Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

NHỮNG KHÓ KHĂN THUẬN LỢI CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CẮT GIẢM THUẾ QUAN HỘI NHẬP AFTA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.11 KB, 36 trang )

NHỮNG KHÓ KHĂN THUẬN LỢI CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT
NAM TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CẮT GIẢM THUẾ
QUAN HỘI NHẬP AFTA
1.1. CÁC NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CEPT/AFTA
Trong tất các chương trình hợp tác kinh tế - thương mại của khối ASEAN thì Hiệp
định về thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (Common Effective Preferetial Tariff -
CEPT) đóng vai trò quan trọng nhất, nhằm biến ASEAN thành Khu vực mậu dịch
tự do (ASEAN Free Trade Area - AFTA), nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa
ASEAN trên thị trường quốc tế và tạo ra sức cuốn hút đối với đầu tư nước ngoài.
Chính vì vậy, tại Hội nghị thượng đỉnh lần thứ tư tại Xingapo, ngày 28/1/1992,
nguyên thủ các nước ASEAN đã thông nhất thông qua CEPT và chương trình này
bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/1/1993, ban đầu dự định thực hiện trong 15 năm,
nhưng trước tình hình thưong mại quốc tế có nhiều thay đổi, Hội nghị Bộ trưởng
ASEAN tại Chiêng Mai (Thái Lan) diễn ra vào tháng 9/1993 đã quyết định rút
ngắn thời gian thực hiện CEPT xuống còn 10 năm tức là đến năm 2003 và sau Hội
nghị Thượng đỉnh lầu sáu tịa Hà Nội, mốc thời gian này được ấn định là 1/1/2002
cho ASEAN - 6. Các nội dung chủ yếu của CEPT về cơ bản bao gồm các nội dung
sau:
1.1.1. Nội dung về loại bỏ hàng rào thuế quan:
Hiệp định CEPT thực chất là chương trình cắt giảm thuế quan chung xuống mức
0% - 5% trong buôn bán trao đổi hàng hóa giữa các nước thành viên ASEAN với
nhau. Đây là công cụ chỉ đạo thực hiện AFTA với nội dung và lộ trình cắt giảm
thuế và loại bỏ hàng rào phi thuế quan của từng danh mục như sau:
a) Danh mục cắt giảm ngay (IL): Các sản phẩm theo danh mục này được các nước
thành viên nhất trí chia thành 2 lộ trình cắt giảm:
+ Lộ trình cắt giảm thuế nhanh: bao gồm các danh mục hàng hóa đang chịu
thuế suất dưới mức 20% sẽ được cắt giảm xuống 0% - 5% kể từ ngày 1/1/1998,
bao gồm 15 nhóm mặt hàng chiếm khoảng 40% thương mại trong khối. Các sản
phẩm có thuế suất trên 20% được giảm xuống dưới 5% kể từ 1/1/2000.
+ Lộ trình cắt giảm bình thường: Các nhóm hàng còn lại có mức thuế bằng hoặc
dưới 20% sẽ cắt giảm xuống còn 0% - 5% cho đến ngày 1/1/2002 đối với


ASEAN - 6. Riêng đối với Việt Nam, thời hạn này là ngày 1/1/2006, cho Lào,
Mianma là 1/1/2008 và ngày 1/1/2010 cho Campuchia. Các mặt hàng có thuế
suất trên 20% được giảm xuống 20% kể từ 1/1/1998 và sẽ được tiếp tục giảm
xuống 0-5% vào 1/1/2003.
b) Danh mục loại trừ tạm thời chưa giảm thuế (TEL): Danh mục Loại trừ Tạm thời
(TEL) bao gồm những mặt hàng chưa đưa vào giảm thuế quan ngay do các
nước thành viên ASEAN phải dành thêm thời gian để điều chỉnh sản xuất trong
nước thích nghi với môi trường cạnh tranh quốc tế gia tăng.
Sau 3 năm kể từ khi bắt đầu tham gia Chương trỡnh CEPT, cỏc nước ASEAN phải
bắt đầu chuyển dần các mặt hàng từ TEL sang IL, tức là bắt dầu giảm thuế quan
dối với các mặt hàng này. Quá trỡnh chuyển rờ TEL sang IL đuợc phép kéo dài
trong 5 năm, mỗi năm phải chuyển đuợc 20% số mặt hàng Điều đó có nghia là đến
hết năm thứ tám thỡ IL đó mở rộng ra bao trựm toàn bộ TEL và TEL khụng cũn
tồn tại.
Khi đua mỗi mặt hàng vào IL, các nước đồng thời phải chỉ ra lịch trỡnh giảm thuế
quan của mặt hàng đó cho đến khi hoàn thành Chương trỡnh CEPT.
Lấy ví dụ: Khi tham gia Chương trỡnh CEPT vào năm 1993, IL của nước A bao
gồm 50 mặt hàng, TEL của nước này có 100 mặt hàng. Từ năm 1996 nuớc A phải
bắt đầu chuyển TEL sang IL. Nếu mỗi năm chuyển đều 20% thỡ lăm 1996, ILcủa
nước này có 50 + ( 100 x 20%) = 70 mặt hàng và TEL giám đi cũn 100 - ( 1 00 x
20%) = 80 mặt hàng Năm 1997 IL sẽ là 90 và TEL Sẽ là 60. Ba năm tiếp sau đó,
các con số tương ứng sẽ là 110/40, 130/20 và 150/0. Tức là đến năm 2000, IL của
nước A sẽ bao gồm cả 150 mặt hàng và TEL không cũn mặt hàng nào.
Đối với các nước thành viên mới để có một thời gian cần thiết thích ứng, Hiệp định
CEPT cho phép các nước thành viên này được đưa ra một số sản phẩm tạm thời
chưa thực hiện tiến trình giảm thuế theo quy định của CEPT.
c) Danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL): là danh mục các sản phẩm hàng hóa không
tham gia Hiệp định CEPT do đó không được đưa vào AFTA vì lý do ảnh hưởng
đến an ninh quốc gia, đạo đức xã hội, cuộc sống sức khỏe của con người, đến
việc bảo tồn các giá trị văn hóa, nghệ thuật, di tich lịch sử, khảo cổ.

d) Danh mục nhạy cảm và danh mục nhạy cảm cao (SL): Danh mục Nhạy cảm (SL)
bao gồm những mặt hàng nông sản chưa chế biến mà việc cắt giảm thuế quan
có thể gây tác động lớn đến sản xuất, đời sống trong nước.
Các mặt hàng trong SL được dành một khung thời gian dài hơn trong việc cắt giảm
thuế quan, đến năm 2010 mới phải đưa thuế suất các mặt hàng này xuống 0 - 5%
Bên cạnh đó, các mặt hàng này cũng có những quy định riêng về thuế suất khi bắt
đầu cắt giảm thuế quan, các biện pháp tự vệ.
Tương tự như vậy, các mặt hàng trong Danh mục Nhạy cảm cao được dành một
khung thời gian dài hơn nữa. Các nước ASEAN cũn đang đàm phán về những chi
tiết của hai danh mục này.
Xuất phát từ thực tế về vai trò của hàng nông sản chưa chế biến đối với phần lớn
các nước ASEAN, có số lượng các nhóm mặt hàng lớn, thuế quan nhập khẩu cao
được các nước áp dụng đối với những mặt hàng này, tại Hội nghị AEM -
26/9/1994, các Bộ trưởng kinh tế đã quyết định đưa nông sản chưa chế biến vào
phạm vi của hiệp định CEPT theo ba loại danh mục khác nhau là: danh mục giảm
thuế, danh mục loại trù tạm thời và danh mục các sản phẩm nông sản chưa chế
biến nhạy cảm để thực hiện AFTA.
Cơ chế trao đổi nhượng bộ của Hiệp định CEPT:
Những nhượng bộ khi thực hiện CEPT của các quốc gia được trao đổi trên nguyên
tắc có đi có lại. Muốn được hưởng nhượng bộ về thuế quan khi xuất khẩu hàng hóa
trong khối, một sản phẩm cần có các điều kiện sau:
a) Sản phẩm đó phải nằm trong danh mục cắt giảm thuế của cẩ nước xuất khẩu và
nước nhập khẩu và phải có mức thuế quan (nhập khẩu) bằng hoặc thấp hơn
20%;
b) Sản phẩm đó phải có chương trình giảm thuế được Hội đồng AFTA thông qua;
A + B X 100% = T% Giá FOB
c) Sản phẩm đó phải là một sản phẩm của khối ASEAN, tức là phải thỏa mãn yêu
cầu hàm lượng xuất xứ từ các nước thành viên ASEAN (hàm lượng nội địa) ít
nhất là 40%.
Công thức 40% hàm lượng ASEAN như sau:

(T phải < 60%)
Trong đó:
A là giá trị đầu vào của nguyên vật liệu, bộ phận hay sản phẩm nhập khẩu từ các
nước ngoài khối ASEAN, tính theo giá CIF ở thời điểm nhập khẩu.
B là giá trị đầu vào của nguyên vật liệu, bộ phận hay sản phẩm không xác định
xuất xứ, thính theo giá xác định trước khi đưa vào chế biến trên lãnh thổ các nước
thành viên ASEAN.
1.1.2. Nội dung loại bỏ các hàng rào phi thuế quan (Non Tariff Barriers -
NTBs) và các hạn chế định lượng (Quantitative Restriction - QR)
Để tiến tới hoàn thành AFTA, Điều 5 của Hiệp định CEPT còn xác định mục tiêu
loại bỏ các hàng rào phi thuế quan và các hạn chế số lượng, hạn ngạch nhập khẩu,
giấy phép nhập khẩu có tác dụng hạn chế định lượng... trong vòng 5 năm sau khi
một sản phẩm được hưởng ưu đãi thuế quan.
Với mục tiêu được đưa ra theo Hiệp định, năm 1995 các nước ASEAN đã thành
lập Nhóm công tác về vấn đề các hàng rào phi thuế quan để xác định và xây dựng
chương trình hủy bỏ các hàng rào phi thuế quan ảnh hưởng đến thương mại khu
vực. Dựa trên kết quả làm việc của Nhòm công tác, các nước đã xác định nhiều
biện pháp ảnh hưởng rộng và chủ yếu đối với thương mại hàng hóa trong khu vực
ASEAN là phụ thu hải quan và các hàng rào cản trở thương mại (TBT). Trên cơ sở
đó, tại phiên họp Hội đồng AFTA lần thứ tám, các nước ASEAN đã thống nhất
quyết định thời hạn loại bỏ các hàng rào cản trở thương mại là hết năm 2003.
1.2. CAM KẾT CỦA VIỆT NAM TRONG VIỆC THỰC HIỆN CẮT
GIẢM THUẾ THAM GIA KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO ASEAN
1.2.1. Tiến trình thực hiện AFTA của các nước ASEAN
Sáu nước thành viên cũ của ASEAN (Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines,
Singapore và Thái Lan) bắt đầu thực hiện các nghĩa vụ tham gia AFTA từ
01/01/1993 và sẽ hoàn thành vào 01/01/2003. Đến năm 2000, 6 nước này đã hoàn
thành việc cắt giảm thuế xuất nhập khẩu của 85% số dòng thuế thực hiện AFTA
xuống mức 0 - 5% và dự kiến đạt 100% số dòng thuế thực hiện AFTA có thuế xuất
nhập khẩu 0 - 5% ngay từ năm 2002, sớm hơn thời hạn cũ 1 năm.

Lào và Myanmar bắt đầu tham gia thực hiện AFTA từ năm 1998 và sẽ hoàn thành
vào năm 2008, Campuchia bắt đầu từ năm 2000 và kết thúc vào năm 2010. Tuy
tham gia thực hiện AFTA muộn song các nước thành viên mới đều nghiêm túc
thực hiện nghĩa vụ và triển khai cam kết cắt giảm thuế quan để thực hiện AFTA, cụ
thể là hàng năm công bố văn bản pháp lý thực hiện AFTA đồng thời xây dựng lộ
trình tổng thể sơ bộ thể hiện nghĩa vụ cắt giảm chính tại các mốc thời gian cơ bản
cho cả giai đoạn 10 năm.
1.2.2. Tiến trình thực hiện AFTA của Việt Nam cho đến nay
Ngày 28 tháng 7 năm 1995, Việt Nam trở thành thành viên chính thức thứ 7 của
Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN ). Sự kiện trọng đại này đánh dấu một
thành cóng to lớn của chính sách đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam, đánh
dấu một bước phát triển mới trong quá trình hội nhập của Việt Nam vào cộng đồng
quốc tế và liên minh kinh tế quốc tế.
Với 10 thành viên và với số dân 500 triệu người, thu nhập bình quân đầu người
hàng năm là 1.680 USD, ASEAN là cửa ngõ của Đông Nam á nơi hội tụ của các
giao lưu kinh tế quốc tế và đang trở thành một khu vực phát triển năng động của
Châu á cũng như trên toàn thế giới.
Sự hội nhập vào nền kinh tế các nước trong khu vực đưa lại những lợi ích kinh tế
to lớn cho cả các nhà sản xuất và người tiêu dùng trong các nước thành viên. Việc
tham gia của Việt Nam vào Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) là một tất
yếu, không những vì Việt Nam là thành viên của ASEAN mà còn do các tác động
tích cực của nó đối với sự phát triển kinh tế của đất nước ta. Việc hội nhập vào
AFTA sẽ tạo điều kiện hình thành những mối quan hệ kinh tế rộng mở hơn giữa
nền kinh tế của Việt Nam với khuôn khổ kinh tế chung của khu vực và thế giới.
Đây chính là cơ hội mới để nền kinh tế Việt Nam bắt kịp với những xu hướng vận
động chung của khu vực và thế giới, tìm ra tiếng nói chung với cộng đồng quốc tế
mà trước hết là với các nước trong khối mậu dịch tự do AFTA, mở ra một thế vững
vàng hơn trong quan hệ của Việt Nam với các liên minh kinh tế khác, đặc biệt là
với Liên minh Châu âu (EU), với Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), cũng
như với Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và với Diễn đàn kinh tế Châu á -

Thái Bình Dương (APEC).
Hơn nữa, hội nhập vào AFTA còn là điều kiện để Việt Nam đẩy manh quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phấn đầu
đưa Việt Nam thành một nước công nghiệp vào năm 2020.
Sau khi trở thành thành viên của ASEAN, Việt Nam cam kết bắt đầu tham gia thực
hiện AFTA từ 01/01/1996 và sẽ kết thúc vào 01/01/2006 với mục tiêu cuối cùng là
cắt giảm thuế xuất nhập khẩu của tất cả các mặt hàng thực hiện AFTA xuống 0 -
5%.
Hàng năm Chính phủ Việt Nam đều ban hành Nghị định công bố danh mục thực
hiện AFTA cho năm đó. Năm 1997, Chính phủ Việt Nam cũng đã phê duyệt Lịch
trình cắt giảm thuế quan tổng thể thực hiện AFTA giai đoạn 1996 - 2006 của Việt
Nam để làm căn cứ điều chỉnh cơ cấu trong nước và định hướng cho các doanh
nghiệp trong việc xây dựng kế hoạch sản xuất - kinh doanh phù hợp.
Đến thời điểm 31/12/2000, Việt Nam đã chuyển trên 4200 dòng thuế vào thực hiện
AFTA và dự kiến sẽ chuyển tiếp khoảng 1940 dòng thuế còn lại trong Danh mục
loại trừ tạm thời (TEL) vào thực hiện cắt giảm trong 3 năm 2001 - 2003 và đến
năm 2006 sẽ cắt giảm thuế xuất nhập khẩu của toàn bộ các dòng thuế thực hiện
AFTA xuống mức 0 -5%.
Đánh giá tác động của việc gia nhập AFTA của Việt Nam trong 5 năm vừa qua
(1996 - 2000) mặc dù chúng ta đã từng bước thực hiện việc cắt giảm thuế quan cho
4200 dòng thuế tuy nhiên vẫn chưa cho thấy có những thay đổi đáng kể đối với thị
trường xuất khẩu và nhập khẩu của Việt Nam. Tỷ trọng hoạt động thương mại giữa
Việt Nam với các nước thành viên ASEAN hầu như thay đổi rất nhỏ, cơ cấu mặt
hàng xuất nhập khẩu cũng không biến động lớn do những nguyên nhân sau:
Giai đoạn 1996 - 2000 mới bắt đầu đưa vào cắt giảm những mặt hàng mà ta có lợi
thế về xuất khẩu hoặc có nhu cầu nhập khẩu mà trong nước chưa có khả năng sản
xuất được. Những mặt hàng này có mức thuế xuất nhập khẩu thấp, chủ yếu dưới
20% và phần lớn là những nhóm hàng có mức thuế suất 0 - 5%, do vậy việc thực
hiện cắt giảm thuế suất theo AFTA hầu như chưa diễn ra trong thời gian này. Do
vậy, chưa thể có những tác động lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các

doanh nghiệp.
Mặt khác, những mặt hàng quan trọng, được bảo hộ cao, chiếm gần 50% kim
ngạch thương mại của Việt Nam (như rượu bia, xăng dầu, ô tô xe máy, phân bón,
hoá chất...) đang thuộc Danh mục Loại trừ hoàn toàn (GE) và Danh mục Loại trừ
tạm thời (TEL), không phải thực hiện các nghĩa vụ cắt giảm thuế quan cũng như
loại bỏ hàng rào phi quan thuế. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam so với
các nước ASEAN có điểm tương đồng khá rõ nét, cụ thể là nếu Việt Nam có lợi
thế xuất khẩu các mặt hàng nông sản, nguyên liệu thô và một số sản phẩm công
nghiệp nhẹ thì các nước ASEAN cũng có lợi thế này và chính là đối thủ cạnh tranh
thị trường xuất khẩu với Việt Nam.
Thực tế thời gian qua cho thấy ASEAN chưa phải là thị trường xuất khẩu tiềm
năng đối với các mặt hàng truyền thống của Việt Nam, mà hội nhập ASEAN chỉ là
một bước tập dượt chuẩn bị cho Việt Nam bước vào một thi trường rộng lớn.
1.2.3. Lịch trình cắt giảm thuế quan tổng thể giai đoạn 2001-2006 để thực hiện
AFTA của Việt Nam
Sau thời kỳ khủng hoảng tài chính tiền tệ, đặc biệt là từ năm 2000, vấn đề thúc đẩy
nhanh tự do hóa thương mại trong khu vực là một trong những chủ đề đã được thảo
luận tại nhiều cuộc họp ở cấp nguyên thủ quốc gia ASEAN. Các nước thành viên
đều cam kết sẽ đẩy nhanh hơn tiến trình cắt giảm thuế qua và bỏ dần các biện pháp
phi thuế. Tại Hội nghị Hội đồng AFTA lần thứ 13 tổ chức vào tháng 9/1999 tại
Singapore, thực hiện nghĩa vụ của một nước thành viên, Việt Nam cam kết sẽ công
bố Lịch trình cắt giảm thuế quan tổng thể đến năm 2006 để thựchiện AFTA của
mình. Để thực hiện cam kết này, Lịch trình cắt giảm thuế qua tổng thể thực hiện
AFTA giai đoạn 2001 - 2006 của Việt Nam đã được Thủ tướng Chính phủ phê
chuẩn về mặt nguyên tắc tại công văn số 5408/VPCP - TCQT ngày 11/12/2000 của
Văn phòng Chính phủ. Đồng thời căn cứ vào lộ trình này Thủ tướng Chính phủ
đang xem xét để phê chuẩn Nghị định ban hành Danh mục cắt giảm thuế quan thực
hiện AFTA năm 2001.
Theo Lịch trình này từ năm 2001 đến 2006, Việt Nam sẽ thực hiện giảm thuế quan
cho 6210 dòng thuế nhập khẩu trong tổng số 6400 dòng thuế hiện hành, cụ thể như

sau:
 Tiếp tục cắt giảm thuế cho 4200 dòng thuế đã đưa vào thực hiện CEPT từ năm
2000 trở về trước.
 Khoảng 1940 dòng thuế còn lai sẽ thực hiện cắt giảm trong 3 năm 2001-03 theo
lộ trình như sau:
- Năm 2001: khoảng 720 dòng thuế;
- Năm 2002: khoảng 510 dòng thuế;
- Năm 2003: khoảng 710 dòng thuế.
Xem Phụ lục 1 - các nhóm mặt hàng chính chuyển từ TEL vào IL để thựchiện CEPT/AFTA
trong 3 năm 2001 - 2003).
Việc giảm thuế sẽ được thực hiện theo các nguyên tắc sau:
 Toàn bộ các mặt hàng còn lại trong Danh mục Loại trừ tạm thời (TEL) sẽ phải
thực hiện giảm thuế trong 3 năm 2001, 2002 và 2003.
 Mức thuế xuất nhập khẩu của toàn bộ mặt hàng trong danh mục giảm thuế
không được cao hơn 20% kể từ thời điểm 01/01/2001 trở đi.
 Tất cả các biện pháp hạn chế định lượng sẽ phải bỏ ngay khi mặt hàng được
chuyển vào cắt giảm để thực hiện AFTA.
Như vậy có nghĩa là đến năm 2006 có khoảng 95% mặt hàng nhập khẩu từ
ASEAN vào Việt Nam sẽ chỉ còn ở mức thuế suất 0-5% và không bị áp dụng các
biện pháp phi quan thuế.
Trên cơ sở Lịch trình tổng thể đã được Chính phủ thông qua, Bộ Tài chính đã dự
thảo Nghị định ban hành Danh mục thực hiện AFTA năm 2001 với lộ trình cắt
giảm thuế quan của khoảng trên 5000 dòng thuế, trong đó có:
- Khoảng 64% số dòng thuế đạt thuế suất 0-5%
- 35% số dòng thuế đạt thuế suất 0%.
Xem Phụ lục 2 - Tóm tắt một số mặt hàng chính trong Danh mục thực hiện AFTA 20001)
1.2.4. Cải cách về thuế quan của Việt Nam
Để thực hiện cam kết cắt giảm thuế quan, hạn cuối cùng vào năm 2006, Việt
Nam đã từng bước có những cải cách tích cực trong hệ thống thuế xuất nhập
khẩu của mình, dần dần thu hẹp khoảng cách khác biệt với thuế quan của các

nước ASEAN xin được khái quát như sau:
Mở rộng các sắc thuế đánh vào hàng nhập khẩu
Thuế nhập khẩu hiện hành đã được tách riêng thành thuế nhập khẩu và các loại
thuế gián thu. Vấn đề này liên quan trước tiên đến thuế tiêu thụ . đặc biệt. Trước
kia Việt Nam chỉ áp dụng đối với các hàng hóa nhập khẩu một loại thuế duy nhất
là thuế nhập khẩu với mức thuế suất tương đối cao so với các nước khác nhất là đối
với các hàng tiêu dùng, đồ cao cấp. Về thực chất trong thuế nhập khẩu này đã bao
hàm cả thuế tiêu thụ đặc biệt. Do đó khi Việt Nam tiến hành cắt giảm thuế nhập
khẩu thì điều cần thiết phải xem xét và thực hiện là tách loại thuế này ra. Với cải
cải cách thuế này, hàng nhập khẩu hiện nay thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt
phải nộp thuế tiêu thụ đặc biệt khi nhập khẩu.
Thuế tiêu thụ đặc biệt thường đánh vào những mặt hàng không khuyến khích tiêu
dùng, bảo vệ môi trường và bảo đảm tính “công bằng”. Tuy là những mặt hàng
không khuyến khích tiêu dùng nhưng nhu cầu tiêu đùng lại ít thay đổi. Khi hệ số
thay đổi đối với hàng hóa này thấp thì việc tằng mức thuế suất sẽ thúc đẩy không
nhiều tới sự giảm tiêu dùng các sản phẩm chịu thuế. Do đó, các lý thuyết kinh tế
thường cho rằng đánh thuế vào các mặt hàng có sự biến đổi về cầu và cung không
lớn thì chỉ gây ra những tổn thất rất nhỏ đối với nền kinh tế. Lý thuyết nay cho thấy
việc đưa thuế tiêu thụ đặc biệt đánh vào hàng nhập khẩu là hợp lý và có thể là một
nguồn tăng thu ngân sách từ thuế tiêu thụ đặc biệt và bảo hộ đích đáng hàng sản
xuất trong nước.
Sửa đổi thuế Tiêu thụ đặc biệt
Áp đụng thuế suất thuế TTĐB đối với ô tô nội địa ngang bằng ôtô nhập khẩu,
phù hợp với yêu cầu của chế độ đãi ngộ quốc gia đối với hàng hoá nhập khẩu
được ký kết giữa các nước tham gia AFTA. Tuy nhiên vẫn có sự phân biệt thuế
suất đánh vào thuốc lá nhập khẩu và thuốc lá được sản xuất từ nguồn nguyên
liệu trong nước.
Sửa đổi thứ hai của luật thuế TTĐB chủ yếu để hạn chế tiêu dùng các loại hàng
hoá, dịch vụ cao cấp ở Việt Nam. Đó là việc mở rộng phạm vi các .mặt hàng và
dịch vụ chịu thuế TTĐB. Ngoài thuế tiêu thụ đặc biệt đánh vào hàng thuộc diện

chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, hàng nhập khẩu còn. phải chịu các loại thuế gián thu
sau:
- Thuế giá trị gia tăng: đánh vào hàng nhập khẩu trên giá CIF cộng với thuế
nhập khẩu Mặt hàng đã chịu thuế' tiêu thụ đặc biệt khi nhập khẩu không
Phải chịu thuế giá trị gia tăng.
- Thu bổ sung quỹ binh ổn vật giá : áp dụng đối với các mặt hàng xuất nhập
khẩu có giá trị lợi nhuận siêu ngạch .cao để lập quỹ bình ổn vật giá. Quỹ này
được dùng để trợ giá cho các doanh nghiệp sản xuất những mặt hàng xuất
khẩu.
Với cải cách này chúng ta đã có thể giảm thuế xuất nhập khẩu theo cam kết thực
hiện CEPT mà không phải chịu những thay đổi đáng kể về khoản thu ngân sách
cũng như mức độ bảo hộ đối với các ngành sản xuất trong nước.
Giảm số lượng mức thuế xuất nhập khẩu
Một nhược điểm của biểu thuế xuất nhập khẩu hiện nay là có quá nhiều mức thuế
suất dàn trải quá rộng đã được khắc phục phần nào. Trong biểu thuế xuất nhập
khẩu ưu đãi ban hành .theo Nghị Định 1803/1998/ QĐ BTC ngày 11/12/1998, Việt
Nam sử dụng 18 mức thuế vào năm 1997), từ 0% đến 100%, gồm 6174 mặt hàng
chịu thuế. Với mặt hàng trước đây chịu thuế suất cao hơn 60%; những mặt hàng
này có thuế suất cạo chủ yếu do gộp thuế tiêu thụ đặc biệt. Vì vậy, sau khi tiến
hành tách thuế suất hiện hành thành thuế nhập khẩu và thuế tiêu thụ đặc biệt,
chúng ta đã giảm bớt được số lượng các mức thuế cao.
Thực hiện quy luật làm tròn
chúng ta đang tiến hành làm tròn lên hoặc xuống các mức thuế suất trên cơ sở xem
xét kim ngạch xuất nhập khẩu. Với các mặt hàng xuất khẩu hiện nay chúng ta chỉ
côn 13 mức thuế suất khác nhau, từ 0% đến 45%. Với các mặt hàng nhập khẩu,
hiện nay còn 18 mức thuế suất. Nhiều nhất là mức 0% với 1966 mặt hàng chiếm
32% tồng số mặt hàng chịu thuế Không còn mặt hàng nào có thuế suất ở mức 1,
2,3 ,4% :do đã làm tròn xuống 0% hoặc lên 5%. Đây chủ yếu là các nguyên liệu
cần thiết cho sản xuất, thiết bị máy móc mà ta chưa sản xuất được, hoặc sản xuất
quá ít chưa đáp ứng nhu cầu của sản xuất. ở mức từ 6-10% chỉ còn mức 10% với

508 mặt hàng (11% tổng số mặt hàng chịu thuế). Từ mức 11% đến 20% còn hai
mức cơ bản là 15% ( 67 mặt hàng chiếm 1% tổng số các mặt hàng chịu thuê) và
20% (545 mặt hàng chiếm 9% tổng số các mặt hàng chịu thuế). Có 2.8 mặt hàng

×