tuỳ thuộc vào cơ quan quản lý của siêu
thị này.
Cửa hàng bán lẻ độc lập: Loại hình bán lẻ này tồn tại rất phổ biến. Các cửa hàng
này thường thuộc sở hữu của cá nhân hay hộ gia đình. Nó tồn tại dưới hình thức các
cửa hàng, cửa tiệm nhỏ tại các mặt phố, khu dân cư. Các loại hàng hoá tại các cửa hàng
này thường là các hàng tiêu dùng, dân dụng phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng hàng ngày.
Cửa hàng bán lẻ dạng hợp tác xã: Hợp tác xã bán lẻ được hình thành bởi một nhóm
người bán lẻ liên kết với nhau để cùng buôn bán, phân phối hàng hoá. Sự liên kết này
dựa trên sự tự nguyện, đồng thời các thành viên có quyền tự do gia nhập tách khỏi hợp
tác xã và tự cung ứng hàng hoá từ các nguồn ngoài hợp tác xã.
Cửa hàng bách hoá: Đây là loại hình cửa hàng lớn cả về quy mô và số lượng hàng
hoá. Các cửa hàng bách hoá thường được xây dựng tại các khu dân cư tập trung đông
đúc. Hàng hoá tại đây phong phú về chủng loại và mẫu mã nên thường được bày bán
chuyên biệt tại các khu vực riêng của cửa hàng
Cửa hàng đại lý: Các cửa hàng này được người sản xuất hoặc người phân phối

trung gian cho việc tiêu thụ hàng hoá trên cơ sở hợp đồng đại lý. Hoạt động của các cửa
hàng này thường độc lập và hưởng một khoản hoa hồng nhất định.
Cửa hàng nhượng quyền thương mại: Đây là một hình thức mới mẻ, nó bắt đầu
xuất hiện tại Mỹ từ đầu thế kỷ 20 và ngày càng phát triển mạnh mẽ. Cửa hàng này
thường được kí hợp đồng để được nhượng quyền kinh doanh một loại hàng hoá dịch vụ
nhất định từ nhà sản xuất. Các cửa hàng nhượng quyền là các cửa hàng có vốn sẵn và
địa điểm kinh doanh. Các cửa hàng này kinh doanh dựa vào thương hiệu của một hãng
đã nổi tiếng trên thị trường. Ngoài ra, các cửa hàng này cũng nhận được sự tư vấn, cung
cấp bí quyết về marketing, tổ chức quản lý, đào tạo nguồn nhân lực...từ đơn vị trao
quyền kinh doanh. Để đổi được điều đó, thì ngoài số tiền đóng lúc đầu ,các cửa hàng
còn phải đóng thêm một khoản phí nhất định.
Cửa hàng chuyên doanh: Đây là hình cửa hàng kinh doanh chuyên sâu. Nó chỉ cung
cấp một hay một nhóm hàng hoá nhất định hay chỉ phục vụ một nhóm người tiêu dùng
nhất định. Ví dụ:cửa hàng chuyên doanh có thể là cửa hàng chỉ bán một loại hàng hoá
như quần áo, giày dép...hay một nhóm sản phẩm như hàng tươi sống, hàng đông lạnh;
cửa hàng chuyên bán hàng cho trẻ em, người già...
Cửa hàng giảm giá, hạ giá: Cửa hàng này bán các loại hàng hoá với giá thấp hơn
với giá bán lẻ theo yêu cầu của người sản xuất hoặc tính chất của sản phẩm.
Cửa hàng kho: Cửa hàng này mang tính chất như một kho hàng. Các cửa hàng này
thường không trưng bày hàng hoá, không quảng cáo tận dụng được diện tích và chi phí.
Cửa hàng bán và giới thiệu sản phẩm: Cửa hàng thuộc sở hữu của người sản xuất.
Đây là kênh phân phối của trực tiếp của người sản xuất tới người tiêu dùng.
- Bán lẻ không qua cửa hàng: Theo đó các tổ chức và cá nhân bán lẻ không cần
thiết phải có một địa điểm bán hang cố định. Người ta có thể bán hàng tận nhà bán hàng
qua bưu điện, bán hàng qua mạng…
- Bán lẻ dịch vụ: Tức là, ở đây hàng hoá là dịch vụ chứ không phải là hàng hoá đơn
thuân. Các loại hình bán lẻ dịch vụ như: cho thuê phòng ở, giặt là, cho thuê phương
tiện…
Mặc dù, các cửa hàng bán lẻ vẫn còn phổ biến nhưng cùng với sự phát triển của
cuộc sống thì các loại hình bán lẻ không qua cửa hàng và bán lẻ dịch vụ cũng ngày càng

phổ biến hơn. Do sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, công nghệ viễn thông đặc biệt
là mạng internet thì hiện nay hoạt động thương mại điện tử (giới thiệu, bán hàng và
thanh toán qua mạng) đang rất phát triển. Đồng thời, thu nhập của người tiêu dùng tăng
lên dẫn tới nhu cầu di lại, nghỉ ngơi, ăn uống ... tăng lên kéo theo các loại hình dịch vụ
tăng lên không ngừng.
1.1.4. Vai trò của hoạt động bán lẻ:
Khi hoạt động bán lẻ phát triển tốt, lành mạnh thì nhờ đó sản xuất tăng, phục vụ
được nhu cầu của người tiêu dùng và góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Hoạt động bán lẻ có vai trò điều tiết hàng hoá. Nó điều tiết hàng hoá từ nơi sản xuất
tới người tiêu dùng. Nó điều tiết hàng hoá ở tất cả các vùng miền từ thành phố, nông
thôn, vùng sâu vùng xa bất kể nơi đâu có nhu cầu. Hoạt động bán lẻ phát triển nó đảm
bảo cung cấp hàng hoá công bằng cho mọi người dân trên khắp các vùng trên cả nước.
Do vậy, hoạt động bán lẻ cũng có vai trò góp phần vào việc giảm khoảng cách giàu
nghèo giữa các khu vực.
Cơ cấu thương mại có những biến đổi sâu sắc khi mà hoạt động bán lẻ phát triển.
Khi đó thị trường ngày càng lành mạnh, cạnh tranh hiệu quả hơn.
Sự phát triển của hoạt động bán lẻ cũng tăng cường khả năng tự điều tiết ít chịu ảnh
hưởng của Nhà nước của thị trường hơn. Khi hoạt động bán lẻ phát triển tức là hàng
hoá phong phú và với nhiều nhà phân phối cộng với các quy định cạnh tranh lành mạnh
thì chắc chắn người tiêu dùng sẽ nhận được những hàng hoá tốt nhất với giá cả hợp lý
nhất.
Trong nền sản xuất hàng hoá kinh tế thị trường có xuất hiện mâu thuẫn cơ bản giữa
một nền sản xuất hàng hoá lớn và nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng. Sở dĩ có mâu
thuẫn đó là do vô số người tiêu dùng khác nhau lại có những nhu cầu, sở thích khác
nhau. Khi xã hội càng phát triển thì sự đa dạng của những nhu cầu này ngày càng tăng.
Trong khi đó các doanh nghiệp phải tăng quy mô sản xuất để tối đa hoá lợi nhuận. Và
hoạt động bán lẻ có vai trò giải quyết được mâu thuẫn cơ bản đó.
1.1.5. Chức năng của hoạt động bán lẻ:
Hoạt động bán lẻ có rất nhiều chức năng. Nhưng các chức năng chính của bán lẻ là
mua, bán, vận chuyển, lưu kho, phân loại, tài chính, chịu rủi ro và thông tin thị trường.

- Chức năng cơ bản nhất của hoạt động bán lẻ là chức năng mua và bán: Chức năng
mua tức là tìm kiếm, đánh giá, so sánh giá trị các loại hàng hoá dịch vụ. Chức năng bán
là tiêu thụ, phân phối các loại sản phẩm này. Lợi nhuận của các nhà bán lẻ chính là nhờ
vào sự chênh lệch giữa giá hàng hoá bán ra và mua vào. Do đó để tối đa hoá lợi nhuận
các nhà bán lẻ cố gắng mua hàng với giá rẻ và bán ra với số lượng lớn và giá cao.
- Chức năng cung cấp tài chính: Chức năng này thể hiện ở việc các nhà bán lẻ cung
cấp tài chính tín dụng cần thiết cho một hoạt động sản xuất hàng hoá nào đó. Có thể nhà
bán lẻ cung cấp tài chính trước một phần để nhà sản xuất. Việc thực hiện chức năng này
tuỳ thuộc vào khả năng tài chính của nhà bán lẻ và mối quan hệ giữa nhà bán lẻ và nhà
sản xuất.
- Chức năng thông tin: Chức năng thông tin của hoạt động bán lẻ được thể hiện ở
hai chiều. Thông qua các hoạt động quảng bá, marketing của các nhà bán lẻ thì các
thông tin về sản phẩm được giới thiệu tới người tiêu dùng. Đồng thời, qua hoạt động
bán lẻ các nhà bán lẻ là người tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng. Họ là những người
hiểu rõ nhu cầu, thị hiếu, thu nhập của người tiêu dùng nhất. Qua đó, nhà bán lẻ sẽ cung
cấp những thông tin phản hồi tới nhà sản xuất để nhà sản xuất có thể điều chỉnh sản
xuất để đưa ra những sản phẩm tốt nhất, phù hợp nhất với nhu cầu của người tiêu dùng.
- Chức năng vận tải: dựa vào việc mua bán hàng hoá của nhà sản xuất để bán cho
người tiêu dùng thì nhà bán lẻ có thể tự mình thực hiện chức năng vận tải hàng hoá
trong hệ thống phân phối của mình.
- Chức năng phân loại và tiêu chuẩn hoá các loại hàng hoá: Người tiêu dùng có nhu
cầu, thu nhập rất đa dạng. Người tiêu dùng ở nông thôn có thu nhập khác với người tiêu
dùng ở thành thị. Người trẻ có yêu cầu về mẫu mã chất lượng hàng hoá khác với người
già. Hoạt động bán lẻ đã thực hiện chức năng sắp xếp, phân loại số lượng hàng hoá gần
nhất với nhu cầu của người tiêu dùng. Tiêu chuẩn hoá là công việc tìm kiếm những sản
phẩm đồng nhất giữa các nhà sản xuất có thể thay thế cho nhau.
- Chức năng lưu kho, bảo quản sản phẩm: Đối với mọi hàng hoá đều có thời hạn sử
dụng và điều kiện bảo quản nhất định. Chức năng này của hoạt động bán lẻ là đảm bảo
hàng hoá đảm bảo chất lượng nguyên gốc nhất có thể khi đến tay người tiêu dùng.
Thước đo của chức năng này là khả năng đảm bảo sự ăn khớp về thời gian giữa sản

xuất và tiêu dùng.
- Chức năng chia sẻ rủi ro: Mức độ chia sẻ rủi ro tuỳ thuộc vào mối quan hệ giữa
nhà bán lẻ và nhà sản xuất. Nếu như nhà sản xuất tự phân phối hàng hoá của mình thì
sự chia sẻ rủi ro bằng không. Nếu như nhà bán lẻ mua đứt hàng hoá của nhà sản xuất thì
sau đó họ sẽ tự chịu trách nhiệm về bảo hành, vận chuyển hàng hoá cho khách hàng.
Khi đó rủi ro đối với nhà sản xuất đã được chuyển tới nhà bán lẻ tại thời điểm bán xong
sản phẩm đó. Trong trường hợp các nhà sản xuất gửi bán sản phẩm, hay nhà bán lẻ là
đại lý hoa hồng, tiêu thụ cho nhà sản xuất thì rủi ro được chia sẻ đối với cả người sản
xuất và bán lẻ đến khi bán, bảo hành xong sản phẩm.
- Một số chức năng khác: Các nhà bán lẻ như các siêu thị hiện đại còn thực hiện
chức năng chế biến nhất đối với hàng thực phẩm. Ngoài ra, các nhà bán lẻ còn thực
hiện các công việc khác như đóng gói, gắn nhãn mác...
Tóm lại, hoạt động bán lẻ có vai trò, chức năng vô cùng quan trọng. Nó được coi là
một mắt xích không thể thiếu của quá trình tái sản xuất mở rộng đảm bảo cho quá trình
này thông suốt từ đó đem lại hiệu quả kinh tế xã hội.
1.1.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển tới thị trường bán lẻ:
+ Các chính sách của Nhà nước: Đây là yếu tố có tác động quyết định tới sự hình
thành và phương thức hoạt động của thị trường bán lẻ. Các phương thức hoạt động của
thị trường bán lẻ như: phân phối kế hoạch hoá; tự do buôn bán hay hoạt động theo cơ
chế thị trường có quản lý... Các chính sách của Nhà nước thông qua các văn bản pháp
luật sẽ quyết định phương thức hoạt động của thị trường bán lẻ. Hiện nay, chính sách
của Nhà nước Việt Nam là thị trường bán lẻ phát triển theo kiểu kinh tế thị trường có
quản lý. Chính sách của Nhà nước cũng thể hiện định hướng, chiến lược phát triển thị
trường bán lẻ theo từng nhóm hàng; nhóm đối tượng ... tham gia vào thị trường. Ví dụ
như tại Việt Nam các chính sách liên quan tới thị trường bán lẻ đều có những quy định
hạn chế tiêu dùng những mặt hàng cao cấp hay hỗ trợ và phát triển các doanh nghiệp,
cơ sở bán lẻ trong nước.
Các chính sách của Nhà nước còn có vai trò trong việc tạo ra môi trường cạnh
tranh giữa các nhóm đối tượng tham gia vào thị trường bán lẻ. Các thị trường bán lẻ
càng phát triển thị các chính sách của Nhà nước càng có xu hướng thông thoáng và tạo

ra môi trường kinh doanh công bằng hơn. Ngoài ra, các chính sách của Nhà nước cũng
thể hiện mức độ can thiệp của vào các hoạt động kinh doanh thương mại.
+ Các yếu tố kinh tế: Đối với thị trường bán lẻ thì các yếu tố kinh tế được hiểu là
tổng cung và cầu về hàng hoá dịch vụ bán lẻ. Một số yếu tố kinh tế có liên quan tới thị
trường bán lẻ:
Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế: thể hiện mức độ gia tăng lượng hàng hoá dịch
vụ cung ứng trên thị trường bán lẻ.
Lạm phát: tác động giá cả hàng hoá.
Tình hình thu hút vốn FDI: thể hiện lượng vốn, sức cạnh tranh trên thị trường bán
lẻ.
...
+ Dân cư (người tiêu dùng): Đây là yếu tố tác động tới sự sống còn của thị trường
bán lẻ. Thị trường bán lẻ được coi là thị trường trung gian giữa các nhà sản xuất cung
ứng với người tiêu dùng. Do vậy, sức mua thị hiếu mua sắm của người tiêu dùng là yếu
tố định hướng sự phát triển của thị trường. Rõ ràng, nơi có mật độ dân cư đông thì
trường bán lẻ sẽ phát triển thuận lợi hơn nơi có mật độ dân cư thưa. Nơi người dân giàu
có, mức chi tiêu lớn thị trường bán lẻ sẽ phát triển hơn nơi dân cư nghèo đói, mức chi
tiêu nhỏ bé.
+ Cơ sở hạ tầng: các yếu tó về cơ sở hạ tầng có liên quan sản xuất kinh doanh trong
hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, tập thể, cá nhân tham gia thị trường bán lẻ.
Sự phát triển của cơ sở hạ tầng góp phần to lớn vào sự phát triển của thị trường bán lẻ.
Cơ sở hạ tầng của nền kinh tế liên quan tới sự phát triển của thị trường bán lẻ bao gồm
một số yếu tố sau:
Trình độ hiện đại của hệ thống giao thông đường xá, bến bãi, thông tin liên lạc...
Chi phí vận chuyển bảo quản hàng hoá.
Chi phí xây mới thuê, mua mặt bằng kinh doanh.
+ Yếu tố khoa học kỹ thuật: Các yếu tố khoa học kỹ thuật quyết định và chi phối
việc ứng dụng KH&KT trên thị trường; quyết định sự ra đời của sản phẩm mới, hình
thành phương thức kinh doanh mới, ảnh hưởng tới nhu cầu tiêu dùng của người dân.
Một số yếu tố KH& KT tác động đến thị trường bán lẻ:

Trình độ trang thiết bị, cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế.
Mức độ đầu tư khoa học công nghệ và tốc độ triển khai của ứng dụng mới trên nền
kinh tế.
Chiến lược phát triển khoa học kỹ thuật của quốc gia.
1.2. Thị trường bán lẻ Việt Nam theo các cam kết gia nhập WTO:
1.2.1. Các cam kết trong WTO của Việt Nam về mở cửa thị trường bán lẻ:
Trong cam kết WTO, Việt Nam cam kết mở cửa lĩnh vực dịch vụ trong đó ngành
dịch vụ phân phối hàng hóa được thương lượng rất kỹ. Quá trình mở cửa thị trường
phân phối hàng hóa gồm 3 giai đoạn cơ bản
1
:
Giai đoạn 1: Hiện nay các doanh nghiệp nước ngoài muốn tham gia cung cấp dịch
vụ phân phối hàng hóa sẽ phải liên doanh với các doanh nghiệp của Việt Nam. Sau khi
Việt Nam gia nhập WTO, phần vốn góp của nước ngoài sẽ bị giới hạn ở mức tối đa là
49%.
Giai đoạn 2: 1/1/2008. Tỷ lệ góp vốn 49 % sẽ được dỡ bỏ. Các công ty có vốn đầu
tư nước ngoài được phép làm đại lý, là nhà bán buôn và kinh doanh bán lẻ tất cả các
mặt hàng nhập khẩu hợp pháp và các sản phẩm trong nước theo quy định của pháp luật,
ngoại trừ xi măng và clinker, lốp (bào gồm cả lốp máy bay), sản phẩm giấy, các loại
máy kéo, xe tải, xe con và xe máy, sắt và thép, thiết bị nghe nhìn, rượu các sản phẩm có
cồn, phân bón.
Giai đoạn 3: Tại thời điểm 1/1/2009, các công ty có vốn đầu tư nước ngoài sẽ được
phép tham gia làm đại lý, kinh doanh bán buôn và bán lẻ các loại sản phẩm: máy kéo,
1
xe tải, xe con và xe máy. Sau 3 năm tính từ thời điểm Việt Nam gia nhập WTO, tất cả
những hạn chế trên sẽ được dỡ bỏ. Việc thành lập các đại lý cung cấp dịch vụ bán lẻ sẽ
được cho phép trên cơ sở “xem xét nhu cầu nền kinh tế”.
1.2.2. Cơ hội và thách thức khi gia nhập WTO của thị trường bán lẻ Việt Nam:
Thông qua những phân tích và dự đoán ở trên, dưới đây đề tài xin tóm tắt lại những
cơ hội và thách thức đối với thị trường bán lẻ Việt Nam khi gia nhập WTO:

Cơ hội: Đây là một thời điểm thị trường bán lẻ Việt Nam phát triển có rất nhiều cơ
hội để phát triển:
- Các chính sách của Việt Nam ngày càng minh bạch hoá: Các chính sách luật pháp
luôn được coi là yếu tố bản lề, định hướng phát triển cho thị trường bán lẻ. Với các cam
kết gia nhập WTO, thì các chính sách về kinh tế nói chung và thương mại nói riêng sẽ
đảm bảo sự tương thích nhất định với luật pháp quốc tế. Đồng thời, chính sách cũng
được phổ biến rộng rãi cho toàn bộ các doanh nghiệp. Theo cam kết gia nhập WTO có
rất nhiều các ngành khi quy định các chính sách luật pháp liên quan phải công khai phổ
biến và lấy ý kiến của người dân. Như vậy, người dân và cộng đồng các doanh nghiệp
có thể tiếp cận với nguồn luật một cách dễ dàng. Hơn thế nữa, họ còn có thể đóng góp ý
kiến để xây dựng các chính sách này. Từ đó, các chính sách luật pháp này sẽ đảm bảo
được tính chính xác, khách quan tránh sự duy ý chí của những người xây dựng luật như
trước kia. Ngoài ra, các chính sách luật pháp của Việt Nam sẽ phải đảm bảo được sự
ổn định nhất định, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể yên tâm kinh doanh hơn.
- Kéo theo sự minh bạch và ổn định của các chính sách pháp luật thì các thủ tục
hành chính sẽ được tối giản và hiệu quả: Thực tế hiện nay thì các thủ tục hành chính
cũng đã được đơn giản hơn trước. Nhiều tỉnh, thành phố đã thực hiện có chế “một cửa,
một dấu” tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân. Khi Việt Nam gia
nhập WTO thì các thủ tục này sẽ ngày càng tối giản hơn. Một mặt là do các cam kết gia
nhập. Một mặt là do để thu hút được nguồn vốn nước ngoài nhiều hơn nữa thì một
trong những biện pháp là giảm các thủ tục hành chính.
- Hệ thống cơ sở hạ tầng ( kho, bãi, đường, cảng...) phát triển: Khi gia nhập WTO
thì Việt Nam sẽ tăng cường thu hút được nhiều vốn đầu tư để phát triển cơ sở hạ tầng
và phát triển sản xuất ,qua đó thúc đẩy phát triển thị trường bán lẻ.
- Các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam có cơ hội để tiếp thu những tri thức công nghệ
tiên tiến để phát triển phương thức kinh doanh hiện đại, góp phần đào tạo một đội ngũ
cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh năng động.
Chính sức ép cạnh tranh trên thị trường là cơ hội để các doanh nghiệp có thể học
tập từ những đối thủ cạnh tranh và đổi mới chính mình.
- Ngoài ra, khi gia nhập WTO thì các hàng hoá tràn vào Việt Nam sẽ rẻ hơn, phong

phú đa dạng do cam kết giảm thuế, do cơ hội để xâm nhập thị trường Việt Nam dễ dàng
hơn. Các dịch vụ ngân hàng, tài chính thanh toán sẽ trở nên thuận tiện, phát triển hơn.
Do đời sống phát triển nên nhu cầu của người dân tăng lên… Những điều đó cũng góp
phần thúc đẩy thị trường bán lẻ Việt Nam phát triển.
Thực tiễn cho thấy, thị trường bán lẻ Việt Nam đã phát triển rất nhanh chóng từ khi
Chính phủ thực hiện chủ trương mở cửa và hội nhập nền kinh tế quốc tế. Nhiều phương
thức bán lẻ đặc biệt là các siêu thị đã phát triển rộng khắp, phổ biến tại hầu hết các tỉnh,
thành phố. Các sàn giao dịch hàng hoá đang dần xuất hiện và có cơ hội để phát triển...
Rõ ràng, cùng với hội nhập kinh tế quốc tế mà dấu mốc là sự kiện gia nhập WTO thì thị
trường bán lẻ Việt Nam có rất nhiều cơ hội để tiếp cận với những thành tựu về kinh tế,
khoa học, phương thức quản lý của nền kinh tế thế giới.
Thách thức:
- Thách thức lớn nhất của thị trường bán lẻ vẫn là nguy cơ chiếm lĩnh thị trường
của các tập đoàn bán lẻ ngoài nhập.
Khả năng này có rất nhiều cơ sở. Các công ty đa quốc gia đang trở thành một lực
lượng quan trọng của nền sản xuất thế giới. Các công ty này chi phối gần 50% sản
lượng công nghiệp sản xuất ra hàng năm trên thế giới, từ 50 đến 60 % tổng kim ngạch
mậu dịch, 90 % giá trị đầu tư trực tiếp và chuyển giao công nghệ. Các tập đoàn này
trong đó có các tập đoàn bán lẻ sẽ không bỏ lỡ cơ hội này để xâm nhập thị trường Việt
Nam.
Thực tế hiện nay mặc dù có chưa nhiều ở Việt Nam song hầu hết các tập đoàn bán
lẻ nước ngoài đều lấn lướt các doanh nghiệp trong nước. Họ mạnh về mặt tài chính,
quản lý đặc biệt hơn hẳn trong khâu marketing tiếp cận hình ảnh tới người tiêu dùng.
Trong khi đó, các doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều mặt hạn chế. Cơ sở vật chất kỹ
thuật về tài chính, nguồn nhân lực, kỹ năng ngoại ngữ, kỹ năng quản lý, khả năng nắm
bắt thông tin còn yếu kém. Đặc biệt là khả năng thích ứng trước sự thay đổi của thị
trường của các doanh nghiệp bán lẻ là chưa cao. Vậy trong một vài năm tới, khi các tập
đoàn nước ngoài tràn vào Việt Nam thì sự chi phối thị trường là có thể tiên đoán.
- Sự cạnh tranh trên thị trường sẽ ngày càng gay gắt hơn.
Sự cạnh tranh sẽ không chỉ gay gắt giữa các nhà bán lẻ trong nước và các nhà bán

lẻ nước ngoài. Mà sự cạnh tranh còn xuất phát giữa các nhà bán lẻ trong nước với nhau,
giữa các hộ gia đình kinh doanh với các doanh nghiệp, giữa phương thức kinh doanh
truyền thống và hiện đại. Khi đó, vai trò của Chính phủ sẽ là vô cùng quan trọng đólà
phải tạo ra được một môi trường cạnh tranh lành mạnh cho tất cả chủ thể, phương thức
bán lẻ trên thị trường.
- Khi hàng hoá tràn vào Việt Nam với giá rẻ vừa là cơ hội vừa là thách thức.Thách
thức ở chỗ nếu hàng hoá quá rẻ thì hàng hoá Việt Nam sẽ mất dần thị phần các siêu thị,
trung tâm mua sắm. Khi đó nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường nên các doanh
nghiệp bán lẻ Việt Nam vì lợi nhuận nên dù muốn nhưng không thể nhập, bán hàng của
các doanh nghiệp sản xuất trong nước nếu giá quá cao. Như vậy, không chỉ các doanh
nghiệp bán lẻ mà các doanh nghiệp sản xuất cũng có nguy cơ bị thua ngay trên “sân
nhà”.
1.2.3. Yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế đối với sự phát triển của thị trường bán
lẻ:
Trong những năm vừa qua nền kinh tế Việt Nam đã có nhiều thay đổi sâu sắc. Nền
kinh tế chuyển từ nền kinh tế quan liêu bao cấp kế hoạch hoá sang nền kinh tế thị
trường. Nền kinh tế từ chỗ chỉ quan hệ thương mại với một số nước tới nay Việt Nam
đã có quan hệ buôn bán với hầu hết với các quốc gia trên thế giới. Dấu mốc của sự thay
đổi đó chính là sự kiện Việt Nam chính thức là thành viên của tổ chức thương mại Thế
giới năm 2007.

×