LỜI NÓI ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Triều Nguyễn (1802 - 1945) là triều đại tồn tại lâu dài và ghi lại nhiều dấu
ấn nhất trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam. Nhà Nguyễn có những
đóng góp to lớn về việc thống nhất quốc gia sau mấy trăm năm chia cách; để lại
cho chúng ta một kho tàng văn hoá cả vật thể và phi vật thể đồ sộ. Đặc biệt là
đóng góp về mặt mở rộng, toàn vẹn lãnh thổ và cương vực (thời kỳ đất nước ta
toàn vẹn nhất: xuống Cà Mau, ra các quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa...). Nhưng
cũng chính trong triều đại này đã diễn ra một biến cố lịch sử - bị thực dân Pháp
một nước đến từ Phương Tây thôn tính. Năm 1858, Pháp nổ tiếng súng xâm
lược đầu tiên, và chỉ trong vòng 30 năm, một dân tộc có tinh thần yêu nước, có
truyền thống chống ngoại xâm đã rơi vào thảm cảnh: mất độc lập dân tộc.
Nguyên nhân nào dẫn đến việc nhà Nguyễn đánh mất nước nhanh chóng như
thế? Đây là một vấn đề mà có rất nhiều nhà sử học quan tâm nghiên cứu và đưa
ra nhiều quan điểm khác nhau. Tuy nhiên các chuyên gia, các nhà sử học đều
thống nhất tại một điểm: một trong những nguyên nhân chủ quan, quan trọng
dẫn đến việc nhà Nguyễn làm mất nước đó là nhà Nguyễn đã cho thi hành một
số chính sách sai lầm. Mà chính sách sai lầm tai hại nhất là hai chính sách “Bế
quan toả cảng” và chính sách “cấm đạo và sát đạo”. Cả hai chính sách này đều
được bắt đầu thực thi dưới thời vua Minh Mạng (1820 - 1840).
Khi nghiên cứu về hai chính sách này, đặc biệt là chính sách “Bế quan toả
cảng”, nhận thấy các nàh nghiên cứu (có lẽ vì lý do riêng hoặc vì những đề tài
lớn hơn) thường nói tới chính sách sai lầm này một cách chung chung (như nó là
một chính sách tai hại) mà chưa nói rõ nó hình thành ra sao, tác động cụ thể như
thế nào... theo suy nghĩ của bản thân tôi thì như thế chưa đủ đối với một chính
sách đóng vai trò là một trong những nguyên nhân chủ quan gây mất nước của
Triều Nguyễn.
Là một sinh viên năm thứ hai mới chập chững bước vào con đường
nghiên cứu khoa học lịch sư, Tôi có tham vọng rất lớn và say mê tìm hiểu về
1
triều Nguyễn nói chung và chính sách triều Nguyễn nói riêng. Vì vậy, tôi quyết
định chọn đề tài “Sự hình thành và tác động của chính sách “Bế quan toả
cảng” dưới thời Minh Mạng”. Với Minh Mạng làm sáng tỏ và hệ thống hơn
chính sách này. Phải nói thêm rằng chính sách “bế quan toả quảng” bắt đầu hình
thành từ thời Minh Mạng, trải qua đời Thiệu Trị (1840 - 1847) và đặc biệt được
thi hành triệt để và bổ sung dưới thời vua Tự Đức. Nhưng vì thời gian có hạn và
trình độ ở mức “tập dượt” nên tôi chỉ nghiên cứu sự hình thành và tác động dưới
triều Minh Mạng.
2. TÀI LIỆU THAM KHẢO
Khi tiến hành làm báo cáo khoa học tôi đã đọc, tham khảo một số tài liệu,
và tư liệu chủ yếu trong báo cáo này của tôi lấy từ ba cuốn:
a. Đại Nam thực lục chính biên: là bộ sách sử ghi lại toàn bộ hoạt động
văn hoá, chính trị, kinh tế và ngoại giao triều Nguyễn (từ triều đầu tiên là Gia
Long đã ghi lại).
b. Minh Mạng chính yếu - Quốc sử quan triều Nguyễn. Ghi lại những sự
kiện về thời Minh Mạng từ khi lên ngôi đến khi tạ thế (1820 - 1840).
c. Ngoại thương Việt Nam dưới triều Minh Mạng (1820 - 1840) của tác
giả Lê Thị Kim Dung - Đây là đề tài luận văn của tác giả nghiên cứu về tình
hình ngoại thương thời Minh Mạng.
3. TIỂU KẾT
Tuy đã hết sức cố gắng, nhưng do thời gian nghiên cứu không được lâu,
kinh nghiệm và kiến thức chưa nhiều. Nên tôi không thể tránh khỏi những sai
sót và thiếu hụt, rất mong được sự giúp đỡ, động viên, đóng góp ý kiến và chỉ
bảo của các thầy cô giáo và các bạn sinh viên.
Qua đây tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới thầy giáo của tôi
Người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo tôi trong suốt quá trình làm bản báo cáo
này.
2
NỘI DUNG CHÍNH CỦA BÁO CÁO
1. Sự hình thành chính sách “Bế quan toả cảng”.
2. Các nội dung cơ bản của chính sách “Bế quan toả cảng”.
3. Tác động của chính sách “Bế quản toả cảng”đối với nền kinh tế, chính
trị, văn hoá xã hội và ngoại thương.
1. Sự hình thành chính sách “Bế quản toả cảng”
Chính sách “Bế quản toả cảng” đã hình thành trên cơ sở tổng hoà các
điều kiện bên trong lẫn bên ngoài. Đó là cơ sở về tư tưởng, về điều kiện kinh tế -
xã hội trong nước, và bối cảnh thế giới cũng như khu vực.
a. Cơ sở hình thành.
Cơ sở về tư tưởng: Minh Mạng kế kế ngôi báu cũng đồng thời kế tiếp
luôn tư tưởng truyền thống mà nhiều triều đại phong kiến trước để lại. Trong
ngoại thương thì đó là tư tưởng “trọng nông ức thương”. Coi nông nghiệp là
ngành kinh tế số một: “hết gạo chạy rông nhất nông nhì sĩ”. Vì thế chỉ ban hành
những chính sách ưu dãi cho nông nghiệp còn các ngành khác đặc biệt là ngoại
thương thì bị hạn chế, thậm chí còn kìm hãm phát triển.
Minh Mạng là ông vua thông minh tài chí, minh chứng là dưới triều Minh
Mạng nhân dân no ấm, xã hội ổn định nhất trong 13 đời vua nhà Nguyễn.
Nhưng Minh Mạng cũng là ông vua bị hệ tư tưởng Nho giáo chi phối nặng nề
nhất. Đó là tư tưởng “trọng nghĩa hơn trọng lợi” và ảnh hưởng sâu sắc “chủ
nghĩa dân tộc” của Đại Hán, coi mình dân tộc mình là trung tâm, là tiến bộ, tinh
hoa còn những dân tộc khác là yếu kém, chậm tiến là man di “Hoa hạ man di”…
Nên không cần quan hệ với ai.
Việt Nam là một quốc gia có vị thế thuận lợi, là nơi giao chuyển trong khu
vực nên có nhiều quốc gia khác nhòm ngó, xâm chiếm vì thế gây tâm lý sợ tứ
biến, luôn luôn cảnh giác, sợ an ninh quốc gia bị đe doạ mất chủ quyền dân tộc.
Tất cả những tư tưởng đó ảnh hưởng đến con người Minh Mạng làm cho
ông có tư tưởng độc đoán, cổ hủ và bảo thủ, dẫn đến những chính sách của ông
mang nặng tính chất đó.
Cơ sở kinh tế - xã hội đầu thế kỉ XIX.
3
Đầu thế kỉ XIX được sự giúp đỡ của Pháp, Nguyễn ánh (dòng dõi chúa
Nguyễn) lật đổ triều Tây Sơn lập nên nhà Nguyễn, thống nhất quốc gia. Với việc
Pháp giúp như thế Nguyễn ánh sau khi lên làm vua (1802) buộc phải trả ơn bằng
cách thừa nhận cho người Pháp có vị thế trong xã hội Việt Nam: cho người Pháp
làm quan cao trong triều đình, ưu tiên thuyền buôn Pháp hơn các thuyền buôn
nước khác. Xã hội thời Gia Long tương đối ổn định, mọi người bắt tay vào lao
động sản xuất yên bình sau nhiều năm chiến tranh. Sang thời Minh Mạng xã hội
có bước chuyển biến mới. Minh Mạng lên ngôi 1820, và đứng trước vấn đề lớn
của Lịch sử “Cởi chói cho nông dân và các tầng lớp bị trị khác thoát khỏi cơ chế
“Sở hữu ruộng đất lớn”.
Trong kinh tế, nông nghiệp vẫn là trọng, công nghiệp, thương nghiệp bị
hạn chế. Kinh tế hàng hoá không hoàn toàn bị chặn đứng nhưng không được
kích thích phát triển. Các đô thị như phố Hiến, Hội An… bị xuống cấp nghiêm
trọng.
Năm 1831 - 1832 Minh Mạng cho tiến hành cuộc cải cách bộ máy nhà
nước và bộ máy nhà nước quân chủ tập quyền đã đạt tới mức hoàn chỉnh với
một thể chế đầy đủ, chặt chẽ và thống nhất từ trung ương đến địa phương. Việt
Nam trở thành một nước mạnh so với các nước quân chủ trước đó và khu vực.
Nhưng nông dân vẫn bị bóc lột, xã hội không ổn định, mâu thuẫn xã hội nảy
sinh, đất nước bắt đầu suy yếu từ bên trong.
Bối cảnh thế giới và khu vực.
Trên thế giới: các nước tư bản phương Tây đã hình thành sau các cuộc
cách mạng tư sản (Anh, Hà Lan, Pháp… ). Sang thế kỷ XIX các nước này
chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc (bước phát triển cao của chủ nghĩa tư
bản) gắn liền với các cuộc đấu tranh gay gắt giữa các nước tư bản nhằm mở
rộng thị trường và phân chia hệ thống thuộc địa. Cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật lần thứ nhất đã làm cho năng suất lao động tăng lên không ngờ. Nguyên
vật liệu và thị trường cần có rất nhiều để đáp ứng sự phát triển của sản xuất. Các
nước Châu Âu thiếu một cách nghiêm trọng vì thế đã tiến hành những cuộc xâm
chiếm các châu lục khác, đặc biệt là phương Đông - Châu Á nơi có rất nhiều
4
tiềm năng. Tư bản Hà Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Anh và Pháp là những
quốc gia tiên phong trong cuộc “tìm kiếm thị trường”.
Khu vực: Trong khi các nước phương Tây phát triển như vũ bão thì các
quốc gia phương Đông vẫn trong “giấc ngủ” của chế độ phong kiến quân chủ
chuyên chế lạc hậu và lỗi thời (phát sinh và phát triển theo chủ nghĩa tư bản là
xu thế phát triển chung). Vì vậy Phương Đông trở thành đối tượng đầu tiên để
các nước Tư bản phương Tây xâm chiếm. Trước sự gõ cửa của chủ nghĩa tư bản
phương Tây thay vì mở toang cánh cửa đón mời thì các quốc gia phong kiến
phương Đông lại “đóng sầm” cánh cửa lại (Trung Quốc một quốc gia đi đầu làm
cho hàng loạt các quốc gia khác đang chịu ảnh hưởng của Trung Quốc làm
theo). Việt Nam là một nước phương Đông lại là nước chịu ảnh hưởng rất lớn từ
Trung Quốc nên các nước phương Tây kể cả Mĩ muốn thông thương buôn bán
thì triều Nguyễn mà ở đây là Minh Mạng đã tiến hành chính sách “đóng cửa”.
Vì không thông thương được với phương Đông nên các nước tư bản
phương Tây mà cụ thể Pháp với Việt Nam đã có một “chương trình” xâm lược.
Pháp xâm lược Việt Nam theo con đường hay là công thức: Thương nhân cộng
giáo sĩ vào trước dọn đường sau đó quân đội mới vào chính thức xâm chiếm.
Khi lên ngôi là một vị vua thông minh nên Minh Mạng đã nhận ngay ra
âm mưu của Pháp. Nhưng với cái nhìn một phía và bị hạn chế bởi tư tưởng Nho
giáo Minh Mạng không mở cửa để phát triển nội lực đất nước mà lại ban hành
hai chính sách “Bế quản toả cảng” - ngăn chặn thương nhân và “cấm đạo và sát
đạo”, ngăn chặn các giáo sĩ đạo Ki tô giáo, nhằm bảo vệ độc lập dân tộc. Nhưng
Minh Mạng không thấy rằng chính cái chính sách “Bế quản toả cảng” sau này
như vòng kinh cô cột chặt Minh Mạng và nên kinh tế đất nước vào sự chậm phát
triển làm cho nội lực quốc gia bị hổng, Pháp dễ dàng xâm chiếm.
Thực ra mầm mống của chính sách có từ thời Gia Long và trước đó nó thể
hiện ở “ức thương”, chính sách thuế khoá và kiểm soát ngặt nghèo, phức tạp. Ví
dụ năm 1807 quy định: “Phàm là thuyền buôn vận tải, cứ 1 năm chở của công
thì một năm đi buôn”. Sau khi Minh Mạng lên ngôi lúc đầu có một số quan hệ
nhất định nhưng dần dần thì Minh Mạng đã “đóng cửa” và “tuyệt giao”.
5