Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tình hình lạm phát các biện pháp hạn chế và hiệu quả của nó ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.76 KB, 21 trang )

MỞ BÀI

Lạm phát là một trong bốn yếu tố quan trọng nhất của mọi quốc gia (tăng
trưởng cao, lạm phát thấp, thất nghiệp ít, cán cân thanh toán có số dư). Tình hình
lạm phát hiện nay ở Việt Nam lên tới mức báo động là 2 con số, vượt qua
ngưỡng lạm phát cho phép tối đa là 9% của mỗi quốc gia. Điều này sẽ dẫn đến
nhiều tiêu cực trong đời sống kinh tế của chính phủ: làm suy vong nền kinh tế
quốc gia. Bên cạnh đó là sự tác động mạnh tới đời sống của người dân, nhất là
dân nghèo khi vật giá ngày càng leo thang
Kiềm chế lạm phát để ổn định kinh tế ở nước ta đang là vấn đề bức xúc.
Lạm phát đang diễn ra do nhiều nguyên nhân, trong đó, đặc biệt quan trọng là
nguyên nhân tỷ giá, là yếu tố phản ánh biến động kinh tế cả trong nước và quốc
tế. Trên cơ sở nhấn mạnh định lượng về lạm phát, tác giả đã kiến nghị một số
giải pháp để góp phần kiềm chế lạm phát ở nước ta.
Lạm phát không chỉ gây ra rối loạn kinh tế, ngừng trệ sản xuất, và bóp
méo hoạt động phân bổ nguồn lực xã hội, mà còn ảnh hưởng trực tiếp tới thu
nhập của mọi tầng lớp nhân dân, ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống của người
nghèo và người có thu nhập thấp trong xã hội, do thu nhập không thay đổi kịp
với tốc độ thay đổi giá. Lạm phát giá lương thực có thể xóa tan thành quả công
cuộc xóa đói, giảm nghèo trong nhiều năm qua của các nước đang phát triển trên
thế giới.
Lạm phát là một vấn đề phức tạp và phụ thuộc vào nhiều yếu tố kinh tế vĩ
mô. Chính vì vậy, việc nghiên cứu nguyên nhân và tìm kiếm các biện pháp đối
phó với lạm phát luôn thu hút các nhà kinh tế thế giới và là công việc thường
niên của chính phủ các nước. Trong bối cảnh lạm phát tăng cao, việc nghiên cứu
tìm nguyên nhân và biện pháp để giải quyết lạm phát ở Việt Nam là một việc hết
sức cấp thiết. Việc nghiên cứu định lượng để tìm ra nguyên nhân và lời giải cho
bài toán lạm phát ở Việt Nam sẽ giúp chúng ta nhanh chóng ổn định kinh tế vĩ
mô, đưa nền kinh tế quay trở lại guồng tăng trưởng.
PHAÀN I
LYÙ LUAÄN


1. Định nghĩa lạm phát
Lạm phát là tình trạng mức giá chung của nền kinh tế tăng lên trong một
thời gian nhất định.
Muốn đánh giá mức độ lạm phát người ta dùng chỉ tiêu tỷ lệ lạm phát.
Tỷ lệ lạm phát (gp) là chỉ tiêu phán ánh tỷ lệ tăng thêm hay là giảm bớt
của giá cả ở một thời điểm nào đó so với thời điểm trước.
− Nếu lấy chỉ số giá là tỷ lệ thay đổi giá so với thưòi điểm gốc thì:
− Nếu lấy chỉ số giá là tỷ lệ thay đổi giá so với thời điểm trước thì:
Gp=chỉ số giá thời điểm(t) – 100%
2. Phân loại lạm phát
2.1. Dựa vào tỷ lệ lạm phát, quy mô lạm phát
− Lạm phát vừa phải là loại lạm phát một con số, tỷ lệ tăng giá thấp dưới
10%/1năm.
− Lạm phát phi mã là loại lạm phát hai hay ba con số tức trong khoảng
hơn 10% và nhỏ hơn 1000%.
− Siêu lạm phát là loại lạm phát trên bốn số tức tỷ lệ lạm phát lên đến
hàng ngàn phần trăm, nó vượt xa lạm phát phi mã.
2.2 Dựa vào tính chất của lạm phát
− Lạm phát dự đoán là phần của tỷ lệ lạm phát được dự đoán là tỷ lệ tăng
theo dự đoán.
Lạm phát dự đoán là phần của tỷ lệ lạm phát của mức giá, nó có thể đúng
như dự kiến,hoạc sai.
− Lạm phát không được dự đoán là phần của tỷ lệ lạm phát không đúng
như dự kiến.
Chỉ số gi thời điểm(t) – chỉ số gi thời điểm(t-1)
Gp= *100
Chỉ số gi thời điểm(t-1)
3. Nguyên nhân của lạm phát
3.1 Lạm phát do cầu kéo
Xảy ra khi tổng cầu tăng trong khi tổng cung không đổi hoặc tổng cầu

tăng nhanh hơn tổng cung. Sản lượng của nền kinh tế vượt quá mức sản lượng
tiềm năng.
3.2 Lạm phát do cung (lạm phát do chi phí đẩy)
Loại lạm phát này xảy ra khi chi phí sản xuất gia tăng hoặc khi năng lực
sản xuất của quốc gia đó giảm sút, lạm phát này thường do các cú sốc giá cả đầu
vào và giá cả của sản phẩm trung gian tăng vọt.
3.3. Lạm phát dự kiến (lạm phát quán tính)
Lạm phát dự kiến là tỷ lệ lạm phát hiện tại mà mọi người dự kiến rằng nó
tiếp tục xảy ra trong tương lai. Loại lạm phát này được đưa vào các hợp đồng
kinh tế, các kế hoạch hay thoả thuận khác.
4. Tác động của lạm phát
4.1. Đối với sản lượng và việc làm
− Nếu lạm phát do cung gây ra thì sản lượng bị sút giảm, nền kinh tế vừa
có lạm phát vùa bị đình đốn; nếu đường AD càng nằm ngang thì mức độ sụt
giảm của sản lượng càng nghiêm trọng
− Nếu lạm phát do cầu thì sản lượng có thể tăng.
− Nếu lạm phát do cả cung lẫn cầu thì tuỳ theo mức độ dịch chuyển của
từng đường dẫn tới sản lượng có thể tăng, giảm hoặc không đổi.
4.2. Đối với việc phân phối lại thu nhập
Vì giá cả và thu nhập danh nghĩa biến động không cùng tốc độ nên có sự
thay đổi trong thu nhập thực tế gây nên sự phân phối lại.
− Những người bị phân phối lại:
Những người làm công ăn lương, những chủ nợ với lãi suất danh nghĩa cố
định.
Những người giữ tiền mặt.
− Những người được phân phối lại:
Những người đi vay với lãi suất danh nghĩa cố định.
Những người giữ hàng hoá, vàng, dollars.
=> Tác động chính về mặt phân phối nảy sinh do không đoán trước sự biến
thiên của lạm phát do đó không biết được giá trị thực tế của cải của nhân dân.

4.3. Đối với cơ cấu kinh tế
Lạm phát có thể làm thay đổi cơ cấu kinh tế do giá cả các loại hàng hoá
không thay đổi theo cùng một tỷ lệ, những ngành có giá tăng nhanh sẽ tăng tỷ
trọng chiếm trong tổng sản lượng.
4.4. Đối với hiệu quả kinh tế
Lạm phát có thể xảy ra một số tác động làm cho việc sử dụng các nguồn
lực trở nên lãng phí hơn đó là:
− Lạm phát làm sai lệch tín hiệu giá.
− Lạm phát làm lãng phí thời gian cho việc đối phó lại với tình trạng mất
giá tiền tệ.
− Lạm phát làm phát sinh chi phí điều chỉnh giá như: in lại hoá đơn, sửa
lại giá ở máy tính tiền.
− Lạm phát làm biến dạng đầu tư: Các doanh nghiệp không muốn đầu tư
vào lĩnh vực có thời gian thu hồi vốn dài. Cơ cấu đầu tư này có thể giảm hiệu
quả trong dài hạn.
− Làm suy yếu thị trường vốn do lãi suất thực là số âm thì các tổ chức tín
dụng rất khó huy động vốn làm giảm đầu tư.
− Lạm phát làm giảm mức cạnh tranh với nước ngoài do giá hàng hoá
trong nước tăng kích thích nhập khẩu và hạn chế xuất khẩu.
− Lạm phát làm giảm đầu tư từ nước ngoài.
PHẦN II
1. Tình hình lạm phát Việt Nam từ năm 2004 đến 2008
Để hiểu rõ về tình trạng lạm phát ở Việt Nam trong thời gian hiện nay, tôi
sẽ phân tích tình hình lạm phát của Việt Nam trong 5 năm qua, các chính sách
tác động, cùng hiệu quả của các chính sách đó.
1.1. Tình hình lạm phát năm 2004
Ngay từ những tháng đầu năm 2004, khi xu hướng lạm phát mạnh bắt đầu
có dấu hiệu manh nha, đã có rất nhiều khẳng định lạm phát cả năm tuy vượt qua
con số 5% mà Quốc hội đề ra nhưng sẽ không bao giờ vượt quá con số 7,5%?
Thế rồi mỗi tháng trôi qua, liên tục các dự báo đều thất bại, và cuối năm 2004 thì

lạm phát gần bằng hai con số. Cũng trong năm 2004, lạm phát được cho là không
có nguyên nhân tiền tệ, ngoại trừ một số ít tranh luận về vấn đề mang tính tâm lý
của việc phát hành tiền mới lúc bấy giờ.
Các nguyên nhân dẫn đến lạm phát năm 2004 suy cho cùng cũng gần
giống như bảy tháng đầu năm nay, như: Giá cả một số mặt hàng như phôi thép,
xăng dầu trên thế giới tăng lên, dịch cúm gia cầm, thiên tai, công tác kiểm soát
giá cả còn nhiều yếu kém
”Chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong quá trình đổi mới và cải cách kinh
tế”, do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương cùng Chương trình Phát
triển của Liên hợp quốc tổ chức.
Cũng trong ngày hôm qua, chỉ số giá tiêu dùng tháng 12 và cả năm 2004
đã được Tổng cục Thống kê công bố. Theo đó, lạm phát cả năm 2004, tính theo
chỉ số giá tiêu dùng – CPI, là 9,5%, trong khi tại buổi toạ đàm nói trên, con số
9,1% được dự báo cũng cho thấy gần sát với thực tế.
Ñến hết năm 2004, giá cả nhiều mặt hàng sẽ còn tiếp tục tăng và lạm phát
cả năm sẽ vượt mức khống chế 5% mà Quốc hội đã đề ra. Nếu có biện pháp bình
ổn thị trường hiệu quả, có khả năng lạm phát mới khống chế được ở mức 5,5-
6%.Lạm phát năm 2004 sẽ ở mức 5,5-6%? Theo Tổng cục Thống kê, tính riêng
trong tháng 2/2004, chỉ số giá tiêu dùng của cả nước tăng 3%, bằng với mức tăng
giá của cả năm 2003. Tính chung 2 tháng đầu năm, chỉ số giá tiêu dùng đã tăng
4,1%, gần tới mức dự kiến của cả năm là 5%. Đây là mức tăng giá cao nhất của 2
tháng đầu năm trong vòng 10 năm qua. Như vậy, để đạt được mục tiêu tăng giá
năm 2004 là 5% như Quốc hội đề ra thì trong 10 tháng tới mức tăng giá chỉ có
0,1%. Nếu so với cùng kỳ năm 2003 thì chỉ số giá tiêu dùng CPI của Việt Nam
trong tháng 7/2004 đã tăng 9,1%/năm - mức tăng cao nhất trong hơn 5 năm qua
(lần cuối gần đây nhất CPI của Việt Nam cũng đã tăng 9,1%/năm là vào tháng
1/1999) chủ yếu do giá lương thực - thực phẩm tăng mạnh với mức 15,5% trong
cùng kỳ. Theo dự báo của Bộ Tài chính Việt Nam, chỉ số lạm phát chung của
Việt Nam trong cả năm 2004 sẽ là 9%. Giá tiêu dùng tăng cao có ảnh hưởng
không tốt đến thu nhập và đời sống của đại bộ phận dân cư. Đó là chưa kể đến

giá các loại nguyên vật liệu thiết yếu cho sản xuất công nghiệp và nông nghiệp ở
Việt Nam đều đã tăng rất cao từ đầu năm 2004 đến nay do phải phụ thuộc nặng
nề vào nguồn nhập khẩu như xăng và các sản phẩm dầu phải nhập khẩu 100%,
phân đạm 90%, phôi thép 75% và thép thành phẩm 65%… Hệ quả là khi giá các
mặt hàng nguyên vật liệu này trên thị trường thế giới tăng cao thì giá nhập khẩu
chúng vào Việt Nam cũng phải tăng theo rất mạnh nếu ngân sách nhà nước
không đủ khả năng bù lỗ. Tính ra trong 6 tháng đầu năm 2004, giá cả của hầu hết
nguyên nhiên liệu thiết yếu cho sản xuất công - nông nghiệp như xăng dầu, sắt
thép… đều tăng nhanh đột biến lần lượt với các mức 23,6% và 48% so với cùng
kỳ năm trước chủ yếu do nhu cầu tiêu thụ rất mạnh của 2 nền kinh tế khổng lồ
trên thế giới là Mỹ và Trung Quốc, còn giá phân bón thì tăng 5,7% so với cuối
năm 2003. Mức độ tăng giá nguyên vật liệu sản xuất và giá hàng tiêu dùng trong
7 tháng đầu năm 2004 ở Việt Nam như vậy là khá cao và như Bộ Tài chính Việt
Nam đã thừa nhận có gây tác động không nhỏ đến nền kinh tế, đời sống xã hội:
“tác động xấu đến sản xuất kinh doanh, đến chính sách kinh tế vĩ mô, giá đầu ra,
ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ” (Báo cáo của Bộ Tài chính
tại Hội nghị triển khai các giải pháp thực hiện thắng lợi nhiệm vụ tài chính - ngân
sách 2004 và xây dựng dự toán ngân sách 2005 ngày 23/6/2004 tại Hà Nội).
1.2. Tình hình lạm phát Việt Nam năm 2005
Theo số liệu công bố của Tổng cục thống kê, tính đến hết tháng 12-2005,
chỉ số giá tiêu dùng của cả nước đã lên tới 8,4%, vượt xa so với mức 6,5% theo
Nghị Quyết của Quốc hội đề ra từ đầu năm, thấp hơn so với mức 9,5% của năm
2004 và cao gấp 3 lần so với mức 3,0 % của năm 2003. Tăng giá cao nhất trong
cả năm 2005 là nhóm mặt hàng lương thực - thực phẩm.Tính chung trong cả 12
tháng đầu năm 2005, nhóm lương thực- thực phẩm tăng 10,8%, thấp hơn so với
mức tăng kỷ lục 15,6% của cả năm 2004, trong đó riêng nhóm hàng thực phẩm
đã tăng tới 12% và nhóm mặt hàng lương thực tăng 7,8%.Trong khi đó giá mặt
hàng thực phẩm tính chung trong năm 2005 tăng 12%, thấp hơn so với cả năm
2004 đã tăng kỷ lục, tới 17,1%. Nguyên nhân là do tác động của dịch cúm gia
cầm xẩy ra trên diện rộng. Chính phủ chỉ đạo kiên quyết và các địa phương cũng

triển khai đồng bộ việc tiêu huỷ gia cầm, việc cấm lưu thông gia cầm, cũng như
tình trạng đóng băng tiêu thụ các sản phẩm ở nhiều địa phương. Do đó nhu cầu
tiêu thụ thực phẩm được dồn sang các mặt hàng khác làm cho giá bán lẻ nhóm
mặt hàng này tăng lên. Trước tình hình diễn biến của dịch cúm gia cầm đến cuối
tháng 11-2005 đã lan rộng đến 17 tỉnh thành phố trong cả nước, cũng như tình
trạng tiêu thụ các sản phẩm gia cầm ở nhiều địa phương bị đóng băng, sẽ làm cho
giá thực phẩm trong tháng 12-2005 sẽ tiếp tục tăng khá. Cùng với tác động của lũ
lụt ở khu vực miền Trung, do nhu cầu tiêu thụ vào dịp cuối năm nên chỉ số giá –
CPI trong tháng 12-2005 vẫn tiếp tục tăng khá tới 1,7%.
Mức tăng lớn đứng hàng thứ hai trong năm 2005 là nhóm mặt hàng nhà ở
và vật liệu xây dựng. Trong năm 2005 nhóm này đã tăng 9,8%. Nguyên nhân của
tình trạng đó là do giá sắt thép trên TT thế giới và giá bán lẻ TT trong nước tăng
cao; đồng thời nhu cầu xi măng và các mặt hàng vật liệu xây dựng khác trong
nước cũng tăng, tác động lên giá bán lẻ.
Mức tăng đứng hàng thứ ba trong cả năm 2005 là nhóm phương tiện đi lại
và bưu điện. Tính chung trong 12 tháng nhóm này tăng 9,1%. Nguyên nhân chủ
yếu là do giá bán lẻ xăng dầu trong nước tăng cao.Cũng trong 11 tháng đầu năm
2005, giá bán lẻ các mặt hàng xăng dầu TT trong nước được điều chỉnh tăng tới 3
đợt, với tổng mức tăng bình quân từ 45,6% đến 55%. Đến lượt nó, nguyên nhân
của việc điều chỉnh giá bán lẻ xăng dầu trong nước là do giá dầu thô trên TT thế
giới tăng cao lên mức đỉnh điểm trong hàng chục năm qua. Đến ngày 22-11-2005
giá bán lẻ xăng dầu được điều chỉnh giảm 500đ/lít, nhưng không tác động giảm
cước phí giao thông vận tải và đi lại.
+ Thứ tư là nhóm đồ dùng và dịch vụ khác trong năm 2005 tăng 6,0%.
Tiếp đến là nhóm mặt hàng giáo dục; may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 5,0%;
dược phẩm y tế tăng 4,9%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 4,8%. Riêng nhóm
văn hoá thể thao giải trí có mức tăng thấp nhất là 2,7%.
+ Vàng và đôla Mỹ không tính trong chỉ số tăng giá tiêu dùng CPI nhưng
riêng giá vàng tăng tới 11,3%.
+ Về tiền tệ: Trong năm 2005 Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã 3 lần tăng

các loại lãi suất chủ đạo, 2 lần tăng lãi suất cơ bản đồng Việt Nam và giữ mức
cao tỷ lệ dự trữ bắt buộc, thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt. Thực tế các chỉ
tiêu: khối lượng tiền cung ứng ra lưu thông, dư nợ cho vay, của hệ thống ngân
hàng thấp hơn cùng kỳ và cả năm 2004. Tổng phương tiện thanh toán đến hết
tháng 11-2005 tăng 16,4% so với 31-12-2004, dự báo cả năm sẽ chỉ tăng khoảng
18%, thấp hơn mức 30,39% của năm 2004 và 24,94% của năm 2003. Bản thân
các Ngân hàng thương mại cũng kiểm soát chặt chẽ cho vay. Thậm chí nhiều
NHTM Nhà nước còn khống chế chỉ tiêu tăng trưởng dư nợ của các chi nhánh
NHTM trực thuộc. Các NHTM còn đẩy mạnh huy động vốn trong nền kinh tế,
đồng thời đầu tư khoảng trên 22.000 tỷ đồng vào Tín phiếu kho bạc Nhà nước
thông qua các phiên đấu thầu do NHNN tổ chức, mua công trái giáo dục, trái
phiếu Chính phủ, Trái phiếu doanh nghiệp và Trái phiếu đô thị của Hà Nội Do
đó một lần nữa có thể khẳng định, tiền tệ không phải là nguyên nhân gây nên chỉ
số CPI tăng cao trong năm 2005.
+ Về chính sách tài chính, dự kiến thu ngân sách cả năm 2005 sẽ đạt
210.400 tỷ đồng, vượt 15% so với kế hoạch và tăng 16% so với số thực hiện năm
2004. Trong khi đó số chi ngân sách cả năm 2005 dự tính chỉ tăng 12,5% so với
dự toán. Bội chi vẫn nằm trong mức do Quốc hội cho phép.Vốn ngân sách đầu tư
phát triển cho các dự án giải ngân không đạt kế hoạch. Điều đó cho thấy tiền
ngoài lưu thông được thu hút về qua kênh ngân sách đạt kết quả rất tích cực.Các
khoản chi ra được thực hiện chặt chẽ. Tất nhiên là không tránh khỏi tình trạng
tham ô, lãng phí, tiêu cực, tham nhũng, qua kênh chi tiêu ngân sách, qua các dự
án đầu tư xây dựng cơ bản. Mặc dù vậy, cũng không thể đổ lỗi cho thực hiện
chính sách tài khoá gây nên tình trạng tăng chỉ số CPI năm 2005.
1.3. Tình hình lạm phát Việt Nam năm 2006
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 8-2006 đã tăng đến 0,4%, tính đến hết
tháng 8 đã tăng 4,8% trong năm 2006 và tăng tới 7,5% so với cùng kỳ năm
ngoái. Hơn nữa, CPI tháng 9 cũng vừa được Tổ điều hành thị trường trong nước
dự báo sẽ tăng cao, khoảng 0,6%. Theo Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) dự
báo thì lạm phát của VN trong năm 2006 sẽ ở vào khoảng 6%.Hơn nữa, CPI

tháng 9 cũng vừa được Tổ điều hành thị trường trong nước dự báo sẽ tăng cao,
khoảng 0,6%. Theo Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) dự báo thì lạm phát của
VN trong năm 2006 sẽ ở vào khoảng 6%.Giá cả của mặt hàng lương thực chủ
yếu phụ thuộc vào giá phân bón và các điều kiện về thời tiết, dịch bệnh. Hiệp hội
Phân bón VN cho biết, mặc dù nhu cầu phân bón đang tăng mạnh, nhất là tại các
tỉnh ĐBSCL, do vụ lúa hè thu đang ở giai đoạn bón thúc nhưng nguồn cung
trong nước lẫn nguồn nhập khẩu rất dồi dào nên có thể khẳng định thị trường VN
từ nay sẽ khó xảy ra sốt phân bón như những năm trước đây. Một nhóm hàng khá
ổn định trong thời gian qua đã có mức tăng đáng kể trong tháng 8 là may mặc và
mũ nón (tăng 0,5%). Nguyên nhân là ngày tựu trường sắp đến nên nhu cầu mua
sắm cho năm học mới tăng cao. Và như vậy, nhóm hàng này sẽ còn tăng giá nữa
ở dịp mua sắm cuối năm. Ngược lại nhóm hàng tăng mạnh trong mấy tháng qua
là văn hoá, thể thao, giả trí nay đã khá ổn định với mức tăng 0,3%.
Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng đứng đầu các mặt hàng tăng giá trong
tháng 8 với tỷ lệ 1,1%, do các nhà thầu đẩy mạnh xây dựng trước khi bước vào
mùa mưa và vật liệu xây dựng tăng giá nhiều do tác động đầu vào. Ngoài ra, nhu
cầu lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ đang có chiều hướng gia
tăng đã đẩy mức lương tăng lên cũng ảnh hưởng đến chi phí đầu vào của các
doanh nghiệp.
Nhiều lần điều chỉnh tăng giá xăng dầu đã đẩy giá xăng bán lẻ lên mức
12.000đ/lít, xấp xỉ 0,75 đôla/lít thuộc hàng cao nhất trên thế giới (theo PGS.TS.
Trần Ngọc Thơ - ĐH Kinh tế TP.HCM). Một số nhà phân tích cho rằng tác động
trực tiếp của tăng giá xăng dầu đến lạm phát là rất hạn chế.
Trong 2 tuần gần đây giá vàng thế giới có xu hướng giảm kéo giá vàng
trong nước giảm theo. Tại thị trường VN, giá vàng SJC ngày 30-8 tại Hà Nội
giảm xuống 1.220.000 đồng/chỉ so với mức 1.224.000 đồng chỉ của phiên giao
dịch ngày hôm trước. Theo nhận định của giới chuyên môn nhiều khả năng giá
vàng sẽ còn giảm nữa.
`Bảng 1. Chỉ số lạm phát giá tiêu dùng và chỉ số lạm phát "cơ bản"
2006 2007

2007
(Quý III)
2007
(Quý IV)
02-2008
Chỉ số lạm phát giá tiêu dùng (headline inflation)
Việt Nam
7,4 8,3 8,6 10,7 15,7
Đóng góp của tăng giá lương thực vào CPI
3,7 4,8 5,1 6,7 10,8
Trung Quốc 1,5 4,8 6,2 6,7 8,7
Thái Lan 4,6 2,2 1,6 2,9 5,4
Phi-lip-pin 6,2 2,8 2,5 3,3 5,4
Chỉ số lạm phát “cơ bản” (“core” inflation)
Trung Quốc 0,8 0,9 0,8 1 1,1
Thái Lan 2,3 1 0,7 1,1 1,5
Phi-lip-pin 5,6 0 2,8 2,4 4
Nguồn: East Asia & Pacific Update (4-2008)
Bảng 1 chỉ ra rằng, gia tăng lạm phát trong thời gian gần đây chủ yếu là
do tăng giá lương thực theo diễn biến chung trên thế giới. Nguyên nhân làm cho
lạm phát ở Việt Nam cao hơn nước ngoài là do chế độ tỷ giá bất lợi làm cho Việt
Nam phải “nhập khẩu lạm phát” giá lương thực tính theo USD, và làm khuếch
đại mức tăng giá cả lương thực tương đối so với các nước khác.
1.4. Tình hình lạm phát Việt Nam năm 2007
12 là con số được lặp lại nhiều lần khi nói đến lạm phát trong những ngày
cuối năm 2007. Theo ước tính mới nhất của Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu
dùng (CPI) của Việt Nam vào tháng 12/2007 đã tăng 12,6% so với tháng
12/2006. Đây là mức tăng giá tiêu dùng cao nhất trong vòng 12 năm qua.
Lạm phát giai đoạn 1995-2007, tính theo chỉ số giá tiêu dùng tháng 12 mỗi năm so với
tháng 12 năm trước. (Nguồn: Tổng cục Thống kê)

Đúng là giá lương thực – thực phẩm và giá dầu thế giới đã tăng cao trong
năm 2007. Do hai nhóm hàng hóa này đều là những sản phẩm ngoại thương chủ
đạo của Việt Nam và đồng thời chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu CPI, đây chắc
chắn là một trong những nguyên nhân gây ra lạm phát cao ở Việt Nam trong suốt
năm nay.
Giá thực phẩm 2007 tăng phi mã khiến người tiêu dùng chóng mặt. Giá
gas tăng thêm khoảng 10.000đ/bình; giá sữa vẫn tăng khoảng gần 10%; thị
trường ôtô chưa hạ nhiệt Giá mỗi kilôgram thịt lợn đã tăng trên dưới 2.000đ;
giá mỗi chai dầu ăn cũng tăng từ 2.000đ/chai đến dưới 10.000đ/chai. Ngay cả
dịch vụ xe ôm và quán bán phở cũng tự ý nâng giá dịch vụ với các mức tăng từ
1.000đ đến khoảng 5.000đ
Tổng cục Thống kê (TCTK) ngày 25.9 đã công bố chỉ số giá tiêu dùng
(CPI) trong tháng 9 của 10 nhóm mặt hàng tăng 0,51% so với tháng trước, giảm
0,04% so với mức tăng 0,55% của tháng 8. Như vậy, tính từ đầu năm đến nay,
CPI đã tăng tới 7,32% so với cuối tháng 12.2006 và tăng 8,8% so với cùng kỳ
năm 2006. Trong số mặt hàng tăng giá mạnh, nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống
tăng tới 1,02%, trong đó lương thực tăng 0,85%, thực phẩm tăng giá tới 1,26%,
nhóm hàng dược phẩm y tế tăng 0,91%, vật liệu xây dựng tăng 0,43%, giáo dục
tăng 0,39% Cũng trong tháng, chỉ số giá vàng đã tăng tới 1,93%, chỉ số giá
USD tăng 0,57%.
Tăng trưởng kinh tế liên tục và ở mức cao đòi hỏi lượng tiền đưa vào lưu
thông cũng phải tăng lên tương ứng. Tuy nhiên, khi chênh lệch giữa mức tăng
cung tiền và tăng tổng sản phẩm quốc gia (GDP) trở nên quá lớn thì áp lực lạm
phát sẽ nảy sinh.
Về mặt nguyên tắc, giá trị tính theo tiền của một mặt hàng luôn bằng
lượng nhân với giá. Nếu giá trị tính theo tiền tăng lên, nhưng lượng hàng không
tăng hay tăng chậm hơn, thì giá buộc phải tăng. Ta có thể hình dung GDP (sau
khi loại bỏ yếu tố trượt giá) là tổng sản lượng sản xuất ra.
1.5. Tình hình lạm phát Việt Nam năm 2008
Thu ngân sách năm 2008 vượt dự toán. Cán cân thanh toán quốc tế được bảo đảm;

ước cả năm 2008 thặng dư khoảng 2,7 tỷ USD. Từ tháng 6 năm 2008, mức tăng giá tiêu
dùng đã giảm dần, tháng 9 tăng 0,18%, tính chung 9 tháng giá tiêu dùng tăng 21,87%, dự
báo cả năm 2008 tăng khoảng 24%.Xuất khẩu năm 2008 tăng cao. Kim ngạch xuất khẩu 9
tháng đạt 48,6 tỷ USD tăng 39% so với cùng kỳ năm 2007 (cùng kỳ tăng 19,4%); ước cả
năm đạt trên 65 tỷ USD, tăng 33,9% là mức tăng cao nhất trong 10 năm qua (năm 2007
tăng 21,9%).Giá dầu thô quý 1 năm 2008 tăng gần 40% so với giá bình quân năm
2007 và dự báo tiếp tục ở mức cao như hiện nay. Thậm chí có dự báo cao hơn, lên
đến 150USD/ thùng. Giá phôi thép đầu năm 2008 đã tăng 45,1% so với cuối năm
2007, hiện giá chào đã lên đến 900USD/tấn. Giá phân urê, giá bột mỳ, gạo tháng 3
năm 2008 đã tăng hơn gấp đôi so với năm 2007.Đầu tư trực tiếp nước ngoài ước cả
năm có số vốn đăng ký trên 60 tỷ USD, gấp khoảng 3 lần so với năm 2007, vốn
thực hiện khoảng 10 - 11 tỷ USD. Chỉ số tăng trưởng GDP hiện nay giảm xuống rất
thấp và lạm phát ở mức rất cao (trên 20%). Chỉ số tăng trưởng GDP hiện nay rất
thấp, chỉ còn 6,7% mặc dù tốc độ tăng trưởng của Việt Nam năm 2007 cao nhất
trong 10 năm qua. Mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2008 do Quốc hội đề ra từ kỳ
họp cuối năm trước là 8,5- 9%, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo phấn đấu đạt trên 9%.
Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế quý 1/2008 đã chậm lại so với tốc độ của quý
1/2007. Lạm phát vượt qua mức tối đa cho phép 9% và lạm phát năm 2008 tình đến
nay là 22,3%. Lạm phát năm 2007 đã ở mức hai chữ số (12,63%), 3 tháng 2008 tiếp
tục lồng lên đến mức 9,19%, cao gấp ba lần cùng kỳ và bằng gần ba phần tư mức
cả năm 2007, đã vượt qua mức theo mục tiêu đã đề ra cho cả năm 2008; nhập siêu
gia tăng cả về kim ngạch tuyệt đối (3.366 triệu USD so với 1.933 triệu USD), cả về
tỷ lệ nhập siêu so với xuất khẩu (56,5% so với 18,2%)
Lạm phát ở nước ta trong năm 2008 là sự tích hợp của nhiều yếu tố: Lạm
phát cầu kéo, lạm phát chi phí đẩy, lạm phát tiền tệ, lạm phát do yếu tố tâm lý
Chúng ta đã bàn nhiều đến nguyên nhân trong nước và quốc tế nhưng nguyên
nhân cơ bản là do đã mở rộng tín dụng và đầu tư một cách quá mức để hy vọng
đạt được tăng trưởng kinh tế cao trong ngắn hạn. Chính vì vậy, bây giờ chúng ta
phải trả giá bằng mất ổn định kinh tế vĩ mô, ít nhất là trong trung hạn
Báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế - xã hội năm 2008 và nhiệm

vụ năm 2009 do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trình bày trước Quốc hội cho
thấy năm 2008 dù đã đạt nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế - xã hội, đặc
biệt là kiềm chế lạm phát có hiệu quả (Dự kiến tổng sản phẩm trong nước cả
năm 2008 tăng 6,5-7,0% so với năm 2007) Tuy nhiên trong năm 2008, nền
kinh tế cũng đang còn nhiều hạn chế, yếu kém.
Mục tiêu tổng quát về phát triển kinh tế, xã hội của năm 2009 cần được
xác định là: Tiếp tục ưu tiên kiềm chế lạm phát, chủ động hạn chế tác động tiêu
cực của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, bảo đảm ổn định
kinh tế vĩ mô; chăm lo tốt hơn an sinh xã hội; duy trì tăng trưởng hợp lý, bền
vững; giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn
xã hội; tạo điều kiện thực hiện thắng lợi "Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5
năm 2006 - 2010". Ưu tiên số một kiềm chế lạm phát.
2. Các biện pháp kiềm chế lạm phát và hiệu quả của nó
2.2. Các biện pháp kiềm chế lạm pháp
Hiện chúng ta giảm lạm phát bằng nhiều biện pháp. Phaûi coù giải pháp
đồng bộ, nhưng nên xác định rõ trọng tâm, trọng điểm. Phải tìm đúng huyệt,
đánh vào đấy hiệu quả mới cao được. Lạm phát tiền tệ có thể được giải quyết
thông qua thắt chặt tín dụng, nhưng lạm phát do cầu kéo hoặc chi phí đẩy chỉ có
thể được giải quyết thông qua điều chỉnh cơ cấu và ổn định hóa.
Để đạt được những nhiệm vụ và mục tiêu nêu trên, Chính phủ đã thống
nhất chỉ đạo thực hiện quyết liệt và đồng bộ các giải pháp chủ yếu sau đây:
Một là, thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt. Cho dù do nhiều nguyên
nhân, nhưng lạm phát luôn có nguyên nhân tiền tệ. Mức cung tiền trong lưu
thông và dư nợ tín dụng tăng liên tục từ năm 2004 qua các năm và tăng cao trong
năm 2007 là nguyên nhân quan trọng gây lạm phát. Nhận thức được tình hình đó,
Chính phủ chủ trương kiểm soát chặt chẽ tổng phương tiện thanh toán và tổng dư
nợ tín dụng ngay từ đầu năm. Ngân hàng Nhà nước, thông qua việc chủ động,
linh hoạt sử dụng hợp lý các công cụ chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị
trường để thực hiện bằng được yêu cầu này.
Điều cần nhấn mạnh là trong khi kiên quyết thắt chặt tiền tệ, cần bảo đảm

tính thanh khoản của nền kinh tế và hoạt động của các ngân hàng, tổ chức tín
dụng, tạo điều kiện cho sản xuất hàng hoá và xuất khẩu phát triển.
Hai là, cắt giảm đầu tư công và chi phí thường xuyên của các cơ quan sử
dụng ngân sách, kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, cố
gắng giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách. Đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước và đầu
tư của doanh nghiệp nhà nước hiện chiếm khoảng 45% tổng đầu tư xã hội. Cắt
giảm nguồn đầu tư này sẽ làm giảm áp lực về cầu, giảm nhập siêu, góp phần
nâng cao hiệu quả của nền kinh tế. Chính phủ sẽ quy định cụ thể tỷ lệ vốn đầu tư
và chi phí hành chính phải cắt giảm và yêu cầu các bộ, địa phương xác định các
công trình kém hiệu quả, các công trình chưa thực sự cần thiết để có sự điều
chỉnh thích hợp. Điều này sẽ được thực hiện một cách kiên quyết ngay trong việc
phân bổ lại và cân đối nguồn vốn.
Ba là, tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, khắc
phục nhanh hậu quả của thời tiết và dịch bệnh để tăng sản lượng lương thực, thực
phẩm. Hiện nay, tiềm năng tăng trưởng của nước ta còn rất lớn, nhất là khi Việt
Nam đã là thành viên đầy đủ của Tổ chức Thương mại thế giới, đầu tư nước
ngoài và đầu tư tư nhân tăng mạnh, thị trường xuất khẩu được mở rộng, vì vậy,
phát triển sản xuất là giải pháp gốc, tạo hiệu quả nhiều mặt, vừa tăng nguồn cung
cho thị trường trong nước và xuất khẩu, góp phần kiềm chế lạm phát, giảm nhập
siêu, vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, lại không gây phản ứng phụ.
Để thực hiện yêu cầu này, Chính phủ đã giao nhiệm vụ cho các bộ trưởng,
chủ tịch UBND các tỉnh và thành phố chỉ đạo quyết liệt, kịp thời tháo gỡ các khó
khăn, vướng mắc về vốn, về thị trường, về thủ tục hành chính, thúc đẩy sản xuất
phát triển.
Bốn là, bảo đảm cân đối cung cầu về hàng hoá, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm
nhập siêu. Thủ tướng Chính phủ, các bộ trưởng đã và sẽ tiếp tục làm việc với các
hiệp hội ngành hàng, các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng thiết yếu, như:
lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, xăng dầu, sắt thép, vật liệu xây dựng,
phân bón giao nhiệm vụ cho các đơn vị này phải bảo đảm nguồn hàng, đồng
thời có trách nhiệm cùng Chính phủ kiềm giữ giá cả.

Trong khi kiên trì chủ trương thực hiện cơ chế giá thị trường, xoá bỏ bao
cấp qua giá, nhưng trong tình hình hiện nay, mặc dầu giá thế giới tăng cao, Chính
phủ đã quyết định: từ nay cho đến hết tháng 6, chưa tăng giá điện, giá than, giá
xăng dầu; giữ ổn định giá xi măng, phân bón, nước sạch, thuốc bệnh, vé máy
bay, tàu hoả; giao Bộ Tài chính rà soát để cắt, giảm các loại phí thu từ nông
dân
Để bảo đảm nguồn cung trên thị trường nội địa, giữ vững an ninh lương
thực và kiềm chế sự tăng giá quá mức của nhóm hàng này, Chính phủ quy định
lượng xuất khẩu gạo năm nay ở mức 4 triệu tấn và từ nay đến hết quý 3 không
quá 3,2 triệu tấn. Chính phủ cũng đã giao Bộ Tài chính đề xuất phương án nâng
thuế xuất khẩu than, dầu thô và nghiên cứu khả năng áp dụng thuế xuất khẩu gạo.
Cán cân thương mại là một chỉ tiêu vĩ mô rất quan trọng. Nhập siêu tăng trong
năm 2007 và tăng cao hơn trong quý 1 năm nay, đã đe doạ đến cân đối vĩ mô, đòi
hỏi phải áp dụng các biện pháp kiên quyết để hạn chế tình trạng này trên cơ sở
đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu.
Để làm việc này, Chính phủ đang chỉ đạo quyết liệt thực hiện nhiều giải
pháp: Ngân hàng Nhà nước bảo đảm đủ vốn và mua hết ngoại tệ cho các doanh
nghiệp làm hàng xuất khẩu, xử lý ngay các ách tắc về tín dụng xuất khẩu cho
từng trường hợp cụ thể; tăng cường hỗ trợ công tác xúc tiến thương mại đối với
hàng xuất khẩu; cải cách mạnh thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động xuất
khẩu để giảm chi phí cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh
của hàng xuất khẩu Việt Nam đi đôi với việc áp dụng các hàng rào kỹ thuật và
các biện pháp khác phù hợp với các cam kết quốc tế của nước ta để giảm nhập
siêu, kể cả việc tăng thuế nhập khẩu những mặt hàng không thiết yếu.
Năm là, triệt để tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng. Hiện nay, tình trạng
lãng phí trong sản xuất và tiêu dùng diễn ra khá phổ biến ở các cơ quan, đơn vị.
Tiềm năng tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng là rất lớn. Vì vậy, Chính phủ yêu
cầu các cơ quan nhà nước cắt giảm 10% chi tiêu hành chính, các doanh nghiệp
phải rà soát tất cả các khoản chi nhằm hạ giá thành và phí lưu thông. Chính phủ
kêu gọi mọi người, mọi nhà triệt để tiết kiệm tiêu dùng, nhất là nhiên liệu, năng

lượng. Đây là giải pháp vừa có tác dụng giảm sức ép về cầu, giảm nhập siêu, vừa
góp phần nâng cao hiệu quả của cả nền sản xuất xã hội.
Sáu là, tăng cường công tác quản lý thị trường, kiểm soát việc chấp hành
pháp luật nhà nước về giá. Kiên quyết không để xảy ra tình trạng lạm dụng các
biến động trên thị trường để đầu cơ, nâng giá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho
sản xuất và tiêu dùng, như: xăng dầu, sắt thép, xi măng, thuốc chữa bệnh, lương
thực, thực phẩm…; ngăn chặn tình trạng buôn lậu qua biên giới, đặc biệt là buôn
lậu xăng dầu, khoáng sản.
Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải thường xuyên kiểm
tra giá bán tại các mạng lưới bán lẻ và các đại lý bán lẻ của doanh nghiệp mình.
Chính phủ đã chỉ đạo các tổng công ty nhà nước phải gương mẫu đi đầu trong
việc thực hiện yêu cầu này và chịu trách nhiệm trước Chính phủ về hoạt động
của hệ thống bán lẻ và đại lý bán lẻ của doanh nghiệp. Chính phủ cũng yêu cầu
các hiệp hội ngành hàng tham gia tích cực, ủng hộ các chủ trương và giải pháp
bình ổn thị trường, giá cả.
Bảy là, mở rộng việc thực hiện các chính sách về an sinh xã hội. Trước
tình hình giá cả tăng cao, ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân, nhất là vùng
nghèo, hộ nghèo, vùng bị thiên tai, người lao động có thu nhập thấp, Chính phủ
đã chủ trương mở rộng các chính sách về an sinh xã hội.
Cân đối cung cầu về hàng hoá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất
và đời sống nhân dân là tiền đề quyết định để không gây ra đột biến về giá, ngăn
chặn đầu cơ.
2.3. Hiệu quả của các biện kiềm chế lạm phát
Ngay từ đầu năm, Ngân hàng Nhà nước đồng loạt triển khai các biện pháp
thắt chặt tiền tệ. Với những biện pháp này, liệu mục tiêu kiềm chế lạm phát thấp
hơn tốc độ tăng trưởng có khả thi?
Dự trữ bắt buộc lên tới 15%?
Ngày 16/1, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định tăng tỷ lệ dự trữ
bắt buộc đối với các loại tiền gửi VND không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng
từ 10% lên 11%.

Đây là mức tăng nhẹ, đi cùng với tín hiệu mua vào ngoại tệ trước áp lực
nguồn cung lớn trên thị trường và được các ngân hàng thương mại “thông cảm”,
bình ổn lãi suất.
Tuy nhiên, với kế hoạch phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu vào ngày 17/3 tới,
mọi chuyện đã khác, bởi từ đây có thể xem tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã lên đến 15%.
Theo nhà phân tích kinh tế Huỳnh Thế Du, Chương trình Giảng dạy Kinh
tế Fulbright (Mỹ), việc rút 20.300 tỷ đồng vốn nói trên của các ngân hàng thương
mại tương ứng với mức tăng khoảng 3 – 4% tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền
đồng, cộng với tỷ lệ quy định hiện hành có thể lên tới 15%.
“Có thể xem việc phát hành tín phiếu đó giống như tăng dự trữ bắt buộc.
Chỉ có điều là lượng tiền đó được trả lãi suất, có thời hạn. Tính chung khoảng
15% như vậy là một mức quá cao và lại đúng vào thời điểm nền kinh tế cần tiền
nhất”, ông Du nhận định.
Trước đó, tháng 6/2007, Ngân hàng Nhà nước cũng quyết định tăng mạnh
tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 5% lên 10%. Quyết định này lập tức gặp phản ứng gay
gắt từ các ngân hàng thương mại, bởi ước tính sau đó chi phí hoạt động của họ bị
đội lên khoảng 0,25%.
Và lần này, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục mạnh tay để kiềm chế lạm phát;
phản ứng của thị trường dự báo sẽ là những đợt tăng lãi suất nóng sốt và xảy ra
tình trạng mất thanh khoản cục bộ.
Trên thực tế, ngay sau loạt biện pháp thắt chặt tiền tệ của Ngân hàng Nhà
nước, một số ngân hàng buộc phải tiếp tục tạm ngừng các khoản cho vay; lãi suất
qua đêm trên thị trường liên ngân hàng có thời điểm tái lập mốc lo ngại tới 25%.
Nên xem xét giãn tiến độ các dự án công
Về một loạt biện pháp mà Ngân hàng Nhà nước vừa và chuẩn bị triển
khai, chuyên gia Huỳnh Thế Du lo ngại:
“Tôi cũng không hiểu sao Ngân hàng Nhà nước lại mạnh tay như thế?
Đây là thời điểm nhạy cảm. Để kiềm chế lạm phát, rút tiền về là đúng. Nhưng
với cách làm trên e là có vấn đề đối với cả hệ thống tiền tệ”.
Theo nhận định của ông, hiện tại các ngân hàng hạn chế cho vay là bình

thường. Nhưng qua đó cho thấy thanh khoản của hệ thống đang có vấn đề. Việc
rút mạnh vốn thời điểm này có thể dẫn tới mất thanh khoản cục bộ và ảnh hưởng
xấu đến cả hệ thống.
Thắt chặt tiền tệ có khả năng kiềm chế lạm phát, nhưng nếu làm quá
mạnh, hiệu quả chưa thấy mà đã dẫn đến nguy cơ sụp đổ hệ thống ngân hàng.
Tôi cho rằng Ngân hàng Nhà nước đang quyết liệt với mục tiêu kiềm chế lạm
phát, nhưng có vẻ hơi cứng nhắc.
Về lý thuyết thuần túy, trên một thị trường tiền tệ hoàn hảo thì việc mạnh
tay như vậy sẽ phát huy hiệu quả. Nhưng với thị trường Việt Nam hiện nay chưa
thể đạt được mong muốn đó.
Cùng quan điểm cho rằng những biện pháp mạnh tay nêu trên của NHNN
có thể dẫn đến việc “chưa được vạ, má đã sưng”, lãnh đạo một ngân hàng thương
mại lo ngại rằng tình trạng thanh khoản thấp sẽ ảnh hưởng tới tâm lý khách hàng,
cả người gửi tiền lần người rút tiền và đây là điều “kiêng kỵ” trong hoạt động tài
chính vốn rất nhạy cảm.
Vị lãnh đạo này cũng bày tỏ lo ngại về “đợt sát hạch” năng lực vốn này sẽ
thanh lọc các ngân hàng yếu. Điều đó có thể đến trước khi hiệu quả của các biện
pháp kiềm chế lạm phát mà Ngân hàng Nhà nước triển khai thể hiện.
Bản thân ngân hàng ông có thể hoạt động bình thường trong đợt sóng gió
này, nhưng khi “kiểm tra chéo” nhân viên phòng vốn thì chính ngân hàng này
cũng đang trong tình trạng giải ngân nhỏ giọt, lãi suất chuẩn bị một bước tăng
mới, dù vừa điều chỉnh chưa đầy một tháng trước đó.
Ở một hướng khác, một khuyến nghị được ông Huỳnh Thế Du đề cập đến,
thay vì thắt chặt tiền tệ quá mạnh tay là có thể xem xét giãn tiến độ các dự án
công, bởi hiện nay việc cung tiền cho những dự án này lớn nhưng lại không tạo
ra giá trị gia tăng ngay lập tức càng tạo thêm áp lực lớn đối với lạm phát.
Và với mục tiêu kiềm chế lạm phát thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế
năm nay, chuyên gia này dự báo sẽ khó hiện thực. Bởi trước mắt, bên cạnh
những bất ổn trong chính sách tiền tệ, hiện tượng thời tiết bất thường đầu năm tại
các tỉnh phía Bắc và bệnh rầy nâu xuất hiện tại miền Nam…, cùng với diễn biến

khó lường trên thị trường thế giới dự báo sẽ còn đẩy giá cả leo thang.
Chính phủ quyeát taâm phấn đấu đạt cho được những kết quả cơ bản trong
việc kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, giải quyết tốt hơn những vấn đề
an sinh xã hội; vừa chủ động hạn chế tối đa những tác động tiêu cực của khủng
hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đến nền kinh tế nước ta, phấn đấu
giữ tăng trưởng ở mức hợp lý với yêu cầu chất lượng cao hơn.
Theo tin từ Bộ Kế hoạch & Đầu tư, doanh thu xuất khẩu 6 tháng đầu năm
đã đạt 29,7 tỷ USD, tăng 31,8% so với cùng kỳ năm ngoái. Nhập siêu trong tháng
5/2008 chỉ còn 1,3 tỷ USD; trong tháng 6, chỉ số giá tiêu dùng chỉ tăng 2,2%. Vụ
đông xuân cả nước được mùa, đưa mức tăng trưởng nông nghiệp đạt gần 3%,
Chính phủ đã chỉ đạo đẩy mạnh xuất khẩu gạo. Như vậy, 8 nhóm giải pháp kiềm
chế lạm phát của Chính phủ đã bắt đầu có hiệu quả; mức tăng trưởng GDP sáu
tháng đầu năm đạt khoảng 6,6% - 6,7%; bảo đảm GDP năm 2008 sẽ tăng từ 7%
là mức chỉ tiêu Quốc hội đã điều chỉnh.
KẾT LUẬN
Chống lạm phát là một nhiệm vụ phức tạp, đòi hỏi sự trả giá và đánh đổi.
Để chống lạm phát đạt kết quả, sự trả giá và đánh đổi là thấp nhất, nhất thiết phải
có sự phối hợp đồng bộ của các cơ quan quản lý nhà nước, sự chấp hành và tổ
chức, triển khai thực hiện nghiêm túc của các cấp chính quyền.
Hơn nữa, thị trường thế giới đang biến động, phải theo dõi sát tình hình,
cập nhật đầy đủ thông tin để có các giải pháp phản ứng kịp thời, chính xác, nhằm
một mặt, hạn chế các tác động xấu do những khó khăn khách quan mới nẩy sinh;
mặt khác, tận dụng được thời cơ mới xuất hiện để phát huy tiềm năng tăng
trưởng của đất nước, thúc đẩy kinh tế phát triển cao hơn khi điều kiện thuận lợi.
Kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô phải được xác định là mục tiêu ưu tiên
hàng đầu trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, việc kềm chế lạm phát cần được
thực hiện có lộ trình, minh bạch, để ngân hàng và các tổ chức tín dụng có cơ hội
chuẩn bị, tránh gây sốc cho hệ thống tài chính ngân hàng như trong thời gian vừa
qua có thể đẩy nguy cơ khủng hoảng toàn hệ thống lên cao.
Chính phủ nhận thức đầy đủ trách nhiệm của mình trước toàn Đảng, toàn dân

về kiềm chế lạm phát. Nhưng, công cuộc này chỉ có thể đạt được kết quả khi có sự
ủng hộ và đồng tâm, hiệp lực của cả hệ thống chính trị, của cộng đồng doanh nghiệp,
của các cơ quan thông tin đại chúng và của toàn thể nhân dân cả nước.
Nhiệm vụ đặt ra là rất nặng nề, khó khăn thách thức trong quá trình phát
triển đi lên có mặt cũng rất gay gắt, nhưng thời cơ thuận lợi và tiềm năng tăng
trưởng của nền kinh tế nước ta còn rất lớn và rất cơ bản. Chúng ta hoàn toàn tin
tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng
và với sự quyết tâm, chung sức chung lòng của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân,
chúng ta sẽ kiềm chế được lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã
hội và tiếp tục đưa nền kinh tế nước ta phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ kế hoạch 5 năm 2006 - 2010 mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã
đề ra.
MỤC LỤC
MỞ BÀI 1
PHAÀN I: LYÙ LUAÄN
1. Định nghĩa lạm phát 2
2. Phân loại lạm phát 2
2.1. Dựa vào tỷ lệ lạm phát, quy mô lạm phát 2
2.2. Dựa vào tính chất của lạm phát 2
3. Nguyên nhân của lạm phát 3
3.1. Lạm phát do cầu kéo 3
3.2. Lạm phát do cung (lạm phát do chi phí đẩy) 3
3.3. Lạm phát dự kiến (lạm phát quán tính) 3
4. Tác động của lạm phát 3
4.1. Đối với sản lượng và việc làm 3
4.2. Đối với việc phân phối lại thu nhập 3
4.3. Đối với cơ cấu kinh tế 4
4.4. Đối với hiệu quả kinh tế 4
PHẦN II
1. Tình hình lạm phát Việt Nam từ năm 2004 đến 2008 5

1.1. Tình hình lạm phát năm 2004 5
1.2. Tình hình lạm phát Việt Nam năm 2005 6
1.3. Tình hình lạm phát Việt Nam năm 2006 9
1.4. Tình hình lạm phát Việt Nam năm 2007 10
1.5. Tình hình lạm phát Việt Nam năm 2008 12
2. Các biện pháp kiềm chế lạm phát và hiệu quả của nó 13
2.1. Các biện pháp kiềm chế lạm pháp 13
2.2. Hiệu quả của các biện kiềm chế lạm phát 17
KẾT LUẬN 20

×