Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Tình hình lạm phát của việt nam chính sách tác động và hiệu quả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.2 KB, 28 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm trở lại đây, tình hình nền kinh tế nước ta tăng trưởng khá
cao. Đặc biệt là khi chính phủ áp dụng một loạt các chính sách nhằm ổn định
nền kinh tế nhằm thiết lập một mối quan hệ cân bằng giữa tăng trưởng và lạm
phát. Mặc dù tăng trưởng đạt được nhũng chỉ số cao nhưng điều này đồng nghĩa
với sự đánh đổi lạm phát mà kéo theo đó là sự gia tăng về chỉ số giá của hàng
hóa và dịch vụ, gia tăng tình trạng nhập siêu, mất cân đối tỉ giá hối đoái, tác
động vào cơ cấu kinh tế cũng như hiệu quả kinh tế.
Lạm phát luôn là một hiện tượng phổ biến và dai dẵng của mọi nền kinh tế.
Mặc dù, tỉ lệ lạm phát được dự đoán một cách đầy đủ nhưng vẫn gây nhiều thiệt
hại cho nền kinh tế. Đương nhiên, nền kinh tế tăng trưởng nào cũng vậy luôn
phải chịu sức ép lạm phát nhiều mặt. Tùy theo tình hình kinh tế xã hội của từng
đất nước mà đưa ra những biện pháp khác nhau.
Vì vậy, tình hình lạm phát của Việt Nam luôn là một đề tài nghiên cứu quan
trọng của các nhà kinh tế học và được sự quan tâm của đại đa số quần chúng
nhân dân quan tâm. Cũng chính vì vậy, tôi đã lấy tên bài nghiên cứu “Tình hình
lạm phát của Việt Nam trong 5 năm vừa qua –Chính sách tác động và hiệu quả”.
Mặc dù đã có khá nhiều những công trình nghiên cứu về vấn đề này. Nhưng qua
đây, tôi muốn tổng hợp những chính sách và đóng góp thêm một số ý kiến chủ
quan để làm rõ thêm góp phần xây dựng hệ thống chính sách hiệu quả hơn
LỜI CẢM ƠN
Qua nghiên cứu, tôi xin chân thành cảm ơn thầy Bùi Ngọc Tân – Giảng
viên bộ môn Kinh tế vĩ mô cùng một số bạn bè đã giúp đỡ tôi hoàn thành tốt bài
nghiên cứu này. Đây là những ý kiến đánh giá xây dựng trên cơ sở khác nhau
nên chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu xót. Tôi rất mong nhận được
những ý kiến đóng góp của thầy cô cùng các bạn.
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ CƠ SỞ VỀ LÝ THUYẾT
1.1. Khái niệm lạm phát
Lạm phát là tình trạng mức giá chung của nền kinh tế tăng lên trong một
thời kỳ nhất định. Lạm phát làm cho tiền bị mất giá và tỷ lệ lạm phát là thước đo
sự mất giá của tiền tệ. Đó là tỷ lệ phần trăm tăng của mức giá giữa hai thời kì.


1.2. Phân loại lạm phát
Lạm phát vừa phải: Là loại lạm phát ở mức một con số - dưới 10%/năm.
Loại lạm phát này có ý nghĩa về mặt tích cực rất nhiều và cần thiết vì nó có thể
tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế và tạo được môi trường kinh doanh cho
nhà đầu tư, đặc biệt khuyến khích sản xuất trong nước, kích thích tiêu dùng.
Lạm phát cao (Lạm phát phi mã): Là loại lạm phát ở mức hai đến ba con
số, từ 10%, 100% một năm. Hay chỉ số giá tiêu dùng quá cao gây sai lệch tín
hiệu về giá cả hàng hóa. Loại lạm phát này gây tiêu cực đến nền kinh tế, với
những hậu quả khó khăn cho đời sống kinh tế, xã hội, chính trị trong nước, đặc
biệt, chính là tầng lớp dân cư nghèo.
Siêu lạm phát: Là loại lạm phát 4 con số, từ 1000 % trở lên. Đây được
xem là một giai đoạn hỗn loạn và gây bất ổn định đời sống kinh tế xã hội . Siêu
lạm phát là lạm phát làm tình trạng giá cả tăng nhanh nhanh chóng trong khi
đồng tiền trong nước mất giá trị. Nếu tình trạng này kéo dài mà không có giải
pháp kịp thời của chính phủ sẽ có thể gây sụp đổ nền kinh tế chính trị của một
nước.
1.3. Sự quan tâm đến lạm phát
Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức
mua của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá
giá tiền tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác. Nếu tiền bị mất giá
với tốc độ nhanh làm tổn thương đến toàn bộ nền kinh tế và khiến cho nó chậm
phục hồi.
- Trường hợp: nếu như lạm phát được dự đoán nó sẽ không đảm nhiệm tốt
chức năng trung gian trao đổi và người ta luôn có xu hướng tránh giữ tiền. Dù có
nhu cầu về chi tiêu nhưng họ luôn muốn giảm bớt thiệt hại do mất giá. Nhưng
điều này chỉ thực sự khi xảy ra lạm phát ở mức rất cao.
- Trường hợp: nếu như lạm phát không theo dự đoán, ngay cả khi ở mức rất
thấp thì đó vẫn là một vấn đề nghiêm trọng. Nó phân phối lại của cải thu nhập
người cho vay và người đi vay, người trả lương và người nhận lương. Ngoài ra,
nó còn tạo ra giao động ngoài dự kiến của mức giá và tạo ra sự thay đổi trong

GDP thực, nhân dụng và thất nghiệp.
CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM
CHÍNH SÁCH TÁC ĐỘNG VÀ HIỆU QUẢ
2.1 Tình hình lạm phát của Việt Nam
2.1.1 Đôi nét về lạm phát của Việt Nam trong 5 năm qua
Trong những năm qua, khi Việt Nam mở rộng tiến trình hội nhập nền kinh
tế toàn cầu mà tiêu biểu là việc gia nhập WTO. Chính vì vậy, nền kinh tế Việt
Nam liên tục tăng trưởng và luôn đạt ở mức ấn tượng, điều mà trước đây Việt
Nam ít khi làm được. Nhưng song hành với nó chính là nguy cơ cao về lạm phát
gây ảnh hưởng đến nền kinh tế. Vì tăng trưởng và lạm phát luôn song hành với
nhau. Bởi lẽ, nếu không kiềm chế được lạm phát, chẳng những sẽ ảnh hưởng
đến phát triển sản xuất và đời sống của nhân dân, đến ổn định kinh tế vĩ mô mà
còn ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong trung và dài hạn, việc làm cũng
giảm sút, môi trường đầu tư kinh doanh cũng sẽ trở nên xấu hơn. Nói kiềm chế
lạm phát là mục tiêu ưu tiên hàng đầu, có nghĩa là không chạy theo chỉ tiêu tăng
trưởng đã đặt ra từ các năm trước mà phải tập trung sức để kiềm chế bằng được
lạm phát, phấn đấu bảo đảm tốc độ tăng giá giảm dần. Số liệu của Tổng cục
Thống kê cho thấy, tốc độ tăng trưởng GDP nước ta năm nay đạt 8,5%, mức
tăng cao nhất trong vòng 10 năm trở lại đây; khối lượng vốn đầu tư thực hiện
được qua 11 tháng từ ngân sách nhà nước đạt 86,76 nghìn tỷ đồng; giá trị hàng
hóa xuất khẩu đạt 43,64 tỷ USD, tăng 20%; nhập khẩu - 54,11 tỷ USD, tăng
33,1%; tỷ trọng nhập siêu 10,5 tỷ USD, bằng 24% giá trị xuất khẩu.(1) Những
con số thật ấn tượng. Nhưng ấn tượng và mang đậm dấu ấn WTO nhất đó chính
là 1283 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được cấp phép với tổng số vốn
đăng ký 13,4 tỷ USD (tính đến 22/11/2007), đó là chưa kể số dự án chờ phê
duyệt lên tới gần 50 tỷ USD Rõ ràng, vào WTO cùng với việc chính thức trở
thành Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc (10/2007),
Việt Nam đang trở thành một điểm đến tin cậy của giới đầu tư toàn cầu. Tương
lai tăng trưởng kinh tế của Việt Nam rất sáng sủa. Tuy nhiên, cũng chính trong
luồng sáng đó đã nổi rõ nhiều vấn đề mà chúng ta đang phải đối mặt.

Đối với áp lực lạm phát, Giá cả vẫn tiếp tục leo thang bất chấp các giải
pháp kiềm chế tăng giá của Chính phủ. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) 11 tháng đầu
năm 2007 tăng 7.92% so với năm trước. Cả 10/10 nhóm hàng dùng để tính chỉ
số này đều tăng. Dẫn đầu là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống: tăng 10,51%;
tiếp theo là nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 10,49%; đứng thứ 3 là nhóm
đồ dùng và các dịch vụ khác – tăng 7,6%. Cá biệt, mặt hàng thực phẩm tăng kỷ
lục là 14,98%. Có thể thấy ngay, đây là những hàng hóa chính ảnh hưởng trực
tiếp đến đời sống hằng ngày của người dân. Nên không có gì ngạc nhiên, khi
dân chúng than phiền về cuộc sống sao ngày một chật vật? Năm qua, báo chí đã
bàn quá nhiều về vấn đề này. Chúng tôi chỉ xin nhấn mạnh, rõ ràng, kinh tế của
chúng ta tăng trưởng cao, nhưng năng lực sản xuất thực tăng không đáng kể,
hiệu quả sản xuất cũng không có gì biến chuyển. Tăng trưởng của ta vì thế chủ
yếu dựa nguồn vốn đầu tư được rót không mệt mỏi, mà một phần không nhỏ
trong số đó là tiền đi vay. Hàng hóa tuy tràn ngập thị trường, nhưng chủ yếu là
hàng ngoại nhập. Nên không khó để thấy chúng ta đang mắc vào vòng luẩn
quẩn. Càng đầu tư, càng tăng trưởng, lượng tiền lưu thông đưa vào càng lớn,
nhưng nền kinh tế không hấp thụ được, năng lực và hiệu quả sản xuất tăng
không tương xứng, lạm phát cao là đương nhiên. Giá cả vì vậy chỉ còn một
đường - tiến. Rõ ràng, mô hình tăng trưởng kinh tế của chúng ta đang có vấn đề.
Cách đây gần 3 năm, ngày 16-9-2005, trước những biến động về giá cả thị
trường quốc tế, Viện Nghiên cứu khoa học thị trường - giá cả (Bộ Tài chính) đã
tổ chức hội thảo "Kiểm soát lạm phát trong điều kiện mặt bằng mới giá thế
giới". Tại thời điểm đó, các nhà nghiên cứu đã cảnh báo: "Cần có chính sách tiết
kiệm nguyên nhiên liệu "đầu vào" của sản xuất, nhất là tiết kiệm xăng dầu; tăng
cường kiểm soát hoạt động xuất - nhập khẩu để điều hòa cung cầu hàng hóa,
bình ổn giá những mặt hàng thiết yếu đối với sản xuất và đời sống nhân dân".
Để kiểm soát lạm phát, các chuyên gia kinh tế Việt Nam cho rằng Ngân hàng
Nhà nước (NHNN) phải thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt về tỷ giá, thực
hiện lãi suất theo hướng khuyến khích xuất khẩu, giảm nhập siêu, nâng cao hiệu
quả đầu tư vào các lĩnh vực của nền kinh tế. Và không ít lần trong các cuộc họp

của Quốc hội và Chính phủ, vấn đề kiểm soát lạm phát cũng được đặt ra.
Tác động từ hai phía. Vấn đề lạm phát và kiềm chế lạm phát đã được đặt ra từ
nhiều năm trước nhưng từ bàn hội nghị đến thực tế sinh động của nền kinh tế
mức đáng lo ngại. Chính phủ và mỗi người dân đang phải đối đầu với một cuộc
chiến quyết liệt khi chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 3-2008 so với tháng 12-
2007 đã tăng 9,19%, nếu tính CPI bình quân 3 tháng đầu năm 2008 so với cùng
kỳ năm 2007 đã tăng 16,38%. Theo thống kê của các cơ quan chức năng, quý 1-
2008 có mức tăng CPI cao nhất tính từ năm 1995 trở lại đây. Để duy trì tốc độ
tăng trưởng ổn định và đối phó với tình trạng lạm phát hiện nay, nhiều chuyên
gia kinh tế cho rằng vấn đề quan trọng nhất là kiểm soát và giám sát tiền tệ. Tuy
nhiên, điều này không đơn giản bởi độ trễ của các chính sách tiền tệ, nhằm kiểm
soát lạm phát quá dài, thêm vào đó là việc phối hợp các "liều thuốc" khác còn
hạn chế chưa kể công tác dự báo quá yếu dẫn đến việc điều hành chưa chủ động,
không linh hoạt Thời gian qua, việc giám sát tài chính không tốt, đã để xảy ra
những sai lệch về tài sản của một số ngân hàng, dẫn đến nhiều tình huống khó
lường về tính thanh khoản của các nhà băng. Đó là điều rất nguy hiểm cho hệ
thống kinh tế.
Tại thời điểm này, chúng ta đang phải đối mặt với những thách thức lớn: Mức
"cung" tiền trong lưu thông quá lớn đã tạo nên lạm phát tiền tệ; do "cung" hàng
hóa giảm kéo theo lạm phát "cầu"; tình trạng tăng giá của các sản phẩm như
xăng dầu, sắt thép, thiết bị đã bị đẩy chi phí lên cao. Giá các sản phẩm trên thị
trường thế giới tăng dẫn đến Việt Nam phải hứng chịu nạn lạm phát ngoại nhập.
Chưa kể các yếu tố "té nước theo mưa" trong bối cảnh lạm phát đang làm cho
giá cả hàng hóa nâng lên từng ngày. Thực tế cho thấy, nền kinh tế nước ta đang
chịu tác động từ cả 2 phía: Trong nước và ngoài nước. Xét ở góc độ khách quan,
từ năm 2004 trở lại đây, do kinh tế thế giới tăng trưởng ở mức cao, nên nhu cầu
về các loại hàng hóa, năng lượng, vật tư cũng tăng cao làm cho giá thế giới
tăng mạnh, từ đó đẩy giá cả hầu hết các loại hàng hóa trong nước tăng theo.
Thêm vào đó, dòng vốn đầu tư quốc tế đang có xu hướng chảy về các nước châu
Á - Thái Bình Dương, trong đó có Việt Nam, kéo theo một lượng lớn ngoại tệ

đổ vào nước ta, gây áp lực lên tỷ giá và nới rộng khả năng lạm phát. Ở trong
nước, những "cơn sốt" bất thường trên 2 thị trường bất động sản và chứng khoán
đã góp phần kích hoạt giá cả tăng theo.
12 là con số được lặp lại nhiều lần khi nói đến lạm phát trong những
ngày cuối năm 2007.Theo ước tính mới nhất của Tổng cục Thống kê, chỉ số
giá tiêu dùng (CPI) của Việt Nam vào tháng 12/2007 đã tăng 12,6% so với
tháng 12/2006. Đây là mức tăng giá tiêu dùng cao nhất trong vòng 12 năm
qua.

(Nguồn Tổng cục thống kê)
Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Chỉ số
giá
tiêu
dùng
(%)
12,7 4,5 3,6 9,2 0,1 -0,6 0,8 4,0 3,0 9,5 8,4 6,6 12,6
Lạm phát giai đoạn 1995-2007, tính theo chỉ số giá tiêu dùng tháng 12 mỗi năm
so với tháng 12 năm trước.
Những con số đã thể hiện một cách rõ nét tình trạng tiêu dùng ở nước ta.
Nếu như năm 2004 chỉ là 3% thì đến năm 2007 con số này theo thống kê chưa
đầy đủ là 12,6% tức đã lên tới hai con số.Vì thế, tình trạng này nếu kéo dài quá
mức sẽ tổn hại đến nền kinh tế. Đặc biệt, điều này cũng kéo theo việc thâm hụt
ngân sách của Chính phủ, bảo đảm an sinh xã hội, tiêu dùng của người dân và
cân bằng thương mại. Chúng ta không thể phủ nhận rằng, đúng là giá lương thực
– thực phẩm và giá dầu thế giới đã tăng cao trong năm 2007. Do hai nhóm hàng
hóa này đều là những sản phẩm ngoại thương chủ đạo của Việt Nam và đồng
thời chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu CPI, đây chắc chắn là một trong những
nguyên nhân gây ra lạm phát cao ở Việt Nam trong suốt năm nay. Nhưng nếu giá
lương thực – thực phẩm và giá dầu lửa thế giới là nguyên nhân chính, thì các

nước trong khu vực như Thái Lan và Trung Quốc cũng phải chịu sức ép tăng giá
tương tự. Tuy nhiên, trong khi tỷ lệ lạm phát của Việt Nam năm 2007 lên tới 2
chữ số, thì Trung Quốc chỉ chịu lạm phát ở mức 6,5% và Thái Lan 2,9%.
Khác biệt rõ rệt nhất giữa Việt Nam với các quốc gia có lạm phát thấp hơn, như
Trung Quốc và Thái Lan, đó là tốc độ tăng cung tiền. Tính tới cuối tháng 6 năm
2007, lượng tiền mặt trong lưu thông và tiền gửi ngân hàng ở Việt Nam đã tăng
tới 21,1% so với đầu năm. Con số tương ứng của Trung Quốc và Thái Lan lần
lượt là 10,0% và 1,4%.
Tăng trưởng kinh tế liên tục và ở mức cao đòi hỏi lượng tiền đưa vào lưu
thông cũng phải tăng lên tương ứng. Tuy nhiên, khi chênh lệch giữa mức tăng
cung tiền và tăng tổng sản phẩm quốc gia (GDP) trở nên quá lớn thì áp lực lạm
phát sẽ nảy sinh. Về mặt nguyên tắc, giá trị tính theo tiền của một mặt hàng luôn
bằng lượng nhân với giá. Nếu giá trị tính theo tiền tăng lên, nhưng lượng hàng
không tăng hay tăng chậm hơn, thì giá buộc phải tăng. Ta có thể hình dung GDP
(sau khi loại bỏ yếu tố trượt giá) là tổng sản lượng sản xuất ra trong năm để
phục vụ tiêu dùng cuối cùng, đầu tư hay ngoại thương. Còn mức cung tiền là
tổng giá trị tính theo tiền. Mức cung tiền vượt GDP nhiều lần thì lạm phát cao là
điều không tránh khỏi. Như đã được đề cập, cung tiền ở Việt Nam tăng mạnh
trong năm 2007 là do vốn nước ngoài chảy vào tăng đột biến, từ đó buộc Ngân
hàng Nhà nước phải đóng vai trò người mua ngoại tệ cuối cùng và đưa thêm tiền
đồng vào lưu thông. Nhưng lạm phát bùng lên trong năm nay có thể còn bắt
nguồn từ mức chênh lệch giữa tăng trưởng GDP và tăng cung tiền của Việt Nam
đã ngày một dãn rộng trong vòng 3 năm qua.
(Nguồn: Số liệu Thống kê tài chính quốc tế của Tổ chức Tiền tệ Quốc tế, riêng
số liệu tăng trưởng GDP 6 tháng đầu năm 2007 của Việt Nam và Trung Quốc
lấy từ nguồn Economist Intelligent Unit.)
So sánh tốc độ tăng trưởng cung tiền và tăng trưởng GDP của ba nước, lấy mốc
năm 2004 bằng 100%. Cung tiền đo bằng M2 (gồm tổng tiền mặt và tiền gửi
ngân hàng). Trong khoảng thời gian 2 năm rưỡi, tính từ đầu năm 2005 cho đến
cuối tháng 6 năm 2007, GDP của Việt Nam tăng 22%, còn mức cung tiền mặt

cho lưu thông và tiền gửi ngân hàng đã tăng lên đến 110%. Trong cùng giai đoạn
này, GDP của Trung Quốc tăng 29%, nhưng mức cung tiền chỉ tăng 50%. Chênh
lệch giữa tăng GDP và tăng cung tiền của Thái Lan là hầu như không đáng kể.
Việt Nam tăng trưởng kinh tế thấp hơn so với Trung Quốc, nhưng tăng cung tiền
lại cao hơn rất nhiều. Đó chính là lý do chính để giải thích tại sao lạm phát ở
Việt Nam cao hơn hẳn những nước khác. Giá gạo hay giá dầu thế giới có tăng
cao bao nhiêu, thì sức ép của các yếu tố này tới lạm phát ở Việt Nam, Trung
Quốc và Thái Lan không thể khác nhau nhiều.
 Một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô ở Việt Nam
Chỉ tiêu 2004 2005 2006 2007 Quí 1/2008
Sản xuất
GDP thực theo
giá 1994 (Tỷ
đồng)
362,435 392,989 425,135 461,189 94,901
Cơ cấu (%)
Nông nghiệp
Công nghiệp
Xây dựng
Dịch vụ

20.4
30.8
8.6
40.3

19.6
31.4
8.8
40.3


18.7
32.0
9.0
40.3

17.8
32.5
9.3
40.4

12.2
38.1
5.9
43.8
Tăng trưởng GDP (%)
Toàn nền kinh tế
Nông nghiệp
Công nghiệp
Xây dựng
Dịch vụ
7.8
4.4
10.6
9.0
7.3
8.4
4.0
10.6
10.8

8.5
8.2
3.4
10.2
11.1
8.3
8.5
3.4
10.2
12.0
8.7
7.4
2.9
8.9
3.3
8.1
Đầu tư
Tổng đầu tư (giá
hiện hành- tỷ
đồng)
Tổng đầu tư/
GDP(%)
Chính phủ
Tư nhân
Vốn nước ngoài
290,927
40.7
19.6
15.3
57.7

343,135
40.9
19.3
15.5
6.1
398,900
41.0
19.0
15.5
6.5
461,900
40.4
17.5
16.4
6.5
105,100
41.4
18.8
12.0
10.5
Số liệu thực tế
Lạm phát theo
CPI (%)
9.5 8.4 6.6 12.6 16.4
Cán cân thanh toán (tỷ USD)
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Cán cân thương
mại
26.5

32.0
(5.5)
1.9
32.5
36.8
(4.3)
2.0
39.8
44.9
(5.1)
2.4
48.6
62.7
(14.1)
4.6
13.0
20.4
(7.4)
1.7
(Nguồn: tổng cục thống kê. Tốc độ tăng trưởng GDP và tỷ lệ lạm phát của Q/1
2008 được tính so với cùng kỳ năm trước)
Chỉ tiêu Tháng 4 Tháng 5 5 tháng đầu năm
Lạm phát (%) 21.4 25.2 19.1
Xuất khẩu (tỷ USD) 5.1 5.1 13.4
Nhập khẩu (tỷ USD) 7.8 8 37.8
Cán cân thương mại
(tỷ USD)
(2.7) (2.9) (14.4)
Đầu tư trực tiếp từ
nước ngoài (tỷ USD)

1.45 0.8 3.9
(Nguồn: tổng cục thống kê. Tỷ lệ lạm phát năm những tháng đầu năm 2008 mới
nhất được tính so với cùng kỳ năm trước
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế xã hội 10 tháng đầu năm 2008
Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp 15,8%; kim ngạch xuất khẩu 53,8 tỷ
USD ( tăng 36,7%); kim ngạch nhập khẩu 70,1 tỷ USD (tăng 42,6%); dự kiến
năm 2008 nhập siêu 19 tỷ USD (bằng 29,7% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu);
tốc độ tăng tổng mức bán lẻ 30,7%; vốn FDI cấp mới và tăng thêm 59,3 tỷ USD,
vốn FDI thực hiện 9,1 tỷ USD; chỉ số giá tiêu dùng (so với tháng 12 năm 2007)
tăng 21,6%; giải quyết việc làm cho 1,36 triệu lượt người. (Nguồn tổng cục
thống kê)
Nhìn chung, thứ nhất, tình hình sản xuất vẫn duy trì ở mức ổn định. Mức
tăng trưởng trong vòng bốn năm trở lại đây luôn đạt một mức ổn định và khá
đồng đều. Điều này cho thấy kinh tế Việt Nam luôn giữ một mức độ hoạt động
ổn định cho dù có những biến động về giá cả. Thứ hai, đầu tư nước ngoài vẫn
gia tăng. Sự gia tăng này phần nào chứng tỏ môi trường đầu tư thuận lợi và nền
kinh tế ổn định của Việt Nam. Thứ ba, lạm phát có chiều hướng gia tăng khi mà
chính sách tăng trưởng kinh tế kết hợp mục tiêu kiềm chế lạm phát vẫn tỏ ra
chưa có hiệu quả. Tuy nhiên, nếu phân tích kỹ cơ cấu lạm phát thì tình hình
không tới nổi bi quan như thoạt nhìn. Thứ tư, nhập siêu vẫn còn cao. Mặc dù
Việt Nam có tỷ lệ xuất khẩu khá cao nhưng do sức ép lạm phát lớn nên làm cho
tinh trạng nhập siêu mà tập trung vào mặt hàng máy móc và nhiên liệu diễn ra
gây mất cân đối trong cán cân thương mại, đặc biệt kể từ năm 2005-2007. Thứ
năm, tình hình lãi suất của các ngân hàng trong nước. Trong những nam qua
ngân hàng nhà nước vẫn luôn duy trì trần lãi suất huy động vốn. Nhưng những
tháng đầu năm nay, Ngân hàng nhà nước đã ra quyết định gỡ bỏ theo đó ngân
hàng thương mại áp dụng lãi suất cho vay tối đa là 21%, không còn bị giới hạn
bởi trần lãi suất.
2.1.2 Nguyên nhân của tình trạng lạm phát nhìn từ góc độ Việt Nam
Nguyên nhân tiềm ẩn dẫn đến những bất ổn định kinh tế vĩ mô là do sự

bùng nổ luồng vốn vào Việt Nam, giá lương thực và lạm phát tăng, cùng với
thâm hụt thương mại tăng dẫn đến nền kinh tế phát triển quá nóng. Sự bùng nổ
của luồng vốn đầu tư cũng tạo nên hiện tượng bong bóng tại thị trường bất động
sản. Nhận diện lạm phát ở Việt nam. Xét ở tầm kinh tế học Vĩ mô, lạm phát hiện
tại ở Việt Nam là sự tích hợp của lạm phát tiền tệ, lạm phát cầu kéo và lạm phát
chi phí đẩy, ba loại này tác động lẫn nhau làm cho lạm phát càng trở nên phức
tạp.
 Lạm phát tiền tệ
Do việc thực thi chính sách chính sách tiền tệ không nghiêm, có thể chưa phù
hợp nên việc phát huy tác dụng của chính sách không được như mong muốn.
Quản lý yếu kém dẫn tới lượng cung tiền trong lưu thông đã vượt quá lượng tiền
cần có trên thị trường nhiều lần do đó dẫn tới lạm phát.Có thể kể ra các nguyên
nhân trực tiếp làm lượng cung tiền tăng lên như sau:
Đối với chi tiêu ngân sách Chính phủ trong khoảng năm 2004-2007 chi
tiêu ngân sách đột ngột đặc biệt là vào đầu tư công ngày càng lớn. Chi tiêu ngân
sách năm sau cao hơn năm trước do yêu cầu phát triển tế xã hội đòi hỏi các điều
kiện hạ tầng như đường xá, cầu cống, bến cảng, các khu đô thị, khắc phục hậu
quả của thiên tai Trong đó có nhiều các vụ việc tiêu cực, hiệu quả chi tiêu
ngân sách thấp, nhiều công trình kéo dài, tốn kém, hiệu quả thấp. Những khoản
chi tiêu ngân sách này đã đưa một lượng tiền mặt lớn ra thị trường.
Đối với việc quản lý tiền mặt còn kém hiệu quả. Hiện nay ở Việt Nam có
nhiều đơn vị như Ngân hàng Nhà nước, hệ thống các Ngân hàng thương mại,
các Tổ chức tín dụng phi ngân hàng, Công ty bảo hiểm, liên quan tới công tác
lưu hành tiền tệ. Lượng tiền cần có (D) để cân đối với hàng hoá không đồng
nhất với lượng tiền mặt thực tế đang có trên thị trường. Lượng tiền này không
chỉ phụ thuộc vào lượng tiền mặt thực tế (T) mà còn phụ thuộc vào vòng quay
đồng tiền (V), chúng tỷ lệ thuận với nhau theo công thức: D = T . V.
Lượng tiền D cân đối với hàng cần phải được kiểm soát chặt và thường ổn định
trong một thời gian thích hợp có lợi cho sự phát triển kinh tế. Khi có nhu cầu
tăng D, các nhà quản lý thường tăng vòng quay của đồng tiền (V), hạn chế tăng

T. Vấn đề này rất quan trọng cả đối với quản lý vĩ mô và quản lý vi mô.
Song việc có nhiều thành viên tham gia vào cơ chế lưu hành tiền tệ như trên đã
khiến cho công tác quản lý trở nên phức tạp và kém hiệu quả. Nhiều cơ sở ngân
hàng, phi ngân hàng tham gia kinh doanh tiền tệ thường chỉ quan tâm tới lợi
nhuận, tới vốn. Do vậy vòng quay tiền mặt ít được chú ý, khiến cho việc quản lý
V càng khó khăn phức tạp hơn. Khi có nhu cầu tăng D, thay vì việc tìm giải
pháp tăng vòng quay đồng tiền (V) lại tăng lượng cung tiền mặt vào lưu thông,
làm cho lượng tiền mặt có trong lưu thông (T) thường xuyên tăng lên. Lượng
tiền nhiều trong lưu thông khiến cho thu chi tiền mặt dễ dàng, xuất hiện toạ chi
ở nhiều doanh nghiệp, vòng quay đồng tiền (V) thực tế đã tăng lên. Điều này
khiến cho D càng lớn gây mất cân đối trầm trọng giữa tiền (D) và hàng, làm lạm
phát gia tăng đột biến.
Riêng đầu tư bên ngoài dẫn đến ngoại tệ tăng mạnh. Trong những năm gần
đây, lương đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam tăng mạnh gây sự chênh lệch khá
rõ nét về tỉ lệ đồng ngoại tệ và đồng nội tệ. Chỉ tính riêng năm 2007 đầu tư nước
ngoài vào Việt nam tăng cao, kiều hối cũng tăng đáng kể, riêng hai khoản này
cũng đã gần 30 tỷ USD. Với lượng tiền đó đòi hỏi phải có lượng tiền VNĐ lớn
tung ra thị trường, làm cho lượng tiền mặt trên thị trường tăng lên.
Thứ tư, sức hút của thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán phát triển
mạnh trong thời gian qua đã hút một lượng tiền lớn vào đây. Ngoài lượng tiền
nhàn rỗi trong dân được huy động, lượng vốn bằng tiền còn được huy động
thông qua vay ngân hàng, rút tiết kiệm, bán tài sản (do thay đổi mục tiêu kinh
doanh), từ các nhà đầu tư nước ngoài, Ngoài ra, một nguyên nhân quan trọng
khác là tâm lý hoang mang của người dân trước giá cả thị trường tăng cao, đồng
tiền giảm giá nhanh chóng. Để bảo toàn vốn của mình, các nhà đầu tư cũng như
dân chúng đã chuyển sang mua vàng hoặc kim loại quý, đá quý khác thay vì
dùng vốn đó kinh doanh hoặc gửi tiết kiệm. Do vậy một lượng tiền lớn được
tung vào lưu thông đã làm cho lạm phát trầm trọng hơn. Tất cả những nhân tố
trên làm cho lượng tiền mặt thực tế có trong lưu thông (T) tăng lên quá nhiều
vượt xa lượng tiền mặt thực tế cần có.

 Lạm phát cầu kéo
Lạm phát cầu kéo có nguyên nhân bắt nguồn từ nội bộ nền kinh tế, vì vậy loại
lạm phát này thường chỉ diễn ra đối với từng nền kinh tế cá biệt. Lạm phát cầu
kéo do tốc độ phát triển kinh tế cao, quy mô đầu tư lớn và dàn trải, hiệu quả đầu
tư thấp, vượt quá khả năng đáp ứng về tài nguyên tiềm năng của nền kinh tế.
Nền kinh tế phát triển nóng khiến cho nhu cầu quá lớn trong khi khả năng cung
ứng có hạn, mất cân đối này làm giá cả tăng liên tục với tỷ lệ cao. Năm 2006,
2007 nền kinh tế Việt Nam đã rơi vào tình trạng phát triển nóng. Điều này thể
hiện rõ nhất ở mất cân đối cao giữa cung cầu, cung luôn thấp hơn cầu (năng
lượng, nhân lực chất lượng cao, tắc nghẽn mạch thông tin liên lạc, hạ tầng quá
tải, công trình – dự án chậm tiến độ ). Chúng ta đang tập trung mọi nỗ lực
nhằm đạt tỷ lệ tăng trưởng GDP 8,5 – 9% trong năm 2008, điều này sẽ dẫn tới
mất cân đối cung cầu hơn nữa và sẽ làm lạm phát tăng cao hơn.
 Lạm phát chi phí đẩy
Lạm phát chi phí đẩy do giá vật tư đầu vào tăng. Trong năm qua, nhiều loại
nguyên vật liệu giá tăng rất cao như dầu mỏ, than đá, sắt thép, nhựa, … Những
loại chi phí tăng lên đó đã tác động tới hầu hết các nền kinh tế, tạo nên chi phí
đầu vào rất cao đối với nhiều loại hàng hoá, dẫn tới chi phí sản xuất cao, buộc
các doanh nghiệp tăng giá bán hàng hoá của mình. Làn sóng tăng giá này làm
giá cả chung trên thị trường tăng mạnh mẽ, đẩy nền kinh tế tới lạm phát.
Tính đến nữa cuối năm 2005 và những tháng đầu năm 2008, giá dầu tăng cao
tác động tới hầu hết các ngành sản xuất trong nước, dẫn tới tăng giá bán ở đầu
ra. Trong năm qua, không ngành sản xuất nào trong nước cưỡng lại được xu thế
này, bao gồm cả ngành giao thông vận tải, than, khai thác đá, luyện cán thép
sắp tới là ngành điện. Nhưng hiện nay có xu hướng giảm.
Lạm phát chi phí đẩy mang tính toàn cầu song mức độ diễn ra ở mỗi nước có
khác nhau. Những nền kinh tế đang trong thời kỳ suy giảm sẽ không lạm phát,
tăng giá dầu chỉ là yếu tố dẫn tới tăng giá trong nước. Đối với những nền kinh tế
tăng trưởng nóng như Việt Nam, Trung Quốc, ấn Độ, giá dầu tăng đã thực sự
đẩy lạm phát cao. Do vậy, việc nhập khẩu các yếu tố đầu vào từ những nền kinh

tế tăng trưởng nóng cũng bao hàm việc nhập cả những yếu tố lạm phát của các
nền kinh tế đó.
2.2. Những chính sách khắc phục tình trạng lạm phát của Việt Nam
Các chính sách mà chính phủ ta thực hiện thời gian vài năm trở lại đây.
Theo như đánh giá chung mặc dù nền kinh tế có chiều hướng đi lên nhưng thực
sự vẫn còn chưa hiệu quả.
Thứ nhất, trong lĩnh vực tiền tệ, khả năng thanh toán của các ngân hàng
đã tốt hơn, tỷ giá được giữ vững hơn, điều chỉnh linh hoạt hơn, lãi suất đang
theo xu hướng điều chỉnh xuống kể cả huy động và cho vay. Thị trường chứng
khoán sau một chu kỳ giảm điểm kéo dài đã đứng lại và đang có xu hướng đi
lên. Thị trường bất động sản không bị vỡ ra. Các chỉ số như huy động vốn, dư
nợ tín dụng, cung tiền, xu hướng giảm lãi suất cho vay, mức cung ứng vốn cho
nền kinh tế… đều diễn ra như đã dự kiến. Đặc biệt, sự ổn định tỷ giá hối đoái đã
góp phần quan trọng vào mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, chính sách
tiền tệ trong thời gian tới cần linh hoạt hơn nữa, nhất là đi dần theo hướng thị
trường, giảm sự can thiệp của Nhà nước bằng các biện pháp hành chính nhằm
mở rộng dư địa cho thị trường hoạt động. Mặt khác, lãi suất tuỳ thuộc vào cung
cầu của thị trường, mà mặt bằng lãi suất vẫn đang còn dao động ở mức từ 1- 1,5
lần lãi suất cơ bản, nên việc thay đổi chính sách tiền tệ từ "thắt chặt" sang "nới
lỏng" nhằm tạo sức ép buộc các NHTM hạ lãi suất. Chính sách này chỉ có lợi ở
nhưng bước đầu càng về sau càng gây tâm lý lo ngại cho nhà đầu tư, gây sự
hoang mang trong đại bộ phận dân cư. Lạm phát và sự bóp méo về giá cả đã
khiến một số nhà phân tích cho rằng nền kinh tế quá nóng của Việt Nam là một
thử thách kỹ thuật lớn đối với Chính phủ và NHNN do việc mở cửa nền kinh tế
cho luồng vốn đầu tư của nước ngoài tràn vào. Trong những tháng gần đây,
NHNN đã ngăn chặn tình trạng nguồn cung ứng tiền tệ gia tăng, trong một nỗ
lực nhằm thu gom nguồn tiền mặt đang đổ vào hệ thống tài chính thông qua các
khoản đầu tư trực tiếp của nước ngoài và danh mục vốn đầu tư. Đã từ lâu
NHNN duy trì tỷ giá ở mức thấp nhằm thúc đẩy xuất khẩu. Giới kinh doanh
nước ngoài thuộc khu vực xuất khẩu là những người bị ảnh hưởng nhiều nhất

trước việc NHNN thắt chặt nguồn cung ứng tiền tệ buộc các công ty phải tiến
hành đổi ngoại tê, đặc biệt là đồng USD, sang đồng nội tệ. Bên cạnh đó, Chính
phủ còn qui định mức tăng tín dụng trong giới hạn 30% trong năm 2008, thấp
hơn so với 40% năm 2007. Chính phủ còn cho phép tỷ giá được ở mức cao hơn
so với biên độ giao dịch từ 0,75% đến 2% hiện nay, tỷ giá chính thức do NHNN
ấn định và quản lý. Các nhà hoạch định chính sách hy vọng một đồng nội tệ
mạnh sẽ giúp giảm bớt lạm phát thông qua các hợp đồng nhập khẩu với gía rẻ
hơn. Tuy nhiên, điều này sẽ gây ra những lo ngại về việc đồng nội tệ lên giá sẽ
khiến hàng xuất khẩu của Việt Nam kém sức cạnh tranh hơn so với hàng Trung
Quốc. Chính sách thắt chặt tiền tệ mới cũng khiến các doanh nghiệp Việt Nam
lo ngại, đặc biệt là các doanh nghiệp có các hợp đồng kinh doanh được thanh
toán bằng đồng USD. Ngày càng có nhiều tin tức nói rằng các công ty được
nước ngoài đầu tư đang phải đối phó với tình trạng khan hiếm nội tệ để chi trả
lương cho công nhân.
Thứ hai, tăng trưởng được duy trì và có xu hướng đi lên. Tốc độ tăng
GDP vẫn ở mức cao trên thế giới. Nhưng tốc độ tăng cung tiền trong mấy năm
liền cao hơn tốc độ tăng GDP đã làm cho tốc độ tăng giá tiêu dùng tăng vọt
12,63% trong năm 2007 và “phi mã” lên 6,02% chỉ trong 2 tháng đầu năm 2008.
Điều này, cho thấy nền kinh tế gần đây vẫn chưa bảo đảm được tình hình thu chi
trong ngân sách chính phủ hơn nữa vẫn chưa có sự cân đối cán cân thương mại,
dịch vụ.
Thứ ba, do khủng hoảng, nhu cầu tiêu dùng và đầu tư sẽ giảm sút ở tất cả
các nước, điều này sẽ tác động đến nước ta. Kim ngạch xuất khẩu, du lịch có xu
hướng giảm dần; trong những năm qua xuất khẩu tiếp tục phải đối mặt với nhiều
khó khăn, sức mua giảm sút. Giải ngân vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể sẽ
chậm hơn tiến độ đã đề ra. Thị trường chứng khoán vẫn trong tình trạng chưa ổn
định. Chỉ số Việt Nam – Index giảm mạnh có những lúc tưởng chừng như tăng
đột biến nhưng luôn bị các yếu tố tác động làm chỉ số liên tục giảm. Nguyên
nhân cũng là do tình trạng đầu tư tràn lan theo kiểu “bong bóng” gây nên một
cơn sốt ảo làm cho thị trường luôn phải đối mặt với tình trạng rút lui vốn bất cứ

lúc nào gây tâm lý lo ngại cho các nhà đầu tư. Đặc biệt, cũng với biến động này
làm tình hình bất động sản trong thời gian qua có xu hướng nóng lên trong
khoảng từ năm 2003 trở đi và đang cần sự kiểm soát đồng bộ của chính phủ.
Những giải pháp được sẽ bao gồm cả trước mắt và lâu dài của Chính phủ đã và
đang để thực hiện.
Một là, cần thực hiện chính sách tài chính - tiền tệ năng động và hiệu quả.
Ngoài những giải pháp Ngân hàng Nhà nước đã áp dụng trong thời gian qua có
thể áp dụng những giải pháp dưới đây nhằm điều chỉnh lượng cung tiền phù
hợp, điều chỉnh chính sách tài khoá, tích cực quản lý và tăng hiệu quả của chi
ngân sách: Việc cần làm trước mắt hiện nay là giảm nhanh lượng tiền mặt trong
lưu thông. Một số giải pháp như điều chỉnh lãi suất vay nóng giữa các Ngân
hàng, nới lỏng tỷ giá hối đoái là rất cần thiết, tuy nhiên, như vậy vẫn chưa đủ.
Cần phải quản lý lượng cung tiền trong lưu thông chặt hơn nữa, chủ động tăng
vòng quay của đồng tiền. Trước mắt nên hạn mức tín dụng đối với các ngân
hàng thương mại nhằm hạn chế và kiểm soát lượng tiền tiếp tục được tung vào
lưu thông. Ngân hàng Nhà nước cần có cơ chế kiểm tra giám sát các ngân hàng
thương mại, nhất là những ngân hàng thương mại lớn trong việc xây dựng và
thực hiện các biện pháp tăng vòng quay đồng tiền, quản lý lượng cung tiền cho
lưu thông. Nếu không quản lý và tăng vòng quay tiền tệ sẽ hoàn toàn bị động
trong quản lý lượng tiền mặt trong lưu thông, lượng tiền sẽ tăng lên nhiều gây ra
những hậu quả xấu và dẫn tới lạm phát thường trực. Mặt khác phải xác định
được lượng tiền thực có trong lưu thông (T), xây dựng chỉ tiêu vòng quay tiền,
lấy đó làm mục tiêu phấn đấu của toàn ngành. Trên cơ sở đó, Ngân hàng Nhà
nước chủ động giảm lượng tiền trong lưu thông nhằm thúc đẩy các ngân hàng
thực hiện các giải pháp tăng vòng quay đồng tiền của mình. Như vậy lượng tiền
sẽ được cung ứng trong giới hạn an toàn đối với nền kinh tế.
Tiếp đó, cần quản lý chặt chẽ chi tiêu ngân sách. Cần xem xét lại các chương
trình, dự án đầu tư, hoạt động chi tiêu của Chính phủ, của các ban ngành. Tập
trung ngân sách vào những công trình cấp thiết, những chương trình không cấp
thiết nên chuyển vào những năm sau. Tăng hiệu quả chi tiêu ngân sách bằng

việc hoàn thành các chương trình, các dự án đúng thời hạn để sớm phát huy tác
dụng. Giảm chi phí trong các cơ quan khối công quyền, tích cực chống tiêu cực
và lãng phí. Các cơ quan chức năng cũng cần nghiên cứu điều chỉnh lãi suất
ngân hàng năng động hơn. Có thể đảm bảo mức lãi suất bình quân cả năm 12%,
song mức hiện tại có thể điều chỉnh cao hơn nhằm rút bớt lượng tiền mặt ra khỏi
lưu thông. Tăng lãi suất tiết kiệm trong giai đoạn hiện tại tuy có ảnh hưởng tới
thị trường chứng khoán, tới tăng trưởng song trong hiện thời là hợp lý và tác
động tích cực tới kiềm chế lạm phát. Ngoài ra, cũng cần phải quản lý chặt chẽ
hoạt động chi tiêu thu đổi ngoại tệ trên thị trường. Tích cực thu hút ngoại tệ
trong dân bằng việc khuyến khích gửi tiết kiệm ngoại tệ với lãi suất hấp dẫn;
thực hiện tỷ giá hối đoái linh hoạt giữa tiền Việt với một số ngoại tệ, nhất là
ngoại tệ mạnh chi phối hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam như USD,
EURO, Yên, Nhân dân tệ đảm bảo tác động khách quan vào xuất nhập khẩu,
không gây thiệt hại chung cho nền kinh tế. Khuyến khích chi tiêu không dùng
tiền mặt, đặc biệt là khách nước ngoài, cần tạo cơ chế để nhóm khách này có thể
giam gia, nhất là đối với thị trường chứng khoán. Bên cạnh đó, Chính phủ nên
thực hiện bán trái phiếu chính phủ, tín phiếu kho bạc cho dân, thu hồi tiền mặt.
Hoạt động này có tác dụng rất tích cực làm giảm nhanh lượng tiền mặt trong lưu
thông và tác động trực tiếp tới giảm lạm phát. Trong trường hợp cấp bách hiện
nay, không nên đấu thầu trái phiếu và tín phiếu qua trung gian. Ngân hàng Nhà
nước, Kho bạc Nhà nước nên triển khai bán trực tiếp cho dân. Bán trực tiếp sẽ
tránh được các khâu trung gian nên mức lãi suất đối với người mua sẽ cao hơn,
thu hút được nhiều người tham gia. Có thể tổ chức thành những chiến dịch phân
phối tín phiếu, trái phiếu trong thời gian cụ thể với cơ chế thuận lợi kết hợp với
sự tuyên truyền cổ động mạnh mẽ để động viên mọi tầng lớp nhân dân, mọi tổ
chức xã hội tham gia.
Hai là, điều chỉnh tăng trưởng kinh tế. Trước thực trạng nền kinh tế phát triển
quá nóng, cần phải giảm tốc độ tăng trưởng, duy trì tốc độc tăng trưởng xoay
quanh 8% là hợp lý. Cần kiểm soát chặt chẽ hoạt động đầu tư cả trung ương và
địa phương, đầu tư của các thành phần kinh tế, chủ động điều chỉnh kế hoạch

triển khai các dự án đầu tư, có thể chuyển những dự án chưa cấp thiết xuống tiếp
những năm sau nhằm giảm tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Kiểm tra tiến độ
thực hiện các dự án, các công trình đầu tư. Khẩn trương hoàn thành các dự án,
các công trình, đặc biệt là những công trình trọng điểm, hoàn thành dứt điểm các
công trình dây dưa kéo dài để chúng sớm phát huy tác dụng. Đẩy mạnh sản xuất
hàng hoá vật chất, tăng năng suất lao động hơn nữa, nhất là sản xuất vật tư,
nguyên vật liệu, hàng hoá tiêu dùng nhằm tăng năng lực của nền kinh tế, hạn chế
nhập khẩu hàng tiêu dùng để thúc đẩy tiêu dùng nội địa. Kiểm tra, xem xét các
doanh nghiệp lớn đã cổ phần hoá, đánh giá hiệu quả vốn đầu tư huy động từ thị
trường chứng khoán. Hạn chế các doanh nghiệp loại này chuyển hướng kinh
doanh từ sản xuất hàng hoá hiện hữu sang dịch vụ, đặc biệt là kinh doanh tiền tệ.
Ba là, hạn chế tăng chi phí. Điều hành chính sách tài khóa theo hướng tiết kiệm
chi tiêu thường xuyên, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư từ ngân sách; cắt giảm đầu
tư công và chi phí thường xuyên của các cơ quan sử dụng ngân sách, kiểm soát
chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, cố gắng giảm tỷ lệ thâm hụt
ngân sách. Đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước và đầu tư của doanh nghiệp nhà
nước hiện chiếm khoảng 45% tổng đầu tư xã hội. Cắt giảm nguồn đầu tư này sẽ
làm giảm áp lực về cầu, giảm nhập siêu, góp phần nâng cao hiệu quả của nền
kinh tế. Chính phủ sẽ quy định cụ thể tỷ lệ vốn đầu tư và chi phí hành chính phải
cắt giảm và yêu cầu các bộ, địa phương xác định các công trình kém hiệu quả,
các công trình chưa thực sự cần thiết để có sự điều chỉnh thích hợp, kiểm soát
chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, nhất là đầu tư vào các dự án
không thuộc lĩnh vực sản xuất, kinh doanh chính của doanh nghiệp; phấn đấu
giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách. Giảm mức tăng chi phí phải thực hiện tiết kiệm
trong sản xuất. Để làm được điều này, bản thân các doanh nghiệp cần tăng
cường quản lý sản xuất theo định mức, kiểm tra chặt chẽ các yếu tố đầu vào theo
đúng quy cách, phẩm chất, chủ động nghiên cứu tìm vật tư thay thế với chi phí
thấp, nhất là đối với vật tư nguyên liệu nhập khẩu. Một giải pháp giảm mức tăng
chi phí khác có thể áp dụng là hoàn thiện công nghệ, đổi mới công nghệ, cải tiến
tố chức quản lý nhằm tăng năng suất lao động. Lạm phát là hiện tượng của kinh

tế thị trường mang tính khách quan, dù muốn hay không chúng ta cũng vẫn phải
đón nhận. Chính vì vậy, cần phải bình tĩnh nhìn nhận tìm hiểu bản chất sự việc
để có những phản ứng điều chỉnh. Tuy nhiên, để thực hiện kiềm chế lạm phát
trong giai đoạn này, Việt Nam sẽ phải chấp nhận từ bỏ một số mục tiêu khác.
Do đó, Nhà nước cần có sự tham khảo ý kiến của các nhà khoa học, các chuyên
gia kinh tế cũng như học hỏi kinh nghiệm từ các nước khác trên thế giới để có
những quyết sách đúng đắn, kịp thời.
Bốn là, tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, khắc phục
nhanh hậu quả của thời tiết và dịch bệnh để tăng sản lượng lương thực, thực
phẩm. Hiện nay, tiềm năng tăng trưởng của nước ta còn rất lớn, nhất là khi Việt
Nam đã là thành viên đầy đủ của Tổ chức Thương mại thế giới, đầu tư nước
ngoài và đầu tư tư nhân tăng mạnh, thị trường xuất khẩu được mở rộng, vì vậy,
phát triển sản xuất là giải pháp gốc, tạo hiệu quả nhiều mặt, vừa tăng nguồn
cung cho thị trường trong nước và xuất khẩu, góp phần kiềm chế lạm phát, giảm
nhập siêu, vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, lại không gây phản ứng phụ. Để
thực hiện yêu cầu này, Chính phủ đã giao nhiệm vụ cho các bộ trưởng, Chủ tịch
UBND các tỉnh và thành phố chỉ đạo quyết liệt, kịp thời tháo gỡ các khó khăn,
vướng mắc về vốn, về thị trường, về thủ tục hành chính, thúc đẩy sản xuất phát
triển.
Năm là, cần bảo đảm cân đối cung cầu về hàng hóa, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm
nhập siêu. Cân đối cung cầu về hàng hóa, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản
xuất và đời sống nhân dân là tiền đề quyết định để không gây ra đột biến về giá,
ngăn chặn đầu cơ. Thủ tướng Chính phủ, các bộ trưởng đã và sẽ tiếp tục làm
việc với các hiệp hội ngành hàng, các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng
thiết yếu, như: lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, xăng dầu, sắt thép, vật
liệu xây dựng, phân bón giao nhiệm vụ cho các đơn vị này phải bảo đảm
nguồn hàng, đồng thời có trách nhiệm cùng Chính phủ kiềm giữ giá cả. Trong
khi kiên trì chủ trương thực hiện cơ chế giá thị trường, xóa bỏ bao cấp qua giá,
nhưng trong tình hình hiện nay, mặc dầu giá thế giới tăng cao, Chính phủ đã
quyết định không tăng giá đồng loạt ví dụ: chưa tăng giá điện, giá than, giá xăng

dầu; giữ ổn định giá xi măng, phân bón, nước sạch, thuốc chữa bệnh, vé máy
bay, tàu hỏa, giao Bộ Tài chính rà soát để cắt, giảm các loại phí thu từ nông
dân Trong điều kiện đồng đôla Mỹ giảm giá so với đồng tiền các nước là thị
trường xuất khẩu lớn của nước ta, việc neo giữ quá lâu tỷ giá hối đoái giữa đồng
tiền Việt Nam và đồng đôla Mỹ không phản ánh đúng quan hệ thực trên thị
trường ngoại tệ. Vì vậy, Chính phủ chủ trương áp dụng tỷ giá linh hoạt với biên
độ thích hợp, phản ánh quan hệ cung cầu trên thị trường, giúp cho việc kiềm chế
lạm phát nhưng không ảnh hưởng lớn đến xuất khẩu, bảo đảm việc mua bán,
chuyển đổi ngoại tệ diễn ra thuận lợi. Cán cân thương mại là một chỉ tiêu vĩ mô
rất quan trọng. Nhập siêu tăng trong năm 2003-2007 và tăng cao hơn trong quý
1 năm 2008, đã đe dọa đến cân đối vĩ mô, đòi hỏi phải áp dụng các biện pháp
kiên quyết để hạn chế tình trạng này trên cơ sở đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát
nhập khẩu. Để làm việc này, Chính phủ đang chỉ đạo quyết liệt thực hiện nhiều
giải pháp: Ngân hàng Nhà nước bảo đảm đủ vốn và mua hết ngoại tệ cho các
doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu, xử lý ngay các ách tắc về tín dụng xuất khẩu
cho từng trường hợp cụ thể; tăng cường hỗ trợ công tác xúc tiến thương mại đối
với hàng xuất khẩu; cải cách mạnh thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động
xuất khẩu để giảm chi phí cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao khả năng cạnh
tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam đi đôi với việc áp dụng các hàng rào kỹ
thuật và các biện pháp khác phù hợp với các cam kết quốc tế của nước ta để
giảm nhập siêu, kể cả việc tăng thuế nhập khẩu những mặt hàng không thiết yếu.
Sáu là, tăng cường công tác quản lý thị trường, kiểm soát việc chấp hành pháp
luật nhà nước về giá. Kiên quyết không để xảy ra tình trạng lạm dụng các biến
động trên thị trường để đầu cơ, nâng giá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản
xuất và tiêu dùng, như: xăng dầu, sắt thép, xi măng, thuốc chữa bệnh, lương
thực, thực phẩm…; ngăn chặn tình trạng buôn lậu qua biên giới, đặc biệt là buôn
lậu xăng dầu, khoáng sản.
Bảy là, mở rộng việc thực hiện các chính sách về an sinh xã hội. Trước tình hình
giá cả tăng cao, ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân, nhất là vùng nghèo, hộ
nghèo, vùng bị thiên tai, người lao động có thu nhập thấp. Ngoài ra, chính phủ

cần triệt để tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng. Hiện nay, tình trạng lãng phí
trong sản xuất và tiêu dùng diễn ra khá phổ biến ở các cơ quan, đơn vị. Tiềm
năng tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng là rất lớn.
KẾT LUẬN
Cùng với sự tăng trưởng vượt bậc của nền kinh tế, thì lạm phát đang là vấn
đề khó khăn mà VN phải đương đầu. Tình hình lạm phát nước ta thông qua sơ
bộ có chiều hướng gia tăng và cần có sự kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước và
Chính phủ. Các giải pháp cấp bách lúc này là ngăn chặn suy giảm nền kinh tế,
ngăn chặn sự trì trệ của sản xuất kinh doanh, đảm bảo duy trì tăng trưởng kinh
tế. Điều này cần phải có sự kết hợp đồng bộ và kịp thời giữa Ngân hàng Trung
ương phối hợp nhịp nhàng với Ngân hàng thương mại, đồng thời kiểm soát việc
chi tiêu ngân sách của Chính phủ để lượng tiền trong lưu thông luôn cân đối. Vì
thế, chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ hơn bao giờ hết nên đưa ra đúng
thời điểm, đúng theo quy trình, đúng yều cầu của nền kinh tế. Mặt khác, các ban
nghành đoàn thể cần nhận thức rõ nguy cơ tiềm tàng dẫn đến lạm phát, điều
chỉnh cân đối giữa thu và chi đảm bảo cho mình hoạt động tốt. Ngoài ra, để
kiềm chế lạm phát, cần đầu tư hiệu quả vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng thông
qua các quỹ đầu tư trực tiếp, đồng thời tăng cường đầu tư ra nước ngoài để sử
dụng đồng vốn hiệu quả chứ không nên can thiệp bằng các biện pháp hành
chính. Vì biện pháp hành chính chỉ có giá trị tức thời chứ không làm lành mạnh

×