Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

tiểu luận đường lối cách mạng Đảng cộng sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.84 KB, 20 trang )

Tiểu luận đường lối Đảng cộng sản Việt Nam
TÊN ĐỀ TÀI : QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA
A: MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một đất nước còn nghèo, kinh tế - kỹ thuật lạc hậu, trình độ
xã hội còn thấp lại phải chịu sự tàn phá nặng nề của chiến tranh, chính vì thế đi
lên chủ nghĩa xã hội- một xã hội dân chủ công bằng văn minh là mục tiêu lý
tưỡng của Đảng cộng sản và nhân dân Việt Nam, là khát vọng thiêng liêng của
cả dân tộc.Tuy nhiên đi lên bằng con đường nào, xây dựng ra sao lại là một câu
hỏi lớn và cực kỳ hệ trọng, muốn trả lời không hề đơn giản chút nào.Trong suốt
một thời gian dài, Đảng và Nhà nước ta cứ lay hoay đi tìm kiếm một kế hoạch
xây dựng, và rồi cũng tìm được mô hình chủ nghĩa xã hội – mô hình của Nhà
nước của Xô – Viết lúc bấy giờ, mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung mang
tính bao cấp.Bước đầu mô hình này đã mang lại những kết quả quan trọng, nhất
là trong tình hình đất nước đang có chiến tranh, tuy nhiên càng về sau mô hình
này lại bộc lộ vô số khuyết điểm,hạn chế không còn phù hợp với thực tế khách
quan của đất nước, và ta cần sự thay đổi trong tư duy nhận thức, thay đổi để
thoát khỏi lạc hậu, để không bị tụt lại quá sâu so với thế giới.Lúc này Đảng ta
mới tìm ra một con đường mới một hướng đi mới – con đường phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa(KTTT)
Và để tìm hiểu sâu sắc hơn về con đường mới này em đã chọn đề tài “ Quá trình
phát triển nhận thức của Đảng cộng sản Việt nam về kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa”, thông qua đó phần nào đưa người đọc đến góc nhìn rõ
hơn về sự thay đổi có tính phát triển trong nhận thức, tư duy xây dựng đất nước
của Đảng, để thấy rằng không có con đường nào là phù hợp hoàn toàn, không có
1
Tiểu luận đường lối Đảng cộng sản Việt Nam
con đường nào ngay tức khắc mang lại sự hiệu quả nó còn tùy thuộc vào hoàn
cảnh cụ thể khách quan, xuất phát điểm của từng quốc gia.


2.Đối tượng giới hạn đề tài
Đề tài tập trung tìm hiểu sự thay đổi trong nhận thức về cơ chế quản lý,
phát triển kinh tế của Đảng cộng sản Việt Nam
3.Mục đích, nhiệm vụ đề tài
- Giúp người đọc có cái nhìn rõ hơn về con đường thay đổi tư duy phát
triển nhận thức của Đảng về nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa
- Là cơ sở cho các sinh viên không chuyên ngành tham khảo về quá trình
xây dựng và phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam
4.Phương pháp nghiên cứu đề tài
- Tiểu luận sử dụng các dẫn chứng cụ thể, liệt kê số liệu để phân tích
tổng hợp quá trình thay đổi trong nhận thức của Đảng cộng sản Việt Nam về
kinh tế thị trương định hướng xã hội chủ nghĩa
2
Tiểu luận đường lối Đảng cộng sản Việt Nam
B: NỘI DUNG
CHƯƠNG I : Cơ chế quản lý cũ và tiền đề của một mô hình quản lý đổi
mới cho nền kinh tế ở Việt Nam
Năm 1954 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta giành
thắng lợi, hiệp định Gionevo ở Đông Dương được ký kết.Đất nước ta tạm thời bị
chia cắt thành hai miền Nam- Bắc.Miền Bắc lúc này đã hoàn toàn giải phóng và
đang tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, sau khi hoàn thành cải tạo chủ nghĩa xã
hội(CNXH) từ năm 1960 miền Bắc bắt đầu thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập
trung.Tới năm 1945 khi đất nước hoàn toàn được giải phóng cả nước bước vào
thời kỳ xây dựng phát triển kinh tế xã hội.Định hướng của Đảng và Nhà nước ta
tại thời điểm đó đối với việc xây dựng và phát triển kinh tế vẫn theo mô hình kế
hoạch hóa tập trung và được duy trì đến năm 1986.
1. Cơ chế quản lý cũ của Đảng trước thời kỳ đổi mới tư duy, nhận thức về
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
1.1. Kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp – một cơ chế không hợp thời
Cơ chế kế hoạch hoá tập trung(KHHTT) là cơ chế kinh tế mà trong đó

Nhà nước kiểm soát toàn bộ các yếu tố sản xuất và giữ quyền quyết định việc sử
dụng các yếu tố sản xuất cũng như phân phối về thu nhập.Đây là cơ chế mà :
- Nhà nước quản lí trực tiếp bằng các chỉ tiêu kế hoạch mang tính pháp
lệnh, quy định tỉ mỉ, chặt chẽ: sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu, phân phối cho
ai. Nhưng các chỉ tiêu đó lại được xây dựng một cách chủ quan. Doanh nghiệp
nhà nước thậm chí cả hợp tác xã chỉ có nhiệm vụ chấp hành các mệnh lệnh.
3
Tiểu luận đường lối Đảng cộng sản Việt Nam
- Nhà nước thực hiện mọi chế độ bao cấp đối với mọi đơn vị cấp dưới và
doanh nghiệp nhà nước, kể cả hợp tác xã. Đầu vào của các doanh nghiệp( các
yếu tố của sản xuất như nguyên vật liệu, vật tư, trang thiết bị, năng lượng…) do
nhà nước cung cấp hoàn toàn. Do vậy, toàn bọ sản phẩm làm ra đều phải giao
nộp lại cho nhà nước để nhà nước phân phối.
- Chế độ tài chính của nhà nước thực hiận theo nguyên tắc thu đủ, chi đủ,
nghĩa là nếu lãi nhà nước thu về, lỗ nhà nước bù. Trong doanh nghiệp vấn đề lợi
nhuần không được coi là mục tiêu hàng đầu và không được đặt ra. lợi nhuận
được coi là phạm trù tư bản chủ nghĩa
- Các công cụ như giá cả lãi suất, tiền lương chỉ được áp dụng đẻ tính toán
một cách hình thức: giá cả không phản ánh quan hệ cung- cầu, mà do nhà nước
đặt ra dùng đẻ tính toán cho việc cấp phát và giao nộp giữa nhà nước và doanh
nghiệp. không chấp nhận thị trường tự do. Tiền lương được quy định theo cấp
bậc hành chính và thâm niân, thoát li cống hiến của từng người, theo tính chủ
nghĩa bình quân chứ không phải tính theo hiệu quả lao động của mỗi người.Triệt
tiêu động lực kinh tế của người lao động,không kích thích tính năng động, sáng
tạo của các đơn vị sản xuất, kinh doanh.
- Không có khái niệm cạnh tranh. Cạnh tranh được coi là yếu tố tự phát
dẫn đến chủ nghĩa tư bản. do đó không khuyến khích doanh nghiệp tăng năng
suất lao động, cải tiến mẫu mã, phát triển mặt hàng mới một cách thực sự.
- Cơ chế kế hoạch hóa tập trung bộc lộ sai trái: không có khái niệm cạnh
tranh, thủ tiêu cạnh tranh

- Bộ máy hành chính nhà nước quan liêu, cách bức cồng kềnh, nhiều tầng
nấc kém hiệu quả, xuất hiện nạn tham ô và lãng phí.
- Trong thời kỳ này,hoạt động thị trường khép kín, không mở cửa.“Bế
quan tỏa cảng”.
1.2.Tính tất yếu của một cơ chế mới- cơ chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa
Với việc áp dụng cơ chế kế hoạch hóa tập trung, nền kinh tế nước ta giai
đoạn này rơi vào tình trạng khủng hoảng, suy thoái nặng nề mặc cho Đảng và
4
Tiểu luận đường lối Đảng cộng sản Việt Nam
Nhà nước có các biện pháp cải tiến : nào là khoán sản phẩm trong nông
nghiệp(chỉ thị 100 CT/TW của ban Bí thư TW khóa IV), hay là bù giá lương ở
Long An…tuy vậy nền kinh tế vẫn không có nhiều chuyển biến tích cực.Từ đây
một thực tế đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải thay đổi, thay đổi trong tư duy
logic,trong vận dụng một nền cơ chế phát triển kinh tế đổi mới phù hợp với thực
tiễn và đến Đại hội VI điều này đã được Đảng và Nhà nước nhận thức và từ đây
một cơ chế xây dựng phát triển kinh tế mới được hình thành và phát triển: cơ
chế kinh tế thị trường gắn với phát triển xã hội chủ nghĩa.
2.Kinh tế thị trường là gì ?
Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác
động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng
hàng hoá, dịch vụ trên thị trường
2.1. Ưu điểm
Trong nền kinh tế thị trường, nếu lượng cầu hàng hóa cao hơn lượng
cung, thì giá cả hàng hóa sẽ tăng lên, mức lợi nhuận cũng tăng khuyến khích
người sản xuất tăng lượng cung. Người sản xuất nào có cơ chế sản xuất hiệu quả
hơn, thì cũng có tỷ suất lợi nhuận cao hơn cho phép tăng quy mô sản xuất, và do
đó các nguồn lực sản xuất sẽ chảy về phía những người sản xuất hiệu quả.
Những người sản xuất có cơ chế sản xuất kém hiệu quả sẽ có tỷ suất lợi nhuận
thấp, khả năng mua nguồn lực sản xuất thấp, sức cạnh tranh kém sẽ bị đào thải.

2.2. Nhược điểm
- Cơ chế phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế thị trường có thể dẫn tới bất
bình đẳng. Đấy là chưa kể vấn đề thông tin không hoàn hảo có thể dẫn tới việc
phân bổ nguồn lực không hiệu quả. Do một số nguyên nhân, giá cả có thể không
linh hoạt trong các khoảng thời gian ngắn hạn khiến cho việc điều chỉnh cung
cầu không suôn sẻ, dẫn tới khoảng cách giữa tổng cung và tổng cầu. Đây là
nguyên nhân của các hiện tượng thất nghiệp, lạm phát.
5
Tiểu luận đường lối Đảng cộng sản Việt Nam
- Trong thực tế hiện nay, không có một nền kinh tế thị trường hoàn hảo,
cũng như không có nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung hoàn toàn (trừ nền kinh tế
Bắc Triều Tiên). Thay vào đó là nền kinh tế hỗn hợp. Tùy ở mỗi nước mà các
yếu tố thị trường nhiều hay ít.
- Trong thương mại quốc tế, mức độ thị trường hóa nền kinh tế có thể
được sử dụng làm tiêu chí trong xác định điều kiện thương mại giữa hai nước.
CHƯƠNG II : Chuyển biến đổi mới trong tư duy, nhận thức của Đảng về
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Sự thay đổi này không ngay lập tức có được mà nó phải trải qua cả một quá
trình nhận thức sai lầm định hướng trong tương lai, và Đảng ta cũng gặp phải
điều này trong cơ chế quản lý, phát triển nền kinh tế của mình, sựu thay đổi trải
qua từng giai đoạn, giai đoạn sau hoàn thiện hơn, nhận thức đúng đắn hơn giai
đoạn trước :
1. Giai đoạn đầu hình thành kinh tế thị trường trong tư duy xây dựng kinh tế
của Đảng ta
1.1.Thừa nhận kinh tế thị trường nhưng không coi nền kinh tế của ta là kinh tế
thị trường
Điều này được Đảng ta khẳng định tại đại hội VI “ thực chất của cơ chế
mới là cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hoạch toán kinh doanh xã hội chủ
nghĩa đúng nguyên tắc tập trung dân chủ”(trích văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI, tr.47), ta thực hiện :

+ Chuyển nền kinh tế tự cấp tự túc sang nền kinh tế hàng hóa
+ Chính sách kinh tế nhiều thành phần
-Xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp
-Xây dựng cơ chế mới phù hợp với quản lý khách quan và trình đọ phát
triển kinh tế
Đảng ta đưa ra đường lối đổi mới toàn diện, mà trọng tâm là đặt vào đổi mới
kinh tế, ở giai đoạn này cũng đưa ra những quan niệm mới về con đường,
6
Tiểu luận đường lối Đảng cộng sản Việt Nam
phương pháp xây dựng CNXH trong thời kỳ quá độ, về cơ cấu kinh tế thừa nhận
sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hóa và thị trường, phê phán xóa bỏ cơ
chế tập rung quan liêu bao cấp, khẳng định chuyển hẳn sang hoạch toán kinh
doanh đó là dấu hiệu để ta khẳng định rằng Đảng ta thừa nhận nền kinh tế thị
trường
1.2. Kinh tế thị trường là thành tựu chung của nhân loại không phải cái
riêng của chủ nghĩa tư bản, không đối lập với chủ nghĩa xã hội
Kinh tế thị trường đã có mầm mống từ trong xã hội nô lệ, hình thành trong xã
hội phong kiến và phát triển cao trong chủ nghĩa tư bản. Kinh tế thị trường và
kinh tế hàng hóa có cùng bản chất đều nhằm sản xuất ra để bán, đều nhằm mục
đích giá trị và đều trao đổi thông qua quan hệ hàng hóa – tiền tệ. Kinh tế hàng
hóa và kinh tế thị trường đều dựa trên cơ sở phân công lao động xã hội và các
hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, làm cho những người sản xuất
vừa độc lập, vừa phụ thuộc vào nhau. Trao đổi mua bán hàng hóa là phương
thức giải quyết mâu thuẫn trên.
Tuy nhiên, kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường có sự khác nhau về trình độ
phát triển. Kinh tế hàng hóa ra đời từ kinh tế tự nhiên, đối lập với kinh tế tự
nhiên, nhưng còn ở trình độ thấp, chủ yếu là sản xuất hàng hóa tư nhân, quy mô
nhỏ bé, kỹ thuật thủ công, năng suất thấp. Còn kinh tế thị trường là kinh tế hàng
hóa phát triển cao. Kinh tế thị trường lấy khoa học, công nghệ hiện đại làm cơ
sở và nền sản xuất xã hội hóa cao.

Kinh tế thị trường có lịch sử phát triển lâu dài, nhưng cho đến nay nó mới biểu
hiện rõ rệt nhất trong chủ nghĩa tư bản. Nếu trước chủ nghĩa tư bản, kinh tế thị
trường còn ở thời kỳ manh nha, trình độ thấp thì trong chủ nghĩa tư bản nó đạt
đến trình độ cao đến mức chi phối toàn bộ cuộc sống của con người trong xã hội
đó. Điều đó khiến cho người ta nghĩ rằng kinh tế thị trường là sản phẩm riêng
của chủ nghĩa tư bản.
Chủ nghĩa tư bản không sản sinh ra kinh tế hàng hóa, do đó, kinh tế thị trường
với tư cách là kinh tế hàng hóa ở trình độ cao không phải là sản phẩm riêng của
7
Tiểu luận đường lối Đảng cộng sản Việt Nam
chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu phát triển chung của nhân loại. Chỉ có thể chế
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hay cách sử dụng kinh tế thị trường theo lợi
nhuận tối đa của chủ nghĩa tư bản mới là sản phẩm của chủ nghĩa tư bản.
Tại hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1-1994) Đảng khẳng
định(trích văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, tr.66):
+ Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần đang hình thành. Và cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN đang trở thành cơ chế vận hành
của nền kinh tế.
+ Có nghĩa là nền kinh tế của ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, theo
định hướng XHCN, còn có chế vận hành của nền kinh tế đó là cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước.
+ Cuối nhiệm kỳ Đại hội VII, Nghị quyết của Bộ Chính trị về công tác lý luận
đã nhận định: “Thị trường và kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của
CNTB mà là thành tựu chung của văn minh nhân loại”. Theo nhận định này, thị
trường, kinh tế thị trường đã từng tồn tại và phát triển qua những phương thức
sản xuất khác nhau. Nó có trước CNTB, trong CNTB và cả sau CNTB. Nếu
trước CNTB nó vận động và phát triển ở mức khởi phát, manh nha, còn ở trình
độ thấp thì trong xã hội TBCN, nó đạt tới đỉnh cao đến mức chi phối toàn bộ
cuộc sống của con người trong xã hội đó, làm cho người ta nghĩa rằng nó chính
là CNTB.

+ Như vậy, trong thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH, kinh tế thị trường còn tồn
tại là tất yếu. Kinh tế thị trường không đối lập với CNXH.
- Đại hội VIII (1996) bổ sung một số nhận thức về cơ chế quản lý kinh tế:
+ Xác định “phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN”. QHSX, chế độ sở
hữu, cơ chế quản lý, chế độ phân phối gắn kết với nhau.
+ Về lý luận, Đại hội VIII nhấn mạnh một quan điểm đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế của các Hội nghị Trung ương và BCT, đồng thời phát triển thêm:
Một là: Sản xuất hàng hoá, cơ chế thị trường không đối lập với CNXH mà là
thành tựu phát triển của văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho
công cuộc xây dựng CNXH.
8
Tiểu luận đường lối Đảng cộng sản Việt Nam
Hai là: Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta, thị trường theo
định hướng XHCN là một thể thống nhất với nhiều lực lượng tham gia sản xuất
và lưu thông, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Thị trường trong
nước gắn với thị trường thế giới.
Ba là: Thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch. Kế hoạch chủ
yếu mang tính định hướng vĩ mô, thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các
đơn vị kinh tế lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh.
Bốn là: Vận dụng cơ chế thị trường đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý vĩ
mô của nhà nước, đồng thời phải xác lập đầy đủ chế độ tự chủ của các đơn vị
sản xuất kinh doanh nhằm phát huy tác động tích cực đi đôi với việc ngăn ngừa,
hạn chế và khắc phục những mặt tiêu cực của thị trường. Nhà nước quản lý kinh
tế thị trường bằng pháp luật, kế hoạch, cơ chế chính sách, các công cụ đòn bẩy
kinh tế và các nguồn lực chủ đạo của kinh tế Nhà nước .
Như vậy, Đảng ta đã dần nhận thức,định hình được con đường phát triển kinh tế,
con đường không phải là không phù hợp cho một nước quá độ lên chủ nghĩa xã
hội như nước ta.
1.3. Kinh tế thị trường tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ

nghĩa xã hội
Đại hội VII của Đảng (6-1991) trong khi khẳng định chủ trương tiếp tục
xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, phát huy thế mạnh của các
thành phần kinh tế quốc dân thống nhất, đã đưa ra kết luận quan trọng rằng sản
xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, nó tồn tại khách quan và cần
thiết cho xây dựng xã hội chủ nghĩa. Tại đại hội cũng xác định cơ chế vận hành
của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta là “cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước” bằng pháp luật, kế
hoạch chính sách và các công cụ khác. Trong cơ chế kinh tế đó, các đơn vị kinh
tế có quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, quan hệ bình đẳng, cạnh tranh hợp
pháp, hợp tác và liên doanh có hiệu quả, nhà nước quản lý nền kinh tế để định
hướng dẫn dắt các thành phần kinh tế, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho
9
Tiểu luận đường lối Đảng cộng sản Việt Nam
sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, nhà nước quản lý nền kinh tế để định hướng
dẫn dắt các thành phần kinh tế, đảm bảo hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát
triển xã hội.
Tiếp tục đường lối trên, Đại hội VIII (6-1996) đề ra nhiệm vụ đẩy mạnh công
cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
1.4. Đảng và sự cấp thiết của kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã
hội(CNXH)
Kinh tế thị trường không đối lập với chủ nghĩa xã hội, nó còn tồn tại
khách quan trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Vì vậy, có thể và cần thiết sử dụng
kinh tế thị trường để xây dựng CNXH ở nước ta.
Kinh tế thị trường là thành tựu của văn minh nhân loại, bản thân kinh tế thị
trường không có thuộc tính xã hội, vì vậy, kinh tế thị trường có thể sử dụng ở
các chế độ xã hội khác nhau. Ở bất kỳ xã hội nào, khi lấy thị trường làm phương
tiện có tính cơ sở để phân bổ các nguồn lực kinh tế, thì kinh tế thị trường cũng

có những đặc điểm chủ yếu sau:
- Chủ thể kinh tế có tính độc lập, có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, lỗ,
lãi tự chịu.
- Giá cả cơ bản do cung cầu điều tiết, hệ thống thị trường phát triển đồng bộ và
hoàn hảo.
- Nền kinh tế có tính mở cao và vận hành theo quy luật vốn có của kinh tế thị
trường như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh.
- Có hệ thống pháp quy kiện toàn và sự quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Với những đặc điểm trên, kinh tế thị trường có vai trò rất lớn đối với sự phát
triển kinh tế, xã hội.
Trước đổi mới, do chưa thừa nhận trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn
tồn tại sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường nên chúng ta đã xem kế hoạch là
đặc trưng quan trọng nhất của kinh tế xã hội chủ nghĩa, đã thực hiện phân bổ
mọi nguồn lực theo kế hoạch là chủ yếu, còn thị trường chỉ được coi là một công
cụ thứ yếu bổ sung cho kế hoạch do đó không cần thiết sử dụng kinh tế thị
trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
10
Tiểu luận đường lối Đảng cộng sản Việt Nam
Vào thời kỳ đổi mới, chúng ta ngày càng nhận rõ kinh tế thị trường, nếu biết vận
dụng đúng, thì có vai trò rất lớn đối với sự phát triển kinh tế – xã hội. Có thể
dùng cơ chế thị trường làm cơ sở phân bổ các nguồn lực kinh tế, dùng tín hiệu
giá cả để điều tiết chủng loại và số lượng hàng hóa, điều hòa quan hệ cung cầu,
điều tiết tỷ lệ sản xuất thông qua cơ chế cạnh tranh, thúc đẩy cải tiến bộ, đào thải
cái lạc hậu, yếu kém.
1.5.Giai đoạn Đảng xác định kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ
Đại hội IX của Đảng (2001) chính thức đưa ra khái niệm "kinh tế thị
trường định hướng XHCN"( trích văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, tr.32):
+ Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính

sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN, đó chính là nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN. Kinh tế thị trường định hướng XHCN là
mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội, là đường lối chiến lược nhất quán.
+ Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là một kiểu tổ chức
kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở
và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội,
thể hiện trên cả ba mặt: Sở hữu, tổ chức quản lý, và phân phối. Nói cách khác,
kinh tế thị trường định hướng XHCN chính là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, nhằm mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
+ Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là phát triển lực
lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại
gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu,
quản lý và phân phối.
11
Tiểu luận đường lối Đảng cộng sản Việt Nam
+ Kinh tế thị trường định hướng XHCN có nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà
nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. Các
thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan
trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Các thành phần đó bao gồm
cả kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư
nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
1.6.Giai đoạn hoàn thiện các thể chế và các chủ trương về phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Đại hội X của Đảng chủ trương( trích văn kiện hội nghị lần thứ sáu Ban
chấp hành TƯ khóa X,tr.136):

+ “Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN”.
+ Bốn nội dung quan trọng nhất là: Nắm vững định hướng XHCN trong
nền kinh tế nước ta, nâng cao vai trò và hoàn thiện quản lý của Nhà nước, phát
triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản theo
cơ chế cạnh tranh lành mạnh, phát triển mạnh các thành phần kinh tế và các loại
hình sản xuất, kinh doanh.
+ Quyết định đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và
đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục
vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất (chủ đề về kinh tế của Đại hội: “Tích
cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”)
+ Làm rõ hơn về định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường ở nước
ta, dựa trên 4 tiêu chí:
- Mục đích phát triển: Vì con người, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; giải phóng mạnh mẽ và không
ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xóa đói,
giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng
- Phương hướng phát triển: Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế
nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của
nền kinh tế quốc dân.
12
Tiểu luận đường lối Đảng cộng sản Việt Nam
- Định hướng xã hội và phân phối: Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi
với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục ., giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục
tiêu phát triển con người. Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao
động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực
khác và thông qua phúc lợi xã hội.
- Định hướng XHCN trong quản lý: Phát huy quyền làm chủ xã hội của
nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết kinh tế của Nhà nước pháp quyền

XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, người lao động là người chủ xã hội. Người công nhân dù làm trong xí
nghiệp tư nhân vẫn là người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Vai trò quản lý,
điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của
Đảng là sự thể hiện rõ rệt định hướng XHCN. - Định hướng XHCN là một tất
yếu, là sự lựa chọn phù hợp với nội dung của thời đại - thời đại quá độ từ CNTB
lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới. Định hướng XHCN ở nước ta là nhằm
mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH thể hiện trong toàn bộ các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Đây không chỉ là một tất yếu về chính trị và nguyện vọng
mong muốn của nhân dân ta, mà còn là một tất yếu kinh tế, văn hóa, xã hội
Tóm lại, lựa chọn mô hình kinh tế thị trương định hướng XHCN ở Việt
Nam không phải là sự gán ghép chủ quan giữa kinh tế thị trường và CNXH, mà
là sự nắm bắt và vận dụng xu thế khách quan của kinh tế thị trường trong thời
đại ngày nay. Trên cơ sở nhận thức tính quy luật phát triển của thời đại, khái
quát, đúc kết kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường thế giới, đặc biệt là thực
tế xây dựng CNXH ở Trung Quốc và Việt Nam, Đảng đưa ra chủ trương phát
triển nền kinh tế thị trương định hướng XHCN thể hiện tư duy, quan niệm của
Đảng ta về sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ của LLSX trong thời
kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.Khái quát những chuyển biến cơ bản trong tư
duy lý luận kinh tế của Đảng từ quá trình đổi mới nhận thức của Đảng về kinh tế
13
Tiểu luận đường lối Đảng cộng sản Việt Nam
thị trường, có thể khái quát những nét chuyển biến cơ bản, chính yếu trong tư
duy lý luận kinh tế của Đảng như sau:
- Trước đổi mới, chúng ta coi kinh tế XHCN và kinh tế TBCN (hay kinh
tế thị trường) là hai phương thức kinh tế khác nhau về bản chất và đối lập với
nhau cả về chế độ sở hữu, chế độ quản lý, chế độ phân phối và mục đích phát
triển. Kinh tế XHCN vận động theo các quy luật của CNXH, còn kinh tế TBCN
thì vận động theo các quy luật của CNTB (tất nhiên trong khi nói đến kinh tế kế
hoạch chúng ta cũng đã từng nói đến hạch toán và kinh doanh XHCN, vận dụng

quan hệ hàng hóa - tiền tệ, coi lợi ích vật chất và khuyến khích vật chất là một
động lực của sự phát triển).
- Sau đổi mới, tư duy của chúng ta về kinh tế có nhiều sự phát triển so với
trước. Nhìn khái quát đã có những sự thay đổi lớn như sau: + Từ quan niệm kinh
tế thị trường gắn liền và phản ánh bản chất của CNTB, đến chỗ thừa nhận kinh
tế thị trường không phải là cái riêng có của CNTB, cũng không đối lập với
CNXH. Sản xuất hàng hóa không đối lập với CNXH, mà là thành tựu của văn
minh nhân loại Lịch sử phát triển nền sản xuất xã hội cho thấy sản xuất và trao
đổi hàng hóa là tiền đề quan trọng cho sự ra đời và phát triển của kinh tế thị
trường. Thị trường giữ vai trò là một công cụ phân bổ các nguồn lực kinh tế.
Trong một nền kinh tế khi các nguồn lực kinh tế được phân bổ bằng nguyên tắc
thị trường thì người ta gọi đó là kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường đã có mầm
mống từ trong xã hội nô lệ, hình thành trong xã hội phong kiến và phát triển cao
trong xã hội TBCN. Kinh tế thị trường và kinh tế hàng hóa có cùng bản chất đều
nhằm sản xuất ra để bán, đều nhằm mục đích giá trị và đều trao đổi thông qua
quan hệ hàng hóa – tiền tệ. Kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường đều dựa trên
cơ sở phân công lao động xã hội và các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu
sản xuất, làm cho những người sản xuất vừa độc lập vừa phụ thuộc vào nhau.
Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa phát triển cao, đạt đến trình độ là thị
trường trở thành yếu tố quyết định sự tồn tại hay không tồn tại của người sản
xuất hàng hóa. Kinh tế thị trường lấy khoa học, công nghệ hiện đại làm cơ sở và
14
Tiểu luận đường lối Đảng cộng sản Việt Nam
nền sản xuất xã hội hóa cao. Kinh tế thị trường có lịch sử phát triển lâu dài,
nhưng cho đến nay nó mới biểu hiện rõ rệt nhất trong CNTB. Nếu trước CNTB,
kinh tế thị trường còn ở thời kỳ manh nha, trình độ thấp thì trong CNTB nó đạt
đến trình độ cao đến mức chi phối toàn bộ cuộc sống con người trong xã hội đó.
Điều đó khiến cho không ít người nghĩ rằng kinh tế thị trường là sản phẩm riêng
của CNTB.
+ Sản xuất hàng hóa tồn tại khách quan, cần thiết trong quá trình xây

dựng CNXH và cả khi CNXH đã được xây dựng Kinh tế thị trường xét dưới góc
độ “một kiểu tổ chức kinh tế” là phương thức tổ chức, vận hành nền kinh tế, là
phương tiện điều tiết kinh tế lấy cơ chế thị trường làm cơ sở để phân bổ các
nguồn lực kinh tế và điều tiết mối quan hệ giữa người với người. Kinh tế thị
trường chỉ đối lập với kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc, chứ không đối lập với các
chế độ xã hội. Là thành tựu chung của văn minh nhân loại, kinh tế thị trường tồn
tại và phát triển ở nhiều phương thức sản xuất khác nhau. Kinh tế thị trường vừa
có thể liên hệ với chế độ tư hữu vừa có thể liên hệ với chế độ công hữu và phục
vụ cho chúng. Vì vậy, kinh tế thị trường tồn tại khách quan trong thời quá độ lên
XHCN.
+ Có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng XHCN ở
nước ta. Ở bất kỳ xã hội nào, khi lấy thị trường làm phương tiện có tính cơ sở để
phân bổ các nguồn lực kinh tế, thì kinh tế thị trường cũng có những đặc điểm
chủ yếu sau: Các chủ thể kinh tế có tính độc lập, nghĩa là có quyền tự chủ trong
sản xuất, kinh doanh, lỗ, lãi tự chịu. Giá cả cơ bản do cung cầu điều tiết, hệ
thống thị trường phát triển đồng bộ và hoàn hảo. Nền kinh tế có tính mở cao và
vận hành theo quy luật vốn có của kinh tế thị trường như quy luật giá trị, quy
luật cung cầu, quy luật cạnh tranh. Có hệ thống pháp quy kiện toàn và sự quản lý
vĩ mô của Nhà nước.
+ Từ quan niệm CNXH chỉ có một chế độ sở hữu duy nhất là chế độ công
hữu về tất cả các tư liệu sản xuất (bao gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể) đã
đi đến quan niệm nền kinh tế của ta hiện nay và sau này có ba chế độ sở hữu cơ
15
Tiểu luận đường lối Đảng cộng sản Việt Nam
bản là toàn dân, tập thể, tư nhân, trên cơ sở đó, hình thành nhiều hình thức sở
hữu và nhiều thành phần kinh tế khác nhau như kinh tế nhà nước, kinh tế tập
thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước và
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
+ Từ quan niệm cho rằng để xây dựng được QHSX XHCN phải nhanh
chóng hoàn thành việc cải tạo kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể tiểu chủ là

những thành phần kinh tế phi XHCN, đã đến quan niệm rằng trong xây dựng
CNXH, phải ưu tiên phát triển LLSX, còn cải tạo QHSX cũ, xây dựng QHSX
mới nhất thiết phải phù hợp với từng bước phát triển của LLSX.
+ Từ quan niệm hai thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, với
việc xóa bỏ nhanh chóng các thành phần kinh tế phi XHCN, ngay từ đầu . Quá
trình đổi mới nhận thức về kinh tế thị trường của Đảng và mô hình kinh tế tổng
quát thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam
Sơ đồ về sự phát triển trong nhận thức hình thành và phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng ta:
16
Tiểu luận đường lối Đảng cộng sản Việt Nam
C: KẾT LUẬN
17
Hoàn chỉnh
Xây dựng làm mô hình kinh tế
tổng quát
Nhận thấy sự cấp thiết
Kinh tế thị trường tồn tại khách quan trong quá trường
độ chủ nghĩa xã hội
Kinh tế thị trường là thành tựu chung, không đối lập với chủ nghĩa
xã hội
Thừa nhận nền kinh tế thị trường
Tiểu luận đường lối Đảng cộng sản Việt Nam
Như vậy có thể thấy, trong giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới, chúng ta
còn rất thận trọng, thậm chí còn e ngại, chưa đề cập đến kinh tế thị trường, lúc
đó Đảng ta mới nêu ra quan điểm: phát triển nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch
gồm nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội, hầu như chưa nói tới cơ chế thị
trường, càng chưa nói tới phát triển nền kinh tế thị trường.Tuy nhiên theo thời
gian thực hiện áp dụng vào thực tế Đảng và Nhà nước bắt đầu có những sự
chuyển biến trong cách vận hành: từ chỗ chỉ nhận thức chứ không chấp nhận

một cơ chế kinh tế mới, để rồi đi sâu nhận định tìm hiểu yếu tố khách quan cảu
cơ chế kinh tế thị trường có phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa cảu nước
nhà hay không, rồi tiến lên lấy đó là mô hình tổng quát trọng tâm để phát triển,
khôi phục những sai lầm hạn chế trước đó, ta rõ ràng có thể nhìn thấy từng nấc
thang trong sự phát triển đó, nó đi lên từ từ cái sau hoàn thiện cái trước bổ sung
thiếu sót cho cái trước đó. Sau hơn 20 năm đổi mới, phát triển nền kinh tế thị
trường, chúng ta đã đạt được những thành tựu rất to lớn trên hầu hết các mặt, các
lĩnh vực của đời sống kinh tế, nhưng xét riêng về khía cạnh phát triển thị trường,
chúng ta vẫn đang ở trình độ rất thấp, các loại thị trường chưa đồng bộ, nhiều thị
trường còn rất sơ khai, tiềm ẩn nhiều rủi ro, bất trắc. Thị trường còn bị chia cắt.
Điều tiết vĩ mô của Nhà nước còn nhiều bất cập, khu vực kinh tế nhà nước và
doanh nghiệp nhà nước hiệu quả hoạt động thấp, các nguồn lực của quốc gia
chưa được sử dụng một cách hiệu quả Đó cũng là những thách thức rất lớn đối
với chúng ta trong quá trình tiếp tục phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
18
Tiểu luận đường lối Đảng cộng sản Việt Nam
D: DANH MỤC THAM KHẢO
1. Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam, tháng 6 năm 2012
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (Hà Nội, 1989): Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu
Ban Chấp hành Trung ương khoá VI,tr.13, 17.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI, Sđd, tr.47.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
Sđd, tr.23-24, 63, 65, 63.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII, Sđd, tr.66, 49.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Sđd, tr.26.
7 .Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,

Sđd, tr.32.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành
Trung ương khoá X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr.136.
9. Giáo trình đường lối Đảng cộng sản Việt Nam, nhà xuất bản chính trị quốc
gia sự thật, năm xuất bản 2012
E: NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ
19

×