Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Nhận xét các tác dụng phụ xa trong điều trị TKMP bằng phương pháp gây dính bột talc qua NSMP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (316.94 KB, 64 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Tràn khí màng phổi được định nghĩa là sự xuất hiện khí trong
khoang màng phổi [27]. Khái niệm này được Itard đề cập đến đầu tiên từ
năm 1803, sau đó các triệu chứng lâm sàng được Laennec mô tả vào năm
1819 [69]. Đây là một bệnh lý xảy ra đột ngột, đòi hỏi phải được xử trí
nhanh để loại bỏ khí trong khoang màng phổi (MP) trong trường hợp tràn
khí màng phổi (TKMP) nhiều, nhanh nếu không bệnh nhân có thể bị suy hô
hấp và nguy hiểm tới tính mạng.
Điều trị TKMP có 2 vấn đề cơ bản là: hút khí ra khỏi khoang MP và
phòng ngừa tái phát. Nội soi màng phổi (NSMP) với sự hỗ trợ của video
(VATS: video - assisted thoracoscopic surgery) ra đời đ• dần trở thành
phương pháp điều trị có hiệu quả các trường hợp TKMP tái phát và TKMP
hút dẫn lưu không kết quả mà không có chỉ định phẫu thuật cắt phổi vì
nhiều lý do (bệnh nhân lớn tuổi có bệnh lý phổi mạn tính, TKMP mà phổi
có nhiều bóng kén khí lan toả hoặc kén khí ở nhu mô phổi hai bên, hoặc
bệnh nhân trẻ tuổi quá mà việc phẫu thuật cắt phổi có thể ảnh hưởng lớn tới
sức lao động của người bệnh trong thời gian còn lại). Qua NSMP có thể
chà sát MP, cắt bóng khí, cắt thuỳ phổi có bóng khí, khâu lỗ thủng, cắt bỏ
MP, bơm hoá chất hay bột talc để gây dính MP.
Trong số các hoá chất được sử dụng để gây dính màng phổi thì bột
talc vẫn được coi là chất hóa học lý tưởng nên lựa chọn đầu tiên bởi vì bột
talc có hiệu quả điều trị cao nhất, chi phí thấp, sẵn có, dễ sử dụng và hầu
như không có tác dụng phụ nghiêm trọng nào xảy ra (Sahn (2000) [60]).
Trên thế giới đ• có nhiều công trình nghiên cứu đều cho thấy hiệu quả
của phương pháp NSMP gây dính bằng bột talc trong điều trị TKMP với tỷ
lệ thành công từ 90 - 100%, tỷ lệ tái phát thấp từ 2 - 14%. Tuy nhiên cũng
1
có một số nghiên cứu thấy bên cạnh khả năng gây dính màng phổi, bột talc
có thể gây nhiều tác dụng phụ. Những tai biến sớm có thể gặp như đau
ngực, sốt, nhiễm trùng khoang MP, ARDS, suy hô hấp, rối loạn huyết
động, thậm chí tử vong. Tác dụng phụ lâu dài của phương pháp gây dính


MP bằng bột talc có thể ảnh hưởng đến chức năng hô hấp, đau ngực mạn
tính, dầy dính MP, hình thành u bột talc (talcome) trong khoang màng phổi,
và nguy cơ ác tính hóa [35,58]. Và một vấn đề đặt ra là liệu việc sử dụng
bột talc để gây dính MP trong điều trị TKMP có thực sự an toàn, đặc biệt là
khi những BN TKMP có chỉ định NSMP gây dính bằng bột talc có tuổi đời
còn rất trẻ?
Ở Việt Nam nói chung và ở khoa Hô hấp Bệnh viện Bạch Mai nói
riêng, NSMP gây dính bằng bột talc đ• được thực hiện trong điều trị TKMP
từ nhiều năm nay và đ• có một số nghiên cứu bước đầu cho thấy đây là
phương pháp điều trị TKMP có hiệu quả cao với một số tác dụng phụ sớm
hay gặp là đau ngực, sốt. Tuy nhiên chưa có một nghiên cứu nào tại Việt
Nam theo dõi lâu dài những bệnh nhân TKMP được điều trị bằng phương
pháp này về tỷ lệ tái phát, các tác dụng phụ. Vì vậy, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài nhằm các mục tiêu sau:
1. Đánh giá tỷ lệ tái phát TKMP sau điều trị gây dính bằng bột talc
qua NSMP.
2. Nhận xét các tác dụng phụ xa trong điều trị TKMP bằng
phương pháp gây dính bột talc qua NSMP.
3. Kết quả của nghiên cứu sẽ góp phần đánh giá hiệu quả xa của
phương pháp NSMP gây dính bằng bột talc trong điều trị
TKMP, đồng thời đánh giá bước đầu các tác dụng phụ xa có thể
gặp khi gây dính MP bằng bột talc.
2
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Giải phẫu, mô học, sinh lý khoang màng phổi
1.1.1. Giải phẫu màng phổi
* MP là bao thanh mạc bọc quanh phổi, gồm có: lá thành và lá tạng.
Giữa hai lá thành và lá tạng là một khoang ảo đơược gọi là khoang màng
phổi. Tổng diện tích của hai lá màng phổi ở mỗi bên là 1m2.

- Lá tạng phủ toàn bộ bề mặt nhu mô phổi trừ rốn phổi. Lá tạng lách
vào khe liên thuỳ và ngăn các thuỳ với nhau. Mặt trong lá tạng dính chặt
vào phổi, mặt ngoài lá tạng nhẵn bóng áp vào lá thành.
- Lá thành bao phủ mặt trong của lồng ngực, cơ hoành, trung thất và
liên tiếp với lá tạng ở rốn phổi tạo nên dây chằng tam giác đi từ rốn phổi tới
cơ hoành. Lá thành quấn lấy phổi, dính vào các vùng xung quanh phổi tạo
nên các túi cùng (góc): góc sườn hoành, góc sườn trung thất trước, góc
sườn trung thất sau, góc hoành trung thất.
- Khoang MP là một khoang ảo. Hai lá thành và lá tạng của MP áp
sát nhau và có thể trượt lên nhau dễ dàng lúc hít vào hay thở ra.
* Phân bố mạch máu:
- Tơưới máu lá tạng do các nhánh của động mạch phổi. Các mao tĩnh
mạch đổ về các tĩnh mạch phổi, riêng ở rốn phổi mao tĩnh mạch đổ về tĩnh
mạch phế quản.
- Tươới máu lá thành do động mạch vú trong, động mạch liên sườn
và động mạch hoành, các động mạch này đều xuất phát từ động mạch chủ.
Các tĩnh mạch đổ về hệ tĩnh mạch azygos và tĩnh mạch vú trong. Tĩnh
mạch azygos đổ về tĩnh mạch chủ trên, còn tĩnh mạch vú trong đổ về tĩnh
mạch không tên.
3
* Phân bố bạch mạch: Các bạch mạch dưới thanh mạc của cơ hoành
có nhiều nhánh nối lớn đi xuyên cơ hoành. Do có sự nối thông này, khoang
MP và ổ bụng có thể thông thương với nhau. Các quá trình bệnh lý trong ổ
bụng có thể ảnh hưởng đến khoang MP. Hệ thống bạch mạch của MP còn
tham gia vào sự dẫn lưu của các bạch mạch của nhu mô phổi. Do vậy, khi
có bệnh lý ở khoang MP đều có ảnh hưởng đến nhu mô phổi và ngược lại.
* Phân bố thần kinh: Thần kinh của lá thành được phân nhánh từ
thần kinh liên sườn, thần kinh X, thần kinh giao cảm, thần kinh hoành.
Ngược lại, lá tạng được phân bố rất ít thần kinh (trừ khu vực các r•nh liên
thuỳ).

Bình thường lá thành và lá tạng không nhìn thấy được trên phim
Xquang chuẩn. Trong TKMP quan sát được lá tạng MP khi nhu mô phổi bị
xẹp lại do có không khí trong khoang MP.
1.1.2. Mô học màng phổi
Cấu trúc của màng phổi là màng liên kết từ trong ra gồm 5 lớp: [12]
- Lớp biểu mô (còn gọi là lớp trung biểu mô vì có nguồn gốc từ trung
bì): lớp này gồm các tế bào tựa lên một đáy dày 500-600 angstrom, phía
khoang MP bào tương các tế bào nhô thành các lông dài 0,5-3?m.
- Lớp liên kết dưới trung mô: là lớp liên kết mỏng chứa các sợi liên
võng và sợi chun mảnh, không có tế bào và mạch máu. Trong trường hợp
bệnh lý, lớp này dày lên và tăng sinh nhiều mạch máu.
- Lớp sợi chun nông: gồm những sợi chun khoẻ, sợi lưới và các bó
tạo keo.
- Lớp liên kết dưới MP: giàu tế bào, mạch máu, mạch bạch huyết,
thần kinh, cấu trúc lỏng lẻo dễ tách.
4
- Lớp xơ chun sâu: lớp này dầy hơn lớp dưới biểu mô, bao phủ phổi
và thành ngực. Phía trong tiếp giáp với mô liên kết kém biệt hoá chứa
nhiều mạch máu và mô bào.
1.1.3. Sinh lý màng phổi
MP giữ một vai trò quan trọng trong sinh lý hô hấp, đồng thời cũng là
nơi trao đổi, vận chuyển dịch và tế bào. MP tham gia vào phản ứng miễn
dịch và phản ứng viêm để đáp ứng với mọi tấn công của môi trường bên
ngoài cũng như bên trong. Thể tích dịch MP sinh lý là 1-10ml hoặc 0,1-
0,2ml/kg cân nặng cơ thể. Nồng độ protein dịch MP khoảng 1g/dl .
Dịch MP sinh lý được tạo ra chủ yếu từ các hệ thống mao quản ở lá
thành. Sự kiểm soát dịch, các protein và các hạt trong khoang MP chủ yếu
do MP thành, nhờ có mạng bạch huyết lưu thông thẳng với khoang MP.
Bình thường quá trình bài tiết dịch thấm và tái hấp thu dịch ở MP được cân
bằng để đảm bảo cân bằng động thể tích và thành phần dịch MP.

Hệ thống bạch huyết của MP thành có vai trò chính trong hấp thu vào
trong hệ tuần hoàn dịch MP và các hạt có kích thước bằng hồng cầu. Khả
năng dẫn lưu của hệ thống bạch huyết của MP thay đổi từ vài chục ml cho
đến 600ml trong 24 giờ [5].
Sự mất cân bằng giữa quá trình bài tiết và hấp thu dịch MP, sự cản
trở lưu thông của hệ bạch huyết MP sẽ gây ra tràn dịch MP.
1.2. Tràn khí màng phổi
1.2.1. Định nghĩa, phân loại tràn khí màng phổi
* Tràn khí màng phổi là sự xuất hiện khí ở trong khoang MP [26].
* Tràn khí màng phổi được phân loại [40,61]:
- Tràn khí màng phổi tự phát: xảy ra không do chấn thương hoặc
nguyên nhân nào khác trước đó. TKMPTP lại được phân chia thành:
5
Tràn khí màng phổi tự phát nguyên phát: xảy ra ở người khoẻ mạnh,
không có bệnh lý về phổi.
Tràn khí màng phổi tự phát thứ phát: là biến chứng của bệnh phổi,
hay gặp nhất là BPTNMT, viêm phổi do Pneumocystis carinii [61].
- Tràn khí màng phổi do chấn thương: xảy ra do hậu quả trực tiếp
hoặc gián tiếp của chấn thương vào lồng ngực bao gồm cả TKMP do các
kỹ thuật chẩn đoán và điều trị.
1.2.1.1. Tràn khí màng phổi tự phát
a) Tràn khí màng phổi tự phát nguyên phát
Theo nghiên cứu của Melton LJ và cs từ 1950-1974, tỷ lệ TKMP tự
phát nguyên phát mỗi năm là 7,4-18/100.000 với nam và 1,2-6/100.000 với
nữ [42]. Bệnh thường gặp ở nam giới cao, gầy trong độ tuổi 10 - 30 tuổi, ít
gặp ở những người trên 40 tuổi. Tỷ lệ mắc ở nam so với nữ là 6,2/1 [26].
Những người hút thuốc làm tăng nguy cơ mắc TKMPTP nguyên phát:
ở nam giới hút thuốc lá mức độ nhẹ (1-12 điếu/ngày) có nguy cơ mắc gấp 7
lần, TB 13-22 điếu/ngày nguy cơ gấp 21 lần. ở người hút thuốc lá nặng (>
22 điếu/ngày) nguy cơ này gấp 101 lần. ở nữ có hút thuốc lá, nguy cơ mắc

TKMP tăng tương ứng là 4, 14 và 68 lần [16]. Người ta cho rằng hút
thuốc gây ra tổn thương ở những đường dẫn khí nhỏ và tạo ra các kén
khí dưới MP.
Mặc dù TKMPTP nguyên phát xảy ra ở những người không có
bệnh lý phổi rõ ràng nhưng người ta có thể phát hiện được các kén khí dưới
MP ở 76 - 100% các bệnh nhân trong quá trình NSMP [62,63], và ở hầu
hết các BN khi phẫu thuật mở ngực. Chụp cắt lớp ngực có sử dụng vi tính
có thể phát hiện được các bóng khí cùng bên trong 89% BN TKMPTP
nguyên phát [38,45].
6
Cơ chế của sự hình thành kén khí vẫn còn đang được nghiên cứu. Có
một giả thiết cho rằng đó là do sự xâm nhập của các bạch cầu trung tính và
đại thực bào gây ra sự thoái biến của các sợi đàn hồi xảy ra trong phổi của
những người hút thuốc. Sự thoái biến này gây ra sự mất cân bằng trong hệ
thống protease-antiprotease, chất oxy hoá và kháng oxy hoá [61]. TKMPTP
nguyên phát được cho là kết quả của sự vỡ kén khí dưới MP, thường gặp
tổn thương ở đỉnh phổi [62]. Bệnh sinh của vỡ kén khí chưa rõ ràng. Yếu tố
tạo thuận lợi cho kén khí dễ vỡ là nhiễm khuẩn cấp (nhất là nhiễm virus)
gây viêm phế nang hay do một gắng sức thể lực [7] và không khí từ chỗ vỡ
của bóng khí đi vào khoang MP [49]. Phần lớn các BN TKMP không có
tràn dịch MP trên phim xquang phổi chuẩn. Lý do là TKMP làm tăng áp
lực trong khoang MP, ngăn cản dịch từ mô kẽ di chuyển vào khoang MP.
Bệnh nhân bị TKMPTP nguyên phát thường xảy ra ở người cao, gầy.
Điều này có thể giải thích: áp lực khoang MP giảm khoảng 0,2cm nước với
mỗi cm chiều cao, áp lực khoang MP sẽ âm hơn ở đỉnh phổi của người cao
so với người thấp nên các phế nang vùng đỉnh phổi sẽ căng hơn do chịu
áp lực lớn hơn. Trong giai đoạn gi•n ra dễ dẫn đến hình thành kén khí
dưới MP.
Tỷ lệ tái phát TB của TKMPTP nguyên phát được điều trị bằng các
phương pháp: nằm nghỉ tại giường, chọc hút khí và dẫn lưu MP là 30%,

thay đổi từ 16 - 52% [13]. Sadikot RT và cs (1997) có nhận xét tỷ lệ tái
phát không liên quan đến chiều cao và cân nặng của BN, điều trị ban đầu
cũng như thể tích của TKMP. Tỷ lệ tái phát thường gặp ở nam giới cao hơn
là nữ giới. Ngừng hút thuốc làm giảm nguy cơ tái phát TKMP [59]. Không
có sự liên quan giữa số lượng của kén khí hoặc kích thước của kén khí trên
phim CLVT ngực hoặc thấy trên bề mặt của phổi khi mở ngực với sự tái
phát của TKMP.
7
b) Tràn khí màng phổi tự phát thứ phát
TKMPTP thứ phát xảy ra thường nặng hơn TKMPTP nguyên phát
do tràn khí trên nền bệnh phổi có từ trước.
Tỷ lệ mắc của TKMPTP thứ phát ở nam là 6,3/100.000 dân mỗi năm
đối với nam và 2/100.000 dân đối với nữ. Tỷ lệ nam/nữ là 3,2/1 [26]. Bệnh
gặp nhiều nhất ở lứa tuổi 60 - 65 và ở những người bị bệnh phổi tắc nghẽn
m•n tính.
Những nguyên nhân gây TKMPTP thứ phát: BPTNMT, hen phế
quản, xơ phổi, viêm phổi kẽ, bệnh bụi phổi, lao phổi, viêm phổi do
Pneumocystis carinii, viêm phổi hoại tử, ung thư phổi, ung thư di căn
màng phổi
TKMPTP thứ phát xảy ra khi áp lực phế nang vượt quá áp lực mô kẽ
của phổi, khí từ các phế nang bị vỡ đi vào khoang MP [61].
Tỷ lệ tái phát của TKMPTP thứ phát thay đổi từ 39 - 47%. Những
yếu tố nguy cơ tái phát của TKMPTP thứ phát là: tuổi, xơ phổi và khí phế
thũng [41,63].
c) Tràn khí màng phổi ở BN đang có kinh nguyệt
TKMP theo chu kỳ kinh đề cập đến TKMP xảy ra trong chu kỳ kinh
nguyệt. Bệnh lý này chiếm 2,8 - 5,6% TKMPTP ở nữ [51]. Tình trạng bệnh
lý này hay gặp ở phụ nữ độ tuổi 30 - 40 tuổi, đặc biệt là có tiền sử lạc nội
mạc tử cung (20 - 40%). Thường gặp tràn khí phổi phải (90 - 95%) và
xảy ra trong vòng 72 giờ sau khi có kinh nguyệt. Tỷ lệ tái phát của

TKMP ở những phụ nữ được điều trị bằng liệu pháp hormon là 50%
trong 1 năm [26].
Cơ chế gây bệnh gồm nhiều yếu tố: [23]
- Vỡ các bóng khí hoặc phế nang dưới tác động của Prostaglandin
Fơ2 tăng cao trong thời gian có kinh nguyệt.
8
- Cơ hoành có lỗ thủng bẩm sinh, trong thời gian có kinh nguyệt, nút
nhầy cổ tử cung bong ra, không khí đi vào tử cung rồi qua ống dẫn trứng
vào ổ bụng, sau đó qua lỗ thủng cơ hoành gây TKMPTP.
- Lạc nội mạc tử cung tại phổi, MP và cơ hoành [66].
1.2.1.2. Tràn khí màng phổi do chấn thương
TKMP do chấn thương là hậu quả của chấn thương ngực kín hoặc hở.
Điều trị cần phải đặt dẫn lưu khoang MP, đặc biệt là khi có tràn máu MP
kèm theo.
TKMP do các kỹ thuật chẩn đoán và điều trị là một týp của TKMP do
chấn thương. Với sự phát triển của những thủ thuật có tính chất xâm lấn để
chẩn đoán và điều trị, loại TKMP này ngày càng phổ biến, tuy nhiên phần
lớn các trường hợp có ít các triệu chứng lâm sàng [26]. Những nguyên
nhân hay gặp gây ra loại TKMP này là: chọc dò qua thành ngực, sinh thiết
MP, sinh thiết xuyên vách phế quản, sinh thiết xuyên thành ngực, đặt
catheter tĩnh mạch trung tâm
1.2.1.3. Tràn khí màng phổi ở bệnh nhân AIDS
TKMPTP có thể gặp ở 2 - 6% BN nhiễm HIV, trong đó 80% những
BN này có liên quan đến viêm phổi do Pneumocystis carinii. Tỷ lệ chết
trong bệnh viện là trên 25% và thời gian sống TB là 3 tháng. Cơ chế gây ra
TKMP là sự vỡ của các kén khí lớn dưới MP có liên quan đến sự hoại tử tổ
chức dưới MP. Tái phát của TKMP ở BN AIDS cùng bên hoặc đối bên rất
thường gặp [26].
1.2.2. Hậu quả sinh lý của tràn khí màng phổi
Khoang MP bình thường không có khí. Có khí trong khoang MP là

hiện tượng bất thường. Tuỳ theo lượng khí trong khoang MP nhiều hay ít
có thể gây ra những ảnh hưởng đến nhiều cơ quan trong cơ thể, trước hết là
hô hấp và tuần hoàn
9
* Ảnh hưởng đến hô hấp: Không khí lọt vào khoang MP làm xẹp
phổi. Khi hít vào khí không thể vào được các phế nang ở phần phổi xẹp,
đồng thời các phế nang ở phần phổi không bị xẹp cũng bị dồn nén, khí
không thể thoát ra ngoài trong động tác thở ra, khí cặn tồn dư trong phổi rất
lớn, có thông khí nhưng không có sự trao đổi khí. Nếu toàn bộ phổi bên bị
tràn khí bị xẹp, khả năng hô hấp của bên đó bị mất hoàn toàn. Nếu phổi chỉ
bị xẹp một phần thì khả năng hô hấp của bên đó bị mất đi một phần, phần
đó không chỉ tương ứng với thể tích phổi bị suy giảm mà còn lớn hơn rất
nhiều vì phần hoạt động thông khí của phần phổi còn lại không bị xẹp cũng
bị ảnh hưởng. Máu chứa nhiều CO2 từ động mạch phổi đưa đến phổi
không thể thải được CO2 ra, các phế nang cũng không nhận được O2, do
vậy, có tưới máu mà không có thông khí, hậu quả là giảm dung tích sống
cũng như áp lực oxy máu động mạch.
Phổi bên đối diện phía không có tràn khí cũng giảm hoạt động do: áp
lực dương bên phía phổi bị tràn khí làm trung thất bị đẩy sang bên phổi
lành và khuynh hướng tự co lại của phổi bên không bị tràn khí kéo trung
thất sang.
Các rối loạn nêu trên gây ra rối loạn thông khí hạn chế. TKMPTP
nguyên phát BN có thể chịu đựng được. Nếu chức năng phổi của BN bất
thường trước đó thì có thể dẫn đến suy hô hấp với sự giảm thông khí phế
nang và nhiễm toan hô hấp. Sau khi không khí được lấy ra khỏi khoang
MP, các rối loạn về hô hấp được cải thiện.
* ảnh hưởng đến tuần hoàn: áp lực âm tính trong lồng ngực giúp cho
máu tĩnh mạch trở về tim, tuần hoàn của hệ bạch huyết về tĩnh mạch
azygos dễ dàng. Trong TKMP, áp lực âm bị mất đi, tuần hoàn sẽ bị trở
ngại, đặc biệt là khi áp lực này trở nên dương tính.

10
Các yếu tố khác như: trung thất bị đẩy, cảm giác đau và tình trạng
sốc cũng ảnh hưởng đến mạch, huyết áp. Nếu có tràn dịch, tràn máu, tràn
mủ kèm theo thì tình trạng rối loạn tuần hoàn ngày càng nặng nề hơn.
* ảnh hưởng toàn thân: Tuỳ theo mức độ TKMP ít hay nhiều, tổn
thương phổi kèm theo như hen phế quản, BPTNMT, gi•n phế nang, lao
nặng hay nhẹ mà mức độ ảnh hưởng khác nhau. Ngoài ra, có thể gặp các
biến chứng như tràn dịch MP, nhiễm trùng khoang MP.
1.2.3. Chẩn đoán tràn khí màng phổi
a) Lâm sàng
BN TKMP thường được phát hiện với các triệu chứng đau ngực, khó
thở xuất hiện đột ngột.
Trường hợp TKMP nhiều có thể có suy hô hấp.
Khám thấy tam chứng Galliard bên phổi bị tràn khí. Các biểu hiện
lâm sàng đột ngột và rầm rộ tương ứng với thể tích tràn khí MP nhiều.
b) Cận lâm sàng
- Xquang phổi là chỉ định đầu tiên được dùng để đánh giá TKMP vì
những ưu điểm như: đơn giản, không đắt tiền, nhanh chóng và không xâm
lấn. Tuy nhiên, hiệu quả kém hơn CLVT ngực trong chẩn đoán TKMP ít
cũng như phát hiện các kén khí.
Xquang phổi chuẩn giúp chẩn đoán xác định TKMP với 5 triệu chứng:
+ Phổi sáng ở vùng có tràn khí.
+ Mất vân phổi, nhu mô phổi co rúm về phía rốn phổi.
+ Tim, trung thất bị đẩy sang bên đối diện.
+ Khoang liên sườn gi•n.
+ Cơ hoành hạ thấp
11
Các tổn thương, thâm nhiễm ở bên phổi xẹp khó xác định. TKMP tự
phát bên phải và trái có tỷ lệ gần ngang nhau. TKMP toàn bộ gặp nhiều
hơn TKMP khu trú (80% so với 20%) [1].

- Chụp CLVT ngực cho chẩn đoán xác định TKMP, vị trí, mức độ
của tràn khí trong trường hợp Xquang phổi chưa rõ ràng, nhất là ở BN bị
gi•n phế nang. Đặc biệt chụp CLVT ngực lớp mỏng cho thấy các bóng khí,
kén khí, dày dính và các tổn thương phổi như gi•n phế nang, thâm nhiễm
nhu mô, tổn thương tổ chức kẽ. Các bóng khí có bờ mỏng, hay gặp nhất ở
vùng đỉnh phổi, sau đó là phân thuỳ đỉnh của thuỳ giữa, các vùng rìa phổi
[7]. CLVT ngực giúp phân biệt các bóng khí lớn với TKMP.
1.2.4. Mức độ tràn khí màng phổi
Mức độ TKMP có ý nghĩa trong việc lựa chọn hướng điều trị thích hợp.
- Berk JL (1997) đưa ra cách tính thể tích TKMP dựa trên kích thước
TKMP trên phim xquang phổi thẳng [17]
% thể tích TKMP = [1 – a3/b3] x 100
a: đường kính nhu mô phổi, tính từ bờ MP tạng đến rốn phổi (cm)
b: đường kính nửa lồng ngực, TB 12 - 14 cm tuỳ theo thể trạng
Thể tích khí trong khoang MP được hấp thu hết là:
Số ngày khí được hấp thu hết = % Thể tích TKMP
1,25%
- Theo Hiệp hội lồng ngực Anh (BTS) năm 1993 TKMP được phân
chia thành 3 loại:
TKMP ít: có một lớp khí mỏng bao quanh nhu mô phổi trong
khoang MP.
TKMP TB: hơn một nửa nhu mô phổi bị xẹp do khí trong khoang MP
TKMP toàn bộ: nhu mô phổi bị xẹp hoàn toàn và tách rời khỏi cơ hoành.
12
- Hiệp hội lồng ngực Anh (BTS) năm 2003 phân chia TKMP thành 2
loại [30]:
TKMP ít: khoảng cách từ MP tạng đến bờ trong của thành ngực < 2cm
TKMP nhiều: khoảng cách từ MP tạng đến bờ trong của thành
ngực = 2cm
Cách phân loại theo BTS năm 2003 hiện được áp dựng rộng r•i vì

ưu điểm thuận tiện và giúp đưa ra hướng điều trị hợp lý đối với từng
mức độ TKMP.
1.2.5. Điều trị tràn khí màng phổi
Điều trị TKMP nhằm mục đích là lấy khí ra khỏi khoang MP và giảm
khả năng tái phát. Hiện nay, lựa chọn điều trị phụ thuộc vào TKMP lần đầu
tiên hay tái phát, mức độ TKMP, số lượng, vị trí và kích thước của các
bóng khí.
1.2.5.1. Theo dõi
Được chỉ định khi BN có mức độ tràn khí nhỏ hơn 15% thể tích nửa
ngực hoặc TKMP ít (< 2cm), không khó thở, không có rối loạn huyết động
[30,36,17,61]. BN cần nghỉ ngơi tuyệt đối, thở oxy liều cao (4 - 6 lít/phút,
có thể tới 10 lít/phút). Việc hít thở oxy nồng độ cao có thể làm giảm áp lực
toàn phần của khí trong mao mạch của MP bằng cách làm giảm áp lực
riêng phần của nitrogen. Do đó tạo nên chênh lệch về áp suất giữa mao
mạch của MP với khoang MP và dẫn đến làm tăng hấp thu khí từ khoang
MP [30]. Những BN bị TKMP được thở bổ sung oxy nồng độ cao thì tốc
độ hấp thu khí trong khoang MP nhanh gấp 4 lần. Những trường hợp
TKMP chiếm hơn 15% thể tích nửa ngực có chỉ định chọc hút hoặc dẫn
lưu khí [27].
13
1.2.5.2. Chọc hút khí bằng kim
Phương pháp này chỉ định khi TKMPTP nguyên phát cần can thiệp và
TKMPTP thứ phát lần đầu mức độ ít (< 2cm), BN dưới 50 tuổi, không khó
thở, không có rối loạn huyết động. Những BN TKMPTP thứ phát sau chọc
hút hết khí nên theo dõi tại bệnh viện ít nhất 24 giờ. Có thể chọc hút khí lần
2 hoặc đặt catheter ở BN TKMPTP nguyên phát khi việc chọc hút lần đầu
không có kết quả và lượng khí hút ra < 2,5 lít [30,17,61].
1.2.5.3. Đặt dẫn lưu màng phổi
Chỉ định khi: TKMPTP thứ phát khó thở nhiều, có rối loạn huyết
động; TKMP tái phát hoặc TKMPTP nguyên phát thất bại khi chọc hút

bằng kim.
Sau khi hết khí phải kẹp sonde dẫn lưu và kiểm tra lại Xquang phổi,
nếu phổi nở tốt, hết khí thì theo dõi, sau 24 giờ chụp kiểm tra nếu không bị
TKMP lại thì rút sonde. Những kỹ thuật này thành công trong khoảng 70%
các trường hợp. Can thiệp phẫu thuật ít khi cần thiết ở những BN TKMP
nguyên phát trừ khi TKMP tồn tại kéo dài 5 đến 7 ngày. Sự có mặt của
bóng khí trên phim CLVT ngực không phải là tiêu chuẩn chính để can
thiệp phẫu thuật [27].
1.2.5.4. Gây dính màng phổi
Trường hợp dẫn lưu khí thất bại và TKMP tái phát phải gây dính MP.
Các phương pháp gây dính MP: Bơm hóa chất vào khoang MP qua
ống dẫn lưu MP; gây dính bằng hoá chất qua NSMP; chà sát MP qua phẫu
thuật; cắt bỏ MP. Các hoá chất được dùng để gây dính MP: Tetracycline
hydrocloride, Minocycline hydrocloride, Doxycycline hydrocloride,
Bleomycin, bột talc tinh khiết.
14
Gây dính MP bằng bột talc là một phương pháp được nhiều tác giả
trên thế giới sử dụng vì tỷ lệ thành công cao (85 - 92%), giá thành hợp lý,
an toàn và ít tác dụng phụ [25,35,39,60].
Liều bột talc 2 - 10g đ• được sử dụng nhưng liều cao hơn cũng chưa
được chứng minh là có hiệu quả hơn [30]. Những tai biến sớm có thể gặp
như đau ngực, sốt, nhiễm trùng khoang MP, ARDS (nguy cơ có thể liên
quan đến kích thước của hạt), suy hô hấp, rối loạn huyết động. Tác dụng
phụ lâu dài là ảnh hưởng đến chức năng hô hấp và nguy cơ ác tính [35,58].
Kỹ thuật gây dính MP nên thực hiện ở những nơi có điều kiện về phương
tiện và chuyên môn để tránh những hậu quả sau khi tiến hành thủ thuật như
nhiễm khuẩn MP, mủ MP…
1.2.5.5. Can thiệp phẫu thuật
Phẫu thuật kinh điển trong điều trị TKMP bao gồm cắt thùy phổi có
bóng khí, cắt bóng khí, khâu bóng khí, khâu lỗ rò khí, có thể kết hợp với

các phương pháp gây dính.
Can thiệp phẫu thuật được chỉ định khi: TKMP tái phát lần thứ 2; tiền
sử TKMP đối bên; TKMPTP 2 bên; sau 5 - 7 ngày hút dẫn lưu không kết
quả hoặc phổi không nở hoàn toàn; tràn máu MP tự phát; nghề nghiệp có
nguy cơ cao bị TKMP (phi công, thợ lặn…), TKMP có bóng khí dưới MP
tạng trên phim CLVT ngực lớp mỏng [29,67].
Từ khi có NSMP đặc biệt là NSMP có sự hỗ trợ của video cho phép
thực hiện nhiều kỹ thuật chẩn đoán và điều trị trong quá trình phẫu thuật.
NSMP giúp quan sát trực tiếp MP, có thể dễ dàng phát hiện các bóng khí,
can thiệp đốt bằng phương pháp thông thường hoặc bằng điện đông cao
tần, thắt bóng khí kết hợp gây dính bột talc. Theo Sawada S và cs (2005)
hiệu quả điều trị của NSMP tương đương với phẫu thuật mở ngực. Tỷ lệ
thành công của NSMP gây dính bột talc khoảng 97% [46]. Tỷ lệ tái phát
15
TKMP của phương pháp này từ 2-14% so với tỷ lệ tái phát của phương
pháp mở ngực là 0-7%. Điều này có thể được giải thích là do khả năng phát
hiện và xử trí các bóng khí ở đỉnh phổi khi NSMP không thuận lợi như khi
phẫu thuật mở ngực. Tuy nhiên, các nghiên cứu nhận xét một số ưu điểm
của NSMP như thời gian nằm viện, thời gian lưu sonde sau can thiệp ngắn,
các biến chứng như đau, chảy máu, nhiễm trùng của NSMP ít hơn phẫu
thuật mở ngực [59].
1.3. Vai trò của bột talc trong bệnh lý màng phổi
1.3.1. Đặc điểm cấu tạo của bột talc
Thành phần cấu tạo bột talc là Magnesium silicat hydrate có công
thức hóa học Mgơ3 Si4O10(OH)2 . Bột talc có dạng phiến mỏng, tự nhiên
và được nghiền thành bột. Bột talc thông thường có trong các mỏ đá lộ
thiên, các mỏ này nằm rải rác khắp nơi trên thế giới. Bột talc ít khi tinh
khiết và thường lẫn nhiều tạp chất. Các tạp chất thông thường bao gồm:
amiante, calcite, magnesite, dolomite, chlorite, serpentine, quart và một số
thành phần khác. Thành phần bột talc thay đổi tuỳ theo từng mỏ đá. Trong

quá trình sản xuất, thông thường bột talc được làm sạch, loại bỏ các tạp
chất và những hạt bột talc có kích thước lớn, nhằm tạo ra được bột talc có
kích thước mịn, khá đồng đều, không lẫn tạp chất để có thể dùng tronng
nhiều lĩnh vực khác nhau [42].
Bột talc là chất bột mềm, mịn và trơn, nên được xem là chất bôi trơn
khô tốt. Bột talc được sản xuất từ NewYork, Texas và những nơi khác chứa
đến 50% amiante, anthophyllite và một lượng muối tinh thể silic. Đây là
dạng bột talc sử dụng phổ biến cho công nghiệp. Ngành công nghiệp cao su
sử dụng bột talc như một chất bôi trơn dưới dạng bột lót bên trong khuôn
đúc, do vậy sau khi công đoạn kết thúc, có thể dễ dàng tách sản phẩm ra
khỏi khuôn. Bên cạnh đó bột talc còn được cho thêm vào sơn, chất dẻo
16
(nhựa tổng hợp) và đồ gốm sứ. Do dạng bột talc này chứa nhiều tạp chất,
nên có màu nâu vàng hơi đỏ, bên cạnh đó, những công nhân tiếp xúc
thường xuyên với dạng bột talc này có thể mắc bệnh bụi phổi, ung thư
trung biểu mô màng phổi, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính,
Bột talc dưới dạng tinh chất được sản xuất ở vùng Pyrénées của
Pháp, vùng Vermont của Italia và nhiều vùng của nước Mỹ được sử dụng
cho việc chế tạo mỹ phẩm và dược liệu. Đây là dạng bột talc tinh khiết, có
màu trắng và không chứa amiant. Dạng bột talc này không gây ảnh hưởng
tới sức khoẻ của người sử dụng [42].
1.3.2. Cơ chế dính màng phổi của bột talc
Theo Sahn SA (2000) thì cơ chế tác dụng của bột talc như sau: bột
talc khi tiếp xúc với tế bào trung biểu mô MP, kéo bạch cầu đa nhân trung
tính vào khoang MP và bài tiết ra Interleukin 8 (IL-8). Đồng thời, bột talc
cũng gây tập trung nhiều đại thực bào vào khoang MP, kích thích đại thực
bào giải phóng ra IL-8, thêm vào đó đại thực bào sẽ gây hóa ứng động đối
với protein 1. Hiện tượng bám dính của các phân tử này lên trên tế bào
trung biểu mô MP sẽ khuếch đại phản ứng viêm và cuối cùng sẽ dính chặt
lá thành vào lá tạng làm mất khoang MP [60].

Antony V.B và cộng sự (2004) nghiên cứu trên những BN được gây
dính màng phổi bằng bôt talc nhận thấy, những BN có tổn thương các tế
bào trung biểu mô màng phổi lan toả có nồng độ yếu tố tăng sinh sợi xơ rất
thấp so với những BN có ít tổn thương trên các tế bào này. Hiệu quả gây
dính màng phổi cao hơn ở những BN ít có tổn thương MP, điều đó cho thấy
tế bào trung biểu mô MP có vai trò quan trọng trong cơ chế gây dính MP.
17
1.3.3. Các biện pháp gây dính màng phổi bằng bột talc
Bột talc được sử dụng để gây dính màng phổi thông qua việc bơm
trực tiếp vào khoang màng phổi qua ống dẫn lưu màng phổi. Có 2 biện
pháp bơm bột talc vào khoang màng phổi:
- Bơm bột talc vào khoang màng phổi qua ống dẫn lưu màng phổi.
Bột talc được bơm vào dưới dạng nhũ dịch. Ưu điểm của phương pháp này
là đơn giản, dễ thực hiện. Tuy nhiên, nhược điểm là bột talc thường tập
trung thành đám ở màng phổi, lượng bột talc bơm vào khoang MP mỗi lần
khá nhiều.
- Bơm bột talc dạng phun mù dưới hướng dẫn của NSMP, bột talc
được rải đều lên bề mặt MP. Ưu điểm của phương pháp này là bột talc rải
đều, tránh được tình trạng bột talc tập trung thành đám ở MP, lượng bột
talc mỗi lần bơm thường thấp.
1.4. Các tác dụng phụ của bột talc
Bên cạnh khả năng gây dính màng phổi, bột talc có thể gây nhiều các
tác dụng phụ. Những tai biến sớm có thể gặp như đau ngực, sốt, nhiễm
trùng khoang MP, ARDS (nguy cơ có thể liên quan đến kích thước của
hạt), suy hô hấp, rối loạn huyết động. Tác dụng phụ lâu dài là ảnh hưởng
đến chức năng hô hấp, đau ngực mạn tính, talcome và nguy cơ ác tính
[35,42,58]
1.4.1. Các tai biến sớm
1.4.1.1. Đau ngực
Hầu hết các hoá chất gây dính MP đều có thể gây đau ngực. Đau ngực

có thể xuất hiện ngay sau khi bột talc tiếp xúc với khoang màng phổi. Theo
nhiều tác giả thì nguyên nhân gây đau có thể do phản ứng gây viêm màng
phổi của bột talc. Mức độ đau ngực khi gây dính MP bằng bột talc có thể từ
không đau đến rất đau.
18
Huseyin Yildirim và cộng sự gặp 17,5% (7/43) BN đau ngực mức độ
vừa sau NSMP gây dính bột talc. Tỷ lệ này là 27% (9/29BN) trong nghiên
cứu của Brant A [19]. Walker – Renard và cộng sự lại thấy tỷ lệ đau sau
gây dính MP với bột talc là 7% (9/131 bệnh nhân), trong khi tỷ lệ đau ngực
là 29% (56/199 BN) với hoá chất gây dính MP là Bleomycine và 40%
(24/60 BN) với hoá chất gây dính là doxycycline [60].
ở Việt Nam, Ngô Thanh Bình (2005) nghiên cứu về gây dính bột talc
qua dẫn lưu MP trong điều trị TKMPTP thứ phát thấy biến chứng sớm đau
ngực gặp ở 55,6% BN, xảy ra trong vòng 4 giờ đầu và kéo dài 3 -5 ngày
[2]. Theo Nguyễn Thị Thanh Huyền (2006) nghiên cứu trên 30 BN TKMP
được NSMP gây dính bằng bột talc tại khoa Hô hấp Bệnh viện Bạch Mai:
tỷ lệ BN đau ngực sau gây dính bột talc là 96,7% với thời gian đau ngực
kéo dài TB 3,8 ± 2,5 ngày.[6]
Xử trí biến chứng đau ngực này có thể dùng các thuốc giảm đau
thông thường như acetaminophene hoặc các thuốc giảm đau chống viêm
không steroid (NSAID). Trong một số trường hợp BN đau nhiều có thể
phải dùng Morphine.
1.4.1.2. Sốt
Sốt sau gây dính MP là biến chứng thường gặp với hầu hết các hoá
chất gây dính MP. Sốt có thể xảy ra sau gây dính MP cả với bột talc dạng
nhũ dịch và dạng phun mù.
Sốt thường xảy ra 4-12h sau gây dính bằng bột talc và có thể kéo dài
đến 72h. Sốt sau gây dính MP bằng bột talc không quá cao, nhiệt độ
thường không quá 38?C [60].
Nguyên nhân gây sốt sau gây dính màng phổi bằng bột talc được cho

là do phản ứng viêm của màng phổi [31].
19
Theo Huseyin Yildirim và cộng sự khi nghiên cứu 43 BN được gây
dính bột talc qua NSMP thấy có 19 BN sốt sau gây dính ( 47,5%) [31].
Trong nghiên cứu của Brant A và cộng sự, tỷ lệ gặp khoảng 24% trường
hợp(8/29BN) [19]
ở Việt Nam, nghiên cứu của Ngô Thanh Bình tại Thành phố Hồ Chí
Minh (2005) trên những BN TKMP thứ phát được gây dính MP bằng bột
talc qua sonde dẫn lưu gặp tỷ lệ sốt sau gây dính MP là 15.3% [2]. Nguyễn
Thị Thanh Huyền (2006) gặp tỷ lệ sốt sau gây dính MP bằng bột talc qua
NSMP cao hơn: 63,3% BN với nhiệt độ TB là 38,1 ± 0,50C, mức độ sốt
chủ yếu là sốt nhẹ và vừa (84,2%). Thời gian xuất hiện sốt phần lớn các
BN là từ ngày thứ 2 sau NSMP gây dính bột talc và kéo dài trong khoảng
thời gian TB 2,2 ± 1,5 ngày [6].
Xử trí sốt sau gây dính bột talc qua NSMP bằng các thuốc hạ sốt
thông thường như acetaminophene.
1.4.1.3. Khó thở, suy hô hấp, ARDS
Hội chứng suy hô hấp cấp tính, viêm phổi cấp và suy hô hấp cũng đ•
được báo cáo xảy ra với cả bột talc sử dụng ở dạng phun mù và dạng
nhũ dịch.
Nguyên nhân gây suy hô hấp chưa được rõ. Có nhiều nguyên nhân
có thể dẫn đến suy hô hấp cấp khi gây dính MP bằng bột talc, bao gồm: hội
chứng đáp ứng viêm hệ thống gây ra bởi bột talc, sự nở trở lại của phổi, sử
dụng liều cao bột talc và nhiễm trùng do bột talc sử dụng không vô trùng
hoặc nhiễm vi khuẩn qua ống nội soi hoặc ống dẫn lưu khoang màng phổi,
do bệnh lý phổi nền [60].
Trong số những tai biến sớm về hô hấp, đáng lưu ý nhất là hội chứng
suy hô hấp cấp tính (ARDS). Có ít nhất 42 trường hợp xuất hiện ARDS sau
khi bơm bột talc vào khoang màng phổi để gây dính đ• được báo cáo, gồm
20

24 trường hợp dùng bột talc dạng nhũ dịch và 18 trường hợp sử dụng bột
talc dạng phun mù; trong số này có 11 BN đ• tử vong vì biến chứng
ARDS [57].
Theo Marchie và cộng sự (2003), giải thích cơ chế gây bệnh cảnh của
hội chứng truỵ hô hấp cấp tính ở các BN sau gây dính màng phổi bằng bột
talc, có một số cơ chế đáng quan tâm sau: (1) Nhu mô phổi nở trở lại sau
khi hút một số lượng lớn dịch màng phổi hoặc có sự thay đổi tính thấm
thành mạch sau nội soi khoang màng phổi. (2) Bột talc khi tiếp xúc với bề
mặt màng phổi gây đáp ứng viêm và giải phóng các chất trung gian hoạt
mạch làm gi•n mạch, tăng tính thấm thành mạch. (3) Sự hấp thụ thường
xuyên dịch màng phổi và các phần tử từ khoang màng phổi. (4) Kích thước
và hình dáng các hạt bột talc cũng góp phần vào cơ chế hấp thu của bột
talc. Sự tác động của bốn cơ chế này tạo điều kiện cho bột talc được hấp
thụ và gây hội chứng truỵ hô hấp cấp tính [31,57].
Theo Ferrer J và cộng sự (2002) nghiên cứu khả năng gây viêm màng
phổi và những tác động ngoài màng phổi của 2 loại bột talc trên chuột: bột
talc có kích thước bình thường (sử dụng cho gây dính màng phổi ở người)
và bột talc có kích thước lớn, kết quả cho thấy hiệu quả gây dính màng
phổi của cả 2 dạng bột talc là tương đương nhau mặc dù khả năng gây viêm
màng phổi sử dụng cho bột talc có kích thước bình thường lớn hơn dạng
bột talc có kích thước lớn. Tuy nhiên, dạng bột talc có kích thước bình
thường được tìm thấy ở các cơ quan khác ngoài màng phổi: phổi, trung
thất, gan, lách nhiều hơn dạng bột talc có kích thước lớn. Điều này gợi ý
đến các tác động toàn thân của bột talc có liên quan đến kích thước hạt của
bột talc [48,57].
21
Tỷ lệ xuất hiện ARDS sau gây dính MP bằng bột talc thay đổi rất
khác nhau tuỳ từng nghiên cứu. Theo Reshe và cộng sự thực hiện gây dính
MP bằng bột talc thấy có 9% BN xuất hiện biến chứng ARDS đòi hỏi phải
thông khí nhân tạo [57]. Trong một nghiên cứu khác ở Italia, Cardillo và

cộng sự thấy trong số 611 BN được gây dính MP với liều bột talc là 5g
không thấy có trường hợp nào xuất hiện biến chứng ARDS. Điều này gợi
ra giả thuyết là sự xuất hiện ARDS có liên quan tới những BN được điều trị
với liều bột talc > 5g. Tuy nhiên giả thuyết này lại có vẻ không đúng khi
Campos và cộng sự báo cáo 7/550 BN (1.3%) xuất hiện ARDS sau khi liều
bột talc 2g dạng nhũ dịch được bơm vào khoang màng phổi, 4 BN trong số
này đ• tử vong vì suy hô hấp [39]
Khi nghiên cứu về kích thước các phân tử bột talc trong các chế phẩm
được sử dụng để gây dính MP, các tác giả thấy kích thước trong 8 loại chế
phẩm khác nhau thay đổi từ 10,8 đến 33,6 ?m. Điều đáng chú ý là kích
thước talc trong các sản phẩm từ Mỹ, nơi có tỷ lệ ARDS xuất hiện sau gây
dính bột talc cao nhất, có kích thước trung bình nhỏ nhất [39]
1.4.1.4. Các biến chứng tim mạch
Các biến chứng tim mạch như rối loạn nhịp tim, ngừng tim, đau thắt
ngực, nhồi máu cơ tim và hạ huyết áp cũng có thể gặp. Trong nhiều trường
hợp rất khó phân biệt các biến chứng này là hậu quả liên quan đến phẫu
thuật hay do bột talc [42].
1.4.1.5. Tử vong
Tử vong cũng đ• được báo cáo ở một vài trường hợp ngay sau gây
dính MP bằng bột talc. Nguyên nhân tử vong trong những trường hợp này
chưa được xác định rõ ràng [42].
22
1.4.2. Các tác dụng phụ lâu dài
1.4.2.1. ảnh hưởng đến chức năng hô hấp (CNHH)
Lange và cộng sự đánh giá chức năng hô hấp ở những bệnh nhân
được điều trị TKMP với gây dính MP bằng bột talc sau 22 - 35 năm nhận
thấy, những bệnh nhân được điều trị gây dính MP bằng bột talc có dung
tích phổi toàn phần thấp hơn so với những bệnh nhân chỉ điều trị dẫn lưu
khí đơn thuần (89% so với 96% giá trị lý thuyết). Trong đó có một BN bị
rối loạn thông khí hạn chế mức độ nặng với dung tích phổi toàn phần

(TLC) là 58% giá trị lý thuyết, đó là trường hợp có bằng chứng của xơ
phổi. Tác giả không thấy có sự khác biệt giữa dung tích sống (VC) và thể
tích thở ra tối đa giây đầu tiên (FEV1) khi so sánh 2 nhóm bệnh nhân này.
Tác giả cũng ghi nhận thấy giá trị TLC (89% giá trị lý thuyết) và VC (80%
giá trị lý thuyết) ở những trường hợp có biểu hiện dầy MP trên phim chụp
Xquang phổi chuẩn thấp hơn một cách có ý nghĩa so với TLC và VC ở
những trường hợp không có dầy MP (TLC 98% và VC 88% giá trị lý
thuyết) (p < 0.01) [52].
Trong một nghiên cứu theo dõi 5 - 6 năm trên 58 BN TKMPTP
nguyên phát được gây dính MP bằng bột talc, Hallgrimsson cũng thấy
trong số 8 trường hợp có RLTK hạn chế (TLC < 80% giá trị lý thuyết) thì
có 4 trường hợp có biểu hiện dầy dính MP [29]. Một số nghiên cứu khác
khi theo dõi ngắn những BN sau TKMP cũng thấy có mối liên quan giữa sự
dầy dính MP và rối loạn thông khí hạn chế [52]. Điều này có lẽ có liên
quan đến sự hạn chế đáng kể vận động của cơ hoành (cơ hô hấp đóng vai
trò quan trọng) do sự dầy dính MP nhất là ở vùng màng phổi sát với cơ
hoành sau khi gây dính bằng bột talc.
Viskum và cộng sự theo dõi 99 BN sau 20 năm, trong đó 50 BN được
đo CNHH, tác giả chỉ gặp 1 trường hợp BN (2%) có rối loạn thông khí hạn
23
chế mức độ trung bình, đây là trường hợp BN có tiền sử TKMP bên đối
diện đ• được điều trị bằng bơm dung dịch glucose ưu trương vào khoang
MP trước khi gây dính MP bằng bột talc [39].
S. Gyorik và cộng sự theo dõi 53 BN điều trị gây dính MP bằng bột
talc với thời gian theo dõi trung bình là 118 tháng ghi nhận FVC trung bình
ở 99% số BN này là 102%, nhưng khi so sánh ở nhóm BN có hút thuốc với
không hút thuốc thì thấy FVC và FEV1 giảm có ý nghĩa thống kê ở nhóm
hút thuốc [64].
1.4.2.2.Hình thái khoang màng phổi sau gây dính bột talc
Về hình thái khoang màng phổi sau gây dính bằng bột talc, các nghiên

cứu đều thấy có sự dày màng phổi ở các mức độ khác nhau, có thể tạo
thành các nốt, biểu hiện bằng những vùng tăng tỷ trọng trên CT Scan ngực,
đó là do sự lắng đọng của bột talc, đôi khi làm nhầm lẫn với các bệnh lý
màng phổi khác.
Nghiên cứu của Boon Han Kwek và cộng sự, theo dõi hình ảnh CT
Scan ngực với thời gian theo dõi trung bình là 25 tháng sau gây dính màng
phổi bằng bột talc thấy màng phổi dầy lên, có những chỗ tạo thành nốt,
biểu hiện trên CT là những vùng tăng tỷ trọng (trung bình 230 đơn vị
Hounsfield). Độ dầy của những vùng màng phổi này trung bình là 1,3 cm;
dài trung bình 7,1cm. Các nốt có đường kính trung bình là 1,5cm; nốt lớn
nhất có đường kính 3,1cm [18, 33]. Mô bệnh học của những nốt này thấy
có sự xâm nhập lan toả các tế bào khổng lồ Langerhans và lympho bào[33].
Viskum và cs theo dõi sau 21 năm thấy có 2/50 BN (4%) có biểu hiện
dầy màng phổi trên phim chụp XQ phổi thường quy.
Tschopp JM và cs [65] cũng gặp tỷ lệ dầy màng phổi khu trú trên
phim chụp XQ phổi là 8.75% (7/80)
24
Lange và cs theo dõi trong khoảng 22 - 35 năm [52], tỷ lệ dầy màng
phổi nói chung trên phim XQ phổi thường quy là 51/75 BN (68%), trong
đó ở nhóm TKMP được điều trị gây dính bột talc qua NSMP là 78%, còn ở
nhóm TKMP chỉ mở MP tối thiểu dẫn lưu khí đơn thuần là 55%, tác giả
không thấy có sự khác biệt về tỷ lệ dầy màng phổi giữa 2 nhóm BN này.
Mức độ dầy MP chủ yếu là ở mức độ nhẹ và thường xảy ra ở vùng đáy
phổi bên gây dính bằng bột talc.
1.4.2.3. Biến chứng đau ngực mạn tính
Biến chứng đau ngực mạn tính sau gây dính màng phổi bằng bột talc
cũng đ• được báo cáo. Cơ chế gây đau mạn tính được cho là do sự dầy và
calci hoá màng phổi. Mức độ đau có thể từ nhẹ đến rất đau, ảnh hưởng
nhiều đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân, dùng các thuốc giảm đau ít
hiệu quả, đôi khi cần phải phẫu thuật để giải quyết triệu chứng đau [56].

Richard Milton (2003) [56] đ• báo cáo một trường hợp BN nam 27
tuổi bị TKMP hai bên với TKMP phải xảy ra trước được điều trị NSMP
gây dính bằng bột talc, TKMP trái xảy ra sau đó 1 tháng được điều trị bằng
NSMP đốt bóng khí. Sau khi ra viện 1 tháng, BN xuất hiện triệu chứng đau
ngực bên phải mạn tính (mà không hề đau ngực bên trái – bên NSMP đốt
bóng khí đơn thuần) kéo dài 2 năm, hình ảnh cắt lớp vi tính lồng ngực của
BN cho thấy dầy và calci hoá MP vùng đỉnh phổi phải. BN này sau đó đ•
phải phẫu thuật bóc tách phần MP trên, kết quả giải phẫu bệnh là một u hạt
talc có calci hoá.
Theo S. Gyorik và cộng sự khi theo dõi các BN gây dính MP bằng bột
talc qua NSMP thấy trong số 38 BN, 27 BN (71%) không bị đau ngực mạn
tính (VAS là 1 điểm), 8 BN có VAS là 2 điểm và ở mức điểm VAS 3, 4,
và 5 điểm có một BN [64].
25

×