ĐỀ TÀI:
SỬ DỤNG TRUYỆN KỂ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
GIẢNG DẠY PHẦN “CÔNG DÂN VỚI ĐẠO ĐỨC”
A. ĐẶT VẤN ĐỀ:
1. Lý do viết sáng kiến kinh nghiệm:
Sự bùng nổ của khoa học và công nghệ đã tác động hết sức mạnh mẽ
vào tất cả các ngành, các lĩnh vực trong đời sống xã hội, đặc biệt là giáo dục.
Trong điều kiện các phương pháp và hình thức giáo dục cũ đã không đáp ứng
được yêu cầu ngày càng cao đối với nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực thì việc
đổi mới trong giáo dục cần mang tính cấp thiết.
Việc dạy và học môn giáo dục công dân ở trường THPT đã và đang
được Đảng, Nhà nước và Bộ GD&ĐT, các cấp các ngành, các bậc phụ huynh,
học sinh và đặc biệt là đội ngũ giáo viên trực tiếp giảng dạy rất quan tâm.
Giáo dục, đào tạo con người phát triển toàn diện đức, trí, thể, mỹ đã đặt
ra trong quá khứ, song hiện tại điều đó lại càng cần thiết hơn bao giờ hết.
Đối với môn GDCD, đây là môn học trang bị cho học sinh những kiến
thức phổ thông cơ bản, phù hợp với lứa tuổi học sinh về thế giới quan khoa
học và nhân sinh quan tiến bộ, về các giá trị đạo đức, pháp luật, lối sống. Mặt
khác đây là môn học hình thành và phát triển ở các em những tình cảm, niềm
tin, hành vi và thói quen đạo đức, pháp luật, giúp các em có sự thống nhất cao
giữa ý thức và hành vi.
Nội dung kiến thức phần công dân với đạo đức giúp học sinh hiểu được
đạo đức là gì, phân biệt được đạo đức với pháp luật và phong tục tập quán
trong sự điều chỉnh hành vi của bản thân. Đặc biệt nhân phẩm, danh dự và
hạnh phúc, sẽ giúp học sinh hiểu được ý nghĩa đích thực của cuộc sống, hiểu
được hạnh phúc chân chính của con người là ở chỗ biết gắn lợi ích của mình
với lợi ích của giai cấp, dân tộc, nhân loại và đấu tranh cho sự giải phóng
thực sự của con người.
1
Để cho học sinh thực sự hứng thú với môn học và nội dung bài giảng thì
từ trước đến nay giáo viên đã sử dụng nhiều phương pháp dạy học khác nhau
như thuyết trình, đàm thoại, nêu vấn đề, thảo luận đã thu được những kết
quả nhất định. Để ngày một nâng cao hiệu quả dạy học, việc sưu tầm và sử
dụng các câu chuyện có ý nghĩa giáo dục đạo đức đã trở thành một trong
những biện pháp góp phần đổi mới phương pháp dạy học, để thông qua đó
truyền đạt tri thức cho các em. Những câu chuyện, những tấm gương đạo đức
sinh động sẽ có sức lôi cuốn, thu hút sự chú ý hơn nữa của học sinh đối với
bài giảng vì trong giáo dục đạo đức nêu gương là một hình thức quan trọng.
Bác Hồ đã nói: Một tấm gương sống còn hơn một trăm bài diễn thuyết.
Biện pháp này tạo cho học sinh sự chú ý say mê học tập khả năng thực hành
và đặc biẹt quán triệt sâu sắc nguyên tắc: “Học đi đôi với hành”, “lý luận gắn
liền với thực tiễn”. Qua các bài học rất đa dạng trong sách giáo khoa GDCD
10, các mẩu chuyện sẽ là các tình huống khác nhau để các em lĩnh hội, lồng
ghép tri thức một cách chủ động, tự giác và vận dụng sáng tạo kỹ năng
GDCD vào cuộc sống. Sử dụng các câu chuyện, những tấm gương đạo đức để
dạy học cũng tạo sự đam mê cho học sinh, thay đổi cách sống thụ động, liên
hệ trực tiếp với những hành động của bản thân và xã hội là đúng hay sai, từ
đó giúp các em tránh được những cám dỗ của xã hội. Vận dụng phương pháp
này giáo viên sẽ giúp cho học sinh hiểu được bản chất, vai trò và nội dung
của phần công dân với đạo đức.
Từ lý do trên việc sử dụng các mẩu chuyện, các tấm gương đạo đức để
dạy học phần công dân với đạo đức ở chương trình lớp 10 trở nên phù hợp,
giúp học sinh trở nên chủ động hơn trong học tập góp phần nâng cao hiệu quả
dạy và học môn GDCD.
2. Mục đích: Sử dụng truyện kể nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy
phần “Công dân với đạo đức”
Nhằm mục đích định hướng cho học sinh hiểu được nội dung, tạo tính
hứng thú và nhận thức thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả dạy học, trang bị
2
một cách có hệ thống những tri thức khoa học cơ bản, phổ thông, thiết thực
và hiện đại. Thông qua truyện kể giúp cho học sinh hiểu nội dung lồng ghép
tri thức một cách chủ động tự giác và vận dụng sáng tạo kỹ năng GDCD vào
cuộc sống, liên hệ trực tiếp với những hành động cụ thể như: Có ý thức từ
những việc làm, việc học, việc ứng xử với mọi người xung quanh, biết ủng hộ
cái đúng, cái tiến bộ, b iết đấu tranh chống lại cái sai, lạc hậu bảo thủ, biết kế
thừa và phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc và nhân loại.
Nhận thức đúng đắn và thực hiện đầy đủ nhiệm vụ của môn GDCD sẽ
giúp giáo viên tránh được những sai lầm về nhận thức và hành động trong quá
trình giảng dạy.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. TỔNG QUAN NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN VỀ NHỮNG VẤN
ĐỀ CẦN NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Các câu chuyện phù hợp với nội dung chương trình dạy học môn GDCD
lớp 10 phần công dân với đạo đức.
* Phạm vi nghiên cứu: Các câu chuyện đạo đức phù hợp với chương
trình GDCD lớp 10 phần công dân với đạo đức.
2. Phương pháp nghiên cứu:
- Đề tài này được tiến hành bằng cách sử dụng các phương pháp nghiên
cứu khoa học giáo dục.
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Đọc sách, báo, tạp chí chuyên
ngành về các vấn đề liên quan đến đề tài nhằm thu thập các quan điểm lý luận
dạy học cơ bản, để có cơ sở lý luận nghiên cứu thực tiễn.
- Phương pháp thực tiễn: Sưu tầm các tình huống, chuyện kể trong đời
sống, trong các tài liệu
- Phương pháp so sánh, chọn lọc, phân tích, tổng hợp khái quát hóa.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu:
3
Để đạt được những mục đích trên, đề tài có những nhiệm vụ sau:
- Sưu tầm chọn lọc những câu chuyện đạo đức làm cơ sở cho nghiên cứu
đề tài. Nghiên cứu nội dung chương trình môn GDCD lớp 10 phần công dân
với đạo đức từ đó sử dụng các câu chuyện phù hợp trong từng tiết học.
- Chỉ ra những thuận lợi, khó khăn khi sử dụng các câu chuyện đạo đức
trong dạy học và đề xuất biện pháp khắc phục.
4. Thực trạng việc giảng dạy bộ môn GDCD ở nhà trường hiện nay
* Thuận lợi:
- Đây là xu thế chung của giáo dục Việt Nam nên được sự ủng hộ từ các
cấp, xã hội, phụ huynh, học sinh
- Chương trình môn Giáo dục công dân lớp 10 có nhiều nội dung phù
hợp với phương pháp kể chuyện.
- Về cơ sở vật chất đã có một số đổi mới tạo điều kiện cho giáo viên sử
dụng phương pháp kể chuyện có tranh ảnh minh họa, như phòng CNTT, máy
chiếu.
- Giáo viên được đào tạo và tập huấn thường xuyên về đổi mới phương
pháp dạy học.
- Xã hội hiện nay tạo điều kiện cho con người (GV và HS) có điều kiện
tiếp cận nhiều nguồn thông tin từ nhiều phương tiện khác nhau.
- HS đã tiếp cận với phương pháp dạy học này từ những năm học cấp
dưới, nên khá quen thuộc với giờ học. Ngoài ra một số học sinh có kỹ năng
kể chuyện nên đã hỗ trợ giáo viên tổ chức giờ dạy thành công.
- Sử dụng phương pháp kể chuyện phát huy được tính tích cực, chủ
động, sáng tạo cho học sinh trong giờ học, tạo ra cho không khí giờ học sôi
nổi, học sinh rèn luyện cho mình được tinh thần hỗ trợ, tương tự, hợp tác lẫn
nhau để giải quyết được nội dung của bài học. Qua đây học sinh có cơ hội để
thể hiện năng lực của bản thân và nâng cao năng lực giao tiếp của mình, từ đó
rút ra được kết luận đúng đắn, những cách ứng xử phù hợp, đồng thời giúp
giáo viên giảm bớt thời gian đứng lớp, thuyết trình giảng giải.
4
- Phương pháp kể chuyện dễ kết hợp với các phương tiện và phương
pháp dạy học khác như: tranh ảnh, máy chiếu, phương pháp thảo luận, thuyết
trình, đàm thoại nhằm làm tăng thêm ý nghĩa của câu chuyện trong giờ học.
- Phương pháp kể chuyện phù hợp tâm sinh lý lứa tuổi học sinh, khắc
phục được sự nhàm chán của phương pháp dạy học truyền thống. Vì vậy, gây
hứng thú cho người học, trang bị cho học sinh vốn tri thức và những bài học
cho cuộc sống của bản thân.
*Khó khăn:
- Đa số giáo viên cònbị ảnh hưởng nặng nề của phương pháp dạy học
truyền thống, nên việc sử dụng các câu chuyện đạo đức để dạy phần công dân
với đạo đức còn mới lạ không tránh khỏi trong một số kỹ năng và nội dung
kiến thức.
- Đòi hỏi giáo viên phải có nhiều kỹ năng, phải nắm chắc được nội dung
bài dạy, có sự hiểu biết về cuộc sống để lựa chọn các câu chuyện phù hợp,
điển hình sát với thực tế cuộc sống, với địa phương, với tâm lý lứa tuổi học
sinh sẽ đạt hiệu quả cao.
- Sử dụng các câu chuyện để giảng dạy phần công dân với đạo đức nếu
giáo viên không có sự lựa chọn các mẩu chuyện phù hợp và không biết cách
thâu tóm nội dung câu chuyện mất nhiều thời gian thì đây là một khó khăn
cho việc sử dụng phương pháp này.
- Do môn GDCD là môn không thi tốt nghiệp nên tâm lý học sinh ít
quan tâm sâu sắc như những môn học khác.
- Năng lực học sinh không đồng đều đôi khi việc kể chuyện là sự máy
móc không hiệu quả. Mặt khác phương pháp kể chuyện của một số giáo viên
chưa hấp dẫn, chưa biết biểu lộ được tình cảm yêu ghét, buồn vui, nên chưa
tạo được sự hấp dẫn, cuốn hút sự chú ý của học sinh.
- Tài liệu tham khảo đặc thù phục vụ cho môn GDCD 10 chưa thật
phong phú và phổ biến
5
- Học sinh chưa tự giác học tập, ít tham khảo sách vở, mải chơi. Các em
chưa có thói quen chủ động tìm hiểu, khám phá bài học nếu không được giao
nhiệm vụ cụ thể. Các em ngại đi tìm tư liệu cho bài học, tiếp thu bài một cách
thụ động.
- Một vấn đề nữa là lượng thời gian dành cho bộ môn này còn ít (1tuần/1
tiết). Sách mới viết hiện nay nội dung rất phong phú, hợp với trình độ học
sinh nhưng nếu giáo viên dạy bộ môn mà không có sự đầu tư thì giờ học sẽ
rất nhàm chán, thậm chí học sinh không chú ý lắng nghe. Thực trạng cho
thấy, học sinh chưa hứng thú học bộ môn này.
* Số liệu thống kê:
- Kết quả năm trước chưa thường xuyên áp dụng phương pháp sử dụng
chuyện kể trong giảng dạy phần công dân với đạo đức.
Lớp
Số
HS
Giỏi Khá Trung bình Yếu
TS Tỉ lệ TS Tỉ lệ TS Tỉ lệ TS Tỉ lệ
10A1 52 10 19% 20 38,6 18 34,8% 4 7,6%
10A2 51 8 15,6% 17 33,4% 20 39,3% 6 11,7%
10A12 39 3 7,6% 9 23% 24 61,8% 3 7,6%
II. NỘI DUNG VÀ BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
1. Cơ sở lý luận: Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, nhân loại
từng bước trải qua các nền văn minh khác nhau, từ nền văn minh nông nghiệp
cho đến văn minh tin học hiện đại, dù rằng mỗi thời đại có những lý do khác
nhau để tiến hành tổ chức bộ máy Nhà nước hay cách thức để tiến hành quản
lý xã hội, thế nhưng ở mọi giai đoạn lịch sử đều có chung một điểm cơ bản đó
chính là quan niệm của họ về việc truyền thụ tri thức và giáo dục đạo đức cho
con người như thế nào? Và giáo dục những nội dung cơ bản gì? Để vừa thúc
đẩy sự phát triển của xã hội đồng thời phù hợp với quy luật chung của thời
đại, người giáo viên giảng dạy môn GDCD có vai trò quan trọng trong việc
trực tiếp truyền thụ tri thức và hình thành nhân cách ở học sinh.
Thế nhưng trong đa số chúng ta nói chung và học sinh chúng ta nói
riêng khi nói đến bộ môn GDCD hay môn triết học, đạo đức học, kinh tế
6
học chúng ta cùng chung một cảm giác như nhau đó là sự khô khan mang
tính triết lý, trừu tượng một cách tương đối khuôn mẫu, bài bản. Nhất là khi
tìm hiểu về các vấn đề chính trị, về các đường lối chính sách của Đảng và
Nhà nước thì càng không được hiểu sai lầm về quan điểm cả về tư tưởng,
chính vì thế mà khi tiếp xúc với môn học chúng ta đều có chung một thái độ e
ngại.
Hơn nữa hiện nay một số giáo viên còn quan niệm đây là môn học phụ
không thi tốt nghiệp, vì vậy mà việc đầu tư cho bộ môn chưa cao, chưa phát
huy tốt những đặc trưng cơ bản của bộ môn với lẽ đó mà vị thế của môn học
chưa thật xứng với tầm của nó trong trường phổ thông, từ đó dẫn đến học
sinh tỏ ra thái độ thiếu tích cực trong việc tìm hiểu môn học GDCD. Chính vì
vậy để tiết học gây được sự hứng thú cho học sinh, tôi đã sử dụng chuyện kể
trong giảng dạy để dạy phần công dân với đạo đức.
Để làm được tôi đã sưu tầm hệ thống các mẩu chuyện phù hợp với nội
dung bài học để học sinh tiếp thu tri thức một cách dễ dàng. Vì vậy việc sưu
tầm các mẩu chuyện có chọn lọc, phù hợp, sắc bén mang tính đặc trưng với
nội dung kiến thức sẽ giúp cho học sinh dễ hiểu bài, khắc sâu kiến thức vừa
mở rộng sự hiểu biết của mình đồng thời vận dụng tốt hơn nội dung của bài
học vào thực tiễn.
Bất kỳ phương pháp dạy học nào cũng dựa trên cơ sở tâm lý nhất định,
nhằm để tạo nên sự mới mẻ, kích thích sự hứng thú, thúc đẩy ham muốn
khám phá tìm hiểu chân lý tri thức của học sinh. Thực tiễn dạy học cho thấy
rằng những tri thức nào khơi dạy được ở học sinh những cảm xúc tích cực,
mạnh mẽ sẽ được các em lĩnh hội một cách nhanh chóng và vững chắc hơn so
với nhữn tri thức mà các em dửng dưng, không có thái độ gì đặc biệt đối với
nó. Một trong những đặc điểm nổi bật trong đời sống tình cảm của HS THPT
là sự nhạy cảm với những ấn tượng mới của đời sống. Ở mứ độ nhận thức các
em đã biết sử dụng thao tác tư duy để giải quyết những vấn đề đặt ra. Vì vậy
khi sưu tầm các mẩu chuyện dạy học môn GDCD lớp 10 giáo viên cần phát
7
huy tính liên hệ thực tiễn của các em, bằng những câu chuyện thường gặp
trong đời sống xã hội sẽ có sự liên tưởng tốt hơn và dễ hiểu bài hơn. Nắm
vững được đặc điểm tâm sinh lý của học sinh để lựa chọn phương pháp dạy
tốt là rất cần thiết. Giáo viên cần tìm những câu chuyện có tính sắc bén, người
thật, việc thật để tác động vào việc nhận thức của các em, các câu chuyện này
sẽ có những hiệu quả và tính thuyết phục lớn trong việc giáo dục đạo đức,
những tình huống trong câu chuyện sẽ trở thành những bài học cho học sinh
làm hành trang bước vào đời.
2. Cơ sở thực tiễn:
Sử dụng truyện kể là ví dụ thực tiễn có tính thực tế cao, nó cung cấp cho
học sinh những thông tin diễn ra trong cuộc sống hàng ngày, thông qua câu
chuyện mà học sinh có thái độ, ý kiến riêng của mình về câu chuyện đó. Tạo
điều kiện cho các em nghĩ đến vấn đề đang diễn ra trong thực tế cuộc sống có
liên quan đến bài học, đối chiếu với nội dung bài học để hiểu biết sâu sắc hơn
điều cần học. Các em sẽ củng cố hành vi của bản thân phù hợp với thực tiễn
cuộc sống. Vì vậy để tiến hành có hiệu quả nội dung bài học thông qua các
mẩu chuyện đạo đức thì giáo viên cần phải trực tiếp sưu tầm, tìm hiểu cốt lõi
nội dung câu chuyện. Các câu chuyện phải phù hợp với nội dung bài học và
phải ngắn gọn để tiết kiệm thời gian. Giáo viên có thể tóm tắt lại tình tiết của
câu chuyện cho dễ hiểu và ngắn gọn hơn.
Nguồn sưu tầm các câu chuyện để vận dụng trong giảng dạy cũng rất đa
dạng, giáo viên có thể sưu tầm trên các loại sách báo, tạp chí, đài phát thanh,
đài truyền hình, mạng Intenet và sưu tầm theo từng chủ đề, từng nội dung
cụ thể trong bài dạy. Việc sưu tầm các câu chuyện cũng phải chú ý phát huy
tính chủ động nhận thức của học sinh, sưu tầm phải dựa trên mục tiêu bài học
về kiến thức, kỹ năng, thái độ. Hơn nữa sưu tầm các câu chuyện cần phải xuất
phát từ đặc điểm tâm lý, trình độ nhận thức của học sinh để tìm ra những câu
chuyện phù hợp, các câu chuyện cũng đảm bảo tính vừa sức, tính phát triển tư
duy của học sinh. Các câu chuyện không khó hiểu mà mang tính giáo dục cao
8
đối với học sinh. Các câu chuyện hay có những tình huống mở cho học sinh
sẽ kích thích học sinh chăm chú và cùng thảo luận.
Nắm bắt được những cơ sở trên việc sưu tầm các câu chuyện để giảng
dạy phần công dân với đạo đức sẽ dễ dàng đối với giáo viên đồng thời góp
phần trong việc sử dụng nó để giảng dạy đạt hiệu quả cao hơn.
Với tư cách là giáo viên giảng dạy bộ môn, tôi xin trình bày một vài
kinh nghiệm nhỏ mà tôi đã từng thực hiện bởi phương pháp này đã và đang
mang lại cho tôi nhiều niềm tin trong nhiều giờ dạy.
3. Các giải pháp sử dụng truyện kể để dạy học chương trình GDCD
lớp 10 phần công dân với đạo đức.
Trong quá trình giảng dạy giáo viên có thể sử dụng các câu chuyện vào
nhiều dạng khác nhau nhằm những mục đích khác nhau. Nhưng nhìn chung
có 3 dạng cơ bản thường được các giáo viên sử dụng một cách có hiệu quả.
3.1. Sử dụng câu chuyện để dẫn dắt vào nội dung bài học.
Khi giảng giáo viên sử dụng phương pháp thuyết trình dùng lời nói để
dẫn dắt học sinh vào bài học hoặc vào một phần nào đó của cấu trúc bài học,
sử dụng các câu chuyện giáo viên có thể dẫn dắt học sinh vào bài học một
cách trực tiếp tạo sự chú ý của học sinh. Có hai hình thức để dẫn học sinh vào
bài học:
* Sử dụng truyện kể để vào bài mới.
Đây là hình thức giáo viên dùng một câu chuyện có nội dung phù hợp
với chủ đề bài học để đưa học sinh vào bài thay cho phần thuyết trình vào bài.
Từ nội dung của câu chuyện giáo viên làm rõ chủ đề của bài học và bằng
nhữgn câu hỏi có tính liên kết để dẫn học sinh vào bài mới, học sinh sẽ thấy
cảm giác hứng thú đê bước vào bài.
Chẳng hạn để dẫn học sinh vào bài 10 Quan niệm về đạo đức giáo viên
có thể bắt đầu giảng bằng câu chuyện Bác Hồ trong đời thường, qua đó rút
ra những kết luận về sự giản dị thanh đạm của Bác Hồ, Bác là người có đạo
9
đức tốt, là tấm gương sáng cho chúng ta noi theo. Vậy để hiểu rõ hơn về đạo
đức chúng ta cùng tìm hiểu bài học hôm nay.
* Sử dụng truyện kể để dẫn học sinh vào từng phần kiến thức của bài học
Cũng giống như sử dụng câu chuyện để vào bài mới, chỉ có điều khác ở
đây giáo viên sử dụng câu chuyện để vào một phần nào đó, một đơn vị kiến
thức nào đó của bài học.
Ví dụ: Để dẫn học sinh vào phần kiến thức thứ hai Lương tâm của bài
11: Môt số phạm trù cơ bản của đạo đức. Giáo viên có thể bắt đầu bằng câu
chuyện Sự ngỗ nghịch đáng ân hận suốt đời (trích trong Dế mèn phiêu liêu
ký của nhà văn Tô Hoài). Để giúp cho học sinh thấy rõ lương tâm là năng lực
tự đánh giá và điều chỉnh hành vi đạo đức của bản thân trong mối quan hệ với
người khác và xã hội.
3.2. Sử dụng truyện kể để làm rõ tri thức.
Là hình thức giáo viên dùng câu chuyện để làm sáng tỏ tri thức của bài
học, qua nội dung câu chuyện học sinh sẽ nắm được tri thức bài học hay nói
cách khác là thay cho việc dùng lý luận để phân tích, lý giải tri thức bài học
cho học sinh. Đây là hình thức củng cố một lượng kiến thức của một phần nội
dung bài học.
Ví dụ: Trong phần đơn vị kiến thức Nhân nghĩa của bài 13, giáo viên có
thể sử dụng câu chuyện “Trái tim hoàn hảo” (trích trong Quà tặng cuộc
sống - NXB Tuổi trẻ). Qua câu chuyện giúp cho học sinh cảm nhận được rằng
cuộc sống sẽ thật đẹp đẽ và có ý nghĩa khi chúng ta biết sẻ chia với những
người xung quanh, biết yêu thương đồng loại, biết vui cùng niềm vui, biết
buồn cùng nỗi buồn của những người xung quanh.
3.3. Sử dụng truyện kể để củng cố bài học.
Đây là hình thức sử dụng các câu chuyện sau khi kết thúc bài học. Giáo
viên kể cho học sinh nghe một câu chuyện có nội dung phù hợp với bài học,
trong đó nhấn mạnh đến những chi tiết thể hiện tri thức của bài học để củng
cố tri thức đã truyền thụ cho học sinh.
10
Ví dụ: Sau khi kết thúc bài 16: Tự hoàn thiện bản thân, giáo viên có thể
sử dụng truyện kể về nhân vật Cao Bá Quát viết chữ xấu và nhận thức được
điểm yếu của mình ông đã kiên trì tập luyện trong suốt mấy năm và chữ viết
của ông mỗi ngày một đẹp, ông nổi tiếng khắp nước là văn hay chữ tốt. Qua
đó học sinh phải tự nhận thức được bản thân và biết hoàn thiện bản thân
mình.
4. Thiết kế bài giảng theo phương pháp sử dụng các câu chuyện để
dạy học môn GDCD lớp 10 phần đạo đức.
Bài 14: CÔNG DÂN VỚI SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC
(Tiết 1)
I. MỞ ĐẦU BÀI HỌC:
Mỗi người sinh ra đều có Tổ quốc của mình (đất nước). Việt Nam là Tổ
quốc của chúng ta.
II. NỘI DUNG:
1. Lòng yêu nước.
Là phẩm chất đạo đức quan trọng nhất của người công dân đối với Tổ quốc.
a. Lòng yêu nước là gì? Là tình yêu quê hương, đất nước và tinh thần
sẵn sàng đem hết khả năng của mình phục vụ lợi ích cho Tổ quốc.
Câu chuyện Bác đi tìm đường cứu nước ngày 5/6/1911, người thanh
niên Việt Nam yêu nước Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu nước.
Sau hơn 30 năm bôn ba ở nước ngoài Nguyễn Tất Thành trở thành nhà cách
mạng lãnh đạo nhân dân Việt Nam đứng lên làm cuộc Cách mạng Tháng 8,
lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Người thanh niên ra đi tìm đường
cứu nước năm xưa chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh sau này.
Lòng yêu nước của Người được thể hiện ở tình cảm, lời nói và những
hành động sẵn sàng hy sinh bản thân mình. Với hai bàn tay trắng, tự nuôi
sống mình với nghề phụ bếp, Bác đã đi tìm đường cứu nước. Đánh giá sự
kiện này nhà sử học Đinh Xuân Lâm nói: là ý thức của một công dân với một
dân tộc.
11
b. Truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam.
Yêu nước là truyền thống đạo đức cao quý và thiêng liêng nhất của dân
tộc Việt Nam: Sinh thời Bác Hồ đã từng nói: “Dân ta có một lòng nồng nàn
yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay mỗi khi Tổ
quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành làn sóng vô cùng
mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất
cả bè lũ bán nước và lũ cướp nước”.
* Lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam thể hiện ở những điểm sau
- Tình cảm gắn bó với quê hương đất nước:
Người Việt Nam yêu nước
luôn hướng về cội nguồn, ông
bà, cha mẹ, tổ tiên và quê
hương của mình, khi phải xa
quê hương đất nước họ luôn
hướng về quê hương, Tổ quốc
của mình.
VD: Trên con đường bôn ba đi
tìm đường cứu nước lòng Bác
luôn canh cánh :
12
“Đêm mơ nước ngày thấy hình của nước;
Cây cỏ trong chiêm bao cũng xanh sắc biếc da trời;
Ăn một miếng ngon cũng đắng lòng vì Tổ quốc;
Chẳng yên lòng khi ngắm một cành hoa.” (Thơ Chế lan Viên)
- Tình thương yêu đối với đồng bào, giống nòi dân tộc.
Đồng bào, giống nòi là những gì
thiêng liêng gắn bó con người với nhau,
mỗi người dân Việt Nam yêu nước đều
cảm thông sâu sắc với nỗi đau của đồng
bào, dân tộc, luôn mong muốn đồng bào
của mình được ấm no, hạnh phúc.
Ví dụ: Trên đường hành trình vào
Nam năm 1909 tại bờ biển Bình Thuận,
Bác đã khóc khi thấy rất nhiều ngư dân
lặn hụp sóng biển để kéo con tàu Pháp vào bờ.
Tình thương bao la giống nòi dân tộc qua câu nói đầy tính nhân văn của
Bác: “Trên đời này, dù màu da có khác nhau cũng chỉ có hai hạng người, kẻ
bóc lột và người bị bóc lột; chỉ có một tình thương, tình hữu ái của giai cấp
vô sản mà thôi.”
- Lòng tự hào dân tộc chính đáng.
Người Việt Nam luôn tự hào về truyền thống văn hóa lâu đời, đậm đà
bản sắc dân tộc, tự hào về những con người của quê hương, đất nước anh
hùng hào kiệt, những danh nhân văn hóa. Bác đã từng viết Việt Nam lịch sử
diẽn ca, để ca ngợi chủ nghĩa yêu nước lòng tự hào dân tộc Việt Nam trong
mấy ngàn năm lịch sử, cho nhân dân ta đọc và noi theo.
Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam. Sử ta dạy
cho ta những chuyện vẻ vang của tổ tiên ta. Dân ta là con Rồng cháu Tiên, có
nhiều người tài giỏi đánh Bắc dẹp Nam, yên dân trị nước, tiếng để muôn đời.
Sử ta dạy cho ta bài học này: “lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một
13
thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước
ngoài xâm lấn”.
- Đoàn kết kiên cường bất khuất chống giặc ngoại xâm.
Tinh thần đoàn kết, kiên cường bất khuất chống ngoại xâm là nét nổi bật
của truyền thống yêu nước Việt Nam. Sinh thời Bác Hồ huấn thị: “Đoàn kết,
đoàn kết đại đoàn kết; thành công, thành công đại thành công”.
Sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai
thắng nổi. Nhờ lực lượng ấy mà tổ tiên ta đã đánh thắng giặc ngoại xâm, đã
giữ vững quyền tự do, tự chủ. Nhờ lực lượng ấy mà chúng ta làm cách mạng
thành công giành được độc lập. Nhờ lực lượng ấy mà sức kháng chiến của ta
ngày càng mạnh. Nhờ lực lượng ấy mà quân và dân ta quyết chịu đựng muôn
nỗi khó khăn, thiếu thốn, đói khổ, tang tóc, quyết một lòng đánh tan.
- Cần cù và sáng tạo trong lao động:
Người Việt nam có truyền thống cần cù sáng tạo trong lao động yêu
nước đều lao động hết mình để xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc.
- Bác của chúng ta làm phụ bếp trên con tàu của Pháp, phục vụ trên
1000 người, Bác dạy từ mờ sáng, làm quần quật đến nửa đêm. Nhưng Bác
vẫn dành thời gian cho học ngoại ngữ.
Khi ở Pháp đêm lạnh Bác dùng viên gạch nung đỏ dể dưới gầm giường,
sưởi ấm. Ở Thủ đô Luân Đôn tráng lệ, nhưng Bác của chúng ta làm nghề quét
tuyết, đêm về rất lạnh dưới độ âm.
“Người nhớ chăng gió rét thành Ba Lê (Pari)
Một viên gạch hồng Bác chống lại cả mùa băng giá
Và sương mù thành Luân Đôn Người còn nhớ
Giọt mồ hôi Người nhỏ giữa đêm khuya”.
Làm vất vả để có tiền nuôi sống bản thân, để làm cách mạng; học ngoại
ngữ để dễ giao tiếp với mọi người để viết báo tuyên truyền cách mạng
Cần cù vất vả và sáng tạo bản chất người Việt Nam được Bác phát huy.
III. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
14
1. Những kết quả cụ thể đạt được
Sau một năm thử nghiệm, điều tra năm học 2011 - 2012 cho kết quả khá
khả quan. Tuy nhiên, đây là ban đầu, điểm số là một vấn đề, nhưng sự hiểu
bài và yêu thích môn học là cái hướng đến của bản thân khi giảng dạy môn
GDCD. Mặt khác việc vi phạm nội quy trường, nội quy lớp học đã được kéo
giảm đáng kể, các em lễ phép với thầy cô, người lớn tuổi, thân ái, chia sẻ với
bạn bè, người thân. Có tinh thần tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách
bằng những việc làm cụ thể và đầy ý nghĩa.
Kết quả cụ thể như sau:
Năm học
2012-
2013
Lớp Số
HS
Giỏi Khá Trung bình Yếu
TS Tỉ lệ TS Tỉ lệ TS Tỉ lệ TS Tỉ lệ
10A1 46 13 28,3% 22 47,8% 11 23,9%
10A2 50 16 32% 22 44% 12 24%
10A3 48 15 31,2% 25 52,2% 8 16,6%
2. Những kinh nghiệm rút ra khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
- Khi thực hiện đề tài phải thực hiện nghiêm túc, xuyên suốt có chiều sâu.
- Muốn sử dụng các câu chuyện đạo đức để dạy học chương trình môn
GDCD lớp 10 thành công giáo viên cần có những phẩm chất và năng lực cần thiết.
- Sử dụng các câu chuyện để dạy học chương trình GDCD lớp 10 phần
công dân với đạo đức là phương pháp dạy học tương đối mới nên khi vận
dụng vào bài giảng của mình giáo viên cần có sự lựa chọn kỹ các câu chuyện
làm nổi bật đơn vị kiến thức cần truyền thụ.
- Các câu chuyện đưa ra phải phù hợp với vốn hiểu biết của học sinh và
cả trình độ của giáo viên, phải kết hợp khéo léo với các phương pháp dạy học
khác để tạo nên sự cộng hưởng và đạt hiệu quả cao nhất.
- Giáo viên cần sưu tầm được nguồn tài liệu các câu chuyện qua sách
báo, qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua bạn bè
- Muốn kể chuyện hấp dẫn, phong phú, giáo viên phải có vốn từ ngữ
phong phú, phải đọc nhiều sách báo, truyện.
15
- Hướng dẫn học sinh cách trình bày, cách kể chuyện. Rèn luyện cho
học sinh thói quen học tập tích cực chủ động, biết hợp tác với bạn bè, khắc
phục thói quen thụ động ỷ lại trong học tập rèn luyện kỹ năng cần thiết khi
trình bày diễn đạt trước lớp, trước chỗ đông người.
C. KẾT LUẬN
1. Ý nghĩa:
Có rất nhiều phương pháp dạy môn học GDCD, bao gồm các phương
pháp dạy như (đóng vai, liên hệ thực tiễn, dự án ) mỗi phương pháp dạy học
đều có mặt mạnh và hạn chế riêng. Các phương pháp sẽ phù hợp với từng loại
bài riêng, từng hoạt động trong tiết dạy. Do đặc trưng môn GDCD lớp 10
phần công dân với đạo đức nên việc sử dụng phương pháp kể chuyện để dạy
học là rất cần thiết, đây là một trong những phương pháp mới đem hiệu quả
cao trong quá trình giảng dạy và học tập của giáo viên và học sinh. Với
phương pháp dạy học mới này sẽ kích thích tư duy học sinh phát huy tính tích
cực, tự giác, sáng tạo chủ động trong học tập. Thông qua các câu chuyện mà
các em được tiếp xúc với thực tiễn nhiều hơn và phân tích để hiểu sâu sắc nội
dung bài học. Học sinh biết vận dụng kiến thức vào thực tiễn và phát huy
được tính tích cực trong học tập.
- Thông qua các câu chuyện sẽ góp phần hình thành cho học sinh những
phương pháp học tập tích cực, năng động, sáng tạo, tạo cho học sinh hiểu sâu
sắc và nhớ lâu những kiến thức bài học. Qua các câu chuyện mà học sinh sẽ
giải quyết những vẫn đề đã phát hiện được trong đó liên quan đến bài học.
Bằng những tình huống, câu chuyện có thật học sinh sẽ có hứng thú tìm tòi
các tình tiết và cũng qua các câu chuyện giáo viên dễ dàng giáo dục các em
những nhận thứ phù hợp. Vì tính thực tiễn của câu chuyện rất cao, qua đó sẽ
giúp cho học sinh có kinh nghiệm, thái độ ứng xử trong cuộc sống một cách
hợp lý nhất. Bài học rút ra từ các câu chuyện sẽ tác động thực tiễn đến suy
nghĩ của học sinh.
16
- Giáo viên có thể sử dụng câu chuyện dẫn dắt vào nội dung bài học,
dùng để dẫn học sinh vào từng phần kiến thức của bài học. Giáo viên cũng có
thể sử dụng các câu chuyện để làm rõ tri thức sau khi đã truyền tải kiến thức
cơ bản, đồng thời cũng có thể củng cố bài học.
- Do vậy việc sử dụng các câu chuyện trong giảng dạy phần công dân
với đạo đức có ý nghĩa rất quan trọng nhằm giúp cho học sinh có thêm hiẻu
biết, có thêm niềm tin, tự tin bước vào cuộc sống, trang bị cho các em hành
trang khi bước vào đời. Sử dụng phương pháp dạy học này kết hợp với
phương pháp dạy học khác sẽ đào tạo ra những con người phát triển toàn
diện, có ích cho xã hội.
Sẽ không có phương pháp vạn năng nhưng cùng với những phương pháp
đang được sử dụng, thì thông qua các câu chuyện đạo đức như trên sẽ làm
cho tri thức đạo đức dễ khắc sâu hơn vào tâm trí của người học, góp phần
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong tiếp thu bài học.
Dạy học phần công dân với đạo đức giáo viên không chỉ là truyền thụ tri
thức, hình thành thái độ, mà còn rèn luyện hành vi đạo đức cho học sinh, biến
những tri thức đạo đức thành sức mạnh nội tâm bên trong và thôi thúc hành
động của họ, tạo ra những con người Việt Nam có đủ cả đức lẫn tài, đem sức
trẻ, nhiệt huyết, tài năng và đức độ của mình để xây dựng đất nước ngày càng
phồn vinh, ấm no, hạnh phúc.
2. Những kiến nghị, đề xuất
Nhằm từng bước nâng cao vị trí, vai trò của môn học trong nhà trường
đóng góp vào thành tích chung trong việc giáo dục nhân cách đạo đức cho
học sinh, tôi xin kiến nghị một số vấn đề sau:
- Nhà trường cần đầu tư thêm các tài liệu tham khảo cho môn GDCD.
- Tránh tư tưởng cho rằng đây là môn học phụ, môn học không cần thiết
- Cần có sự giúp đỡ tích cực của Ban Giám hiệu và các tổ chức trong
nhà trường để nâng cao hiệu quả trong giảng dạy và giáo dục đạo đức học sinh.
17
- Tổ chuyên môn cần tạo điều kiện thật tốt để giáo viên hoàn thành tốt
công việc, góp phần nâng cao vị thế môn học trong nhà trường.
Trên đây là kết quả của sự tìm tòi của bản thân tôi nhằm nâng cao chất
lượng giảng dạy bộ môn GDCD, chắc hẳn những kinh nghiệm còn nhiều
thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ý chân thành từ phía đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!
Thanh Hóa, ngày 30 tháng 05 năm 2013
Người thực hiện
Lê Thị Tình
18
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG NHÀ TRƯỜNG
XÁC NHẬN CỦA HĐKH NGÀNH
19
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Cư - Nguyễn Duy Nhiên “Dạy và học môn GDCD ở trường
THPT - Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, NXB Đại học Sư phạm.
2. Chuyện kể về Bác Hồ - NXB Lý luận chính trị.
3. Chuyện kể đạo đức Bác Hồ - NXB Đại học Sư phạm
4. SGK, SGV, sách hướng dẫn môn GDCD và các tư liệu tham khảo khác.
20
MỤC LỤC
Nội dung Trang
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích
II. NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN
NGHIÊN CỨU
2
1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
2. Phương pháp nghiên cứu
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
4. Thực trạng
III. NỘIDUNG VÀ BIỆN PHÁP THỰC HIỆN 6
1. Cơ sở lý luận
2. Cơ sở thực tiễn
3. Các giải pháp
4. Thiết kế bài giảng
IV. KẾT QUẢ 14
1. Kết quả cụ thể
2. Những kinh nghiệm
V. KẾT LUẬN 16
1. Ý nghĩa
2. Đề xuất
VI. TƯ LIỆU THAM KHẢO 20
VII. MỤC LỤC 21
21