Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Tình hình lạm phát ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.45 KB, 19 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đại học quốc gia Hà Nội
Trờng Đại học khoa học xã hội và nhân văn
khoa quốc tế học
------

bài thi giữa kỳ
kinh tế học đại cơng
Đề bài: Nguyên nhân và tác động của
lạm phát đối với Việt Nam từ 2004
đến nay
Mức lạm phát hàng năm ở Việt Nam đột nhiên nhảy vọt lên 8,3%
trong 6 tháng đầu năm 2004 ngoài tầm ớc đoán 3,6% - 4,5% của nhà n-
ớc và các cơ quan tài chính quốc tế nh Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF),
Ngân hàng phát triển á Châu và ngân hàng thế giới.
Mức lạm phát dựa trên chỉ số giá tiêu thụ (CIP) theo dự đoán của
Quỹ Tiền tện Quốc tế (IMF) sẽ là 3,5% trong cả hai năm 2004 và 2005.
Một báo cáo chung mới nhất của Ngân hàng Thế giới (WOrrld Bank)
và IMF vào tháng 3-2004 cũng đã tiên đoán rằng mức lạm phát có thể
đợc tiếp tục duy trì ở mức 3 - 4% hàng năm trong các năm sắp tới nếu
nhà nớc có chính sách quản trị tiền tệ thích hợp.
Thông thờng sau Tết Nguyên đán, năm nay rơi vào cuối tháng
1.2004, giá cả hạ thấp xuống. Tuy nhiên, trong năm nay giá tiếp tục lên
cao. Riêng trong tháng 2, giá gia tăng 3%/tháng. Lần lợt trong hai
tháng ba và tháng T mức tăng của CIP là 0,8%/tháng và 0,5%/tháng.
Con số mới nhất của Sở Thống kê Việt Nam cho biết mức lạm phát
trong nửa năm đầu của 2004 là 8%/năm, cao nhất trong năm năm vừa
qua. Một viên chức cao cấp của Bộ Tài Chính Việt Nam nói rằng vào
cuối năm nay mức lạm phát có thể lên đến 9%. Nh vậy, Việt Nam sẽ
không thể kiềm chế đợc mức lạm phát dới 5% tổng năm 2004 nh đã dự
trù.


Vậy nguyên nhân của tình trạng trên là gì?
Nhìn một cách khái quát, lạm phát thờng biểu hiện dới 3 hình
thức: do cầu (hay tiền lu thông nhiều hơn 808 lợng của cải sản xuất ra)
do tổng cầu gắn và sự gia tăng chi tiêu trong khi mức cung hạn chế và
lạm phát do chi phí. Hiện tợng tăng giá bởi sự gia tăng chi phí các yếu
tố đầu vào. (Nguyên vật liệu, lơng bổng, thuế má...) khiến giá sản
phẩm đầu ra tăng lên.
2
ở góc độ kinh tế vĩ mô sẽ là sai lầm nếu tách riêng lạm phát do
chi phí với lạm phát do cầu. Tác động qua lại giữa lạm phát bắt nguồn
từ tăng cầu quá sẽ tạo sức ép tăng giá sản phẩm ... kết quả là tăng chi
phí sản xuất.
I. Với nớc ta từ đầu năm 2004 đến nay có những sự
kiện đáng chú ý sau:
1. Giá thực phẩm gia tăng:
Một phần do dịch cúm gà vào đầu năm. Chúng ta nên nhớ rằng
thực phẩm chiếm 45% trong công thức tính chỉ số giá tiêu thụ dùng
làm căn bản để đo lờng mức lạm phát. Từ tháng 6-2003 đến tháng 6-
2004 giá thực phẩm đã tăng 14,5%. Ngoài giá thực phẩm, công thức
tính giá tiêu thụ còn dùng giá của một số sản phẩm tiêu thụ và dịch vụ.
2. Mức cầu nội địa gia tăng.
Mức cầu này gồm có hai phần chính: tiêu thụ t nhân và đầu t. Kể
từ năm 2002, mức cầu nội địa vừa là sức mạnh đáng kể nhất, hơn cả
xuất cảng, đã đẩy kinh tế đi lên. Tuy nhiên, mức cầu nội địa cũng làm
tăng áp lực lạm phát.
3. Hoạt động kinh tế gia tăng.
Độ phát triển của Việt Nam đã dần dân phục hồi, từ 5,5% trong
năm 2000 lên 6% trong năm 2003, và ớc đoán khaỏng 7% trong năm
2004. Tuy rằng vẫn thua con số 9,5% của năm 1995 trớc khi có cuộc
3

khủng hoảng tài chính á Châu. Theo IMF, tín dụng đã gia tăng thái
quá trong các năm 2002 và 2003 ở mức 45% và 28%. Đây là điều đáng
ngại cho sự hoạt động an toàn của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Năm
ngân hàng thơng mại của nhà nớc hiện nay kiểm soát 80% thị trờng tài
chính của Việt Nam. Những ngân hàng này lại đợc lệnh của Nhà nớc u
tiên cho các xí nghiệp quốc doanh vay.
4. Nhà nớc tăng lơng cho nhân viên trong năm 2003.
Chi phí về lơng bổng nhân viên tơng đơng với 3,5% của tổng sản
phẩm nội địa (GDP) trong năm 2002, tăng lên để 4,1% của GDP trong
năm 2003 và 3,9% trong năm 2004. Ngoài ra, kế hoạch cải tổ l ơng
bổng và an sinh xã hội cho nhân viên trong khu vực dịch vụ công cộng
và hành chính mới bắt đầu vào tháng T năm 2004 cũng làm tăng áp lực
lạm phát.
5. Chi phí sản xuất tăng vì giá nguyên liệu và thuế tăng.
Kể từ đầu năm 2004, việ tu chỉnh thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế
giá trị gia tăng đã tăng giá xe hơi và bia hộp lần lợt là 20% và 10%.
Cũng bắt đầu từ đầu năm 2004, chính phủ Việt Nam bãi bỏ bao cấp đối
với dầu hoả và các biến chế phẩm và đồng thời cho phép các công ty
đầu tự ấn định giá bán, nhng không đợc cao hơn giá căn bản của Nhà
nớc 10% và đối với dầu Kerosene là 5%. Vào giữa tháng 6, chính phủ
Việt Nam quyết định tăng giá các dầu hảo vf các sản phẩm chế biến
17,2%. Trong khi đó giá thép tăng 15,4%. Già vàng, dầu hoả, phân
bón, vật liệu xây cất,gạo và nói chung là nông phẩm trên thị trờng quốc
tế đều gia tăng trong nhiều tháng vừa qua.
Giá dầu hoả tiếp tục lên cao kể từ cuối năm 2003. Hiện nay, giá
dầu cao hơn cả trong thời gian quân Mỹ đánh mạnh ở Iraq. Giá dầu thô
vào giữa tháng 5 lên đến gần 42 Mỹ kim một tháng. Kinh tế thế giới,
đặc biệt là tại Hoa Kỳ, Nhật Bản và Âu Châu phục hồi từ giữa năm
2003 đã làm gia tăng mức tiêu thụ dầu. Trong khi đó tổ chức OPEC lại
hạn chế sản xuất dầu và tình hình bất ổn tiếp tục ở Trung Đông. Đẩy

4
tăng là những nguyên nhân làm cho giá dầu tăng. Việt Nam tuy xuất
cảng dầu thô, nhng lại nhập cảng dầu lọc với một trị giá tơng đơng nên
Việt Nam không hởng lợi lộc gì đặc biệt cả khi giá dầu thế giới lên
cao. Trái lại Việt Nam còn chịu ảnh hởng lạm phát vì chi phí về xăng
nhớt chiếm 30-40% giá chuyên chở. Do đó, giá hàng nhập cảng và giá
hàng xuất khẩu nội địa phân phối đi các nơi trong nớc cũng chịu ảnh h-
ởng của giá xăng nhớt.
6. Đồng tiền Việt Nam mất giá ít so với đồng Mỹ kim nh ng mất
giá đáng kể so với các ngoại tệ khác (Euro, Yên, v.v).
Mức sụt giá của đồng Việt Nam so với Mỹ kim là khoảng 3%
trong năm 2004 và 4% trong năm 2005. Trong tháng 3 vừa qua lần đầu
tiên giá của đồng Mỹ kim vợt lên trên 16.000 đồng Việt Nam. Sự mất
giá của đồng tiền Việt Nam sẽ khiến cho giá hàng Việt Nam nhập càng
tăng. Tuy nhiên, ảnh hởng tích cực của nó là làm cho giá hàng xuất
cảng của Việt Nam rẻ hơn và dễ cạnh tranh hơn trên thị trờng quốc tế
và đây là u tiên số một của Việt Nam.
7. Việc Ngân hàng Việt Nam phát hành tiền mới, với tổng lợng
tiền dự kiến tung vào để loại bỏ tơng ứng đã dẫn đến tình trạng mất cân
bằng giữa tổng lợng trên lu thông.
Ngoài những nguyên nhân trên:
Nguyên nhân trực tiếp.
Khi nên kinh tế ngày càng hội nhập mạnh hơn với thế giới thì
không thể tránh khỏi những tác động của tía cả thị trờng bên ngoài.
Trong khi đó xu hớng hình thành mặt hàng giá mới cao hơn trên thị tr-
ờng thế giới đang dần dần đợc xác lập. Do vậy, cùng với nhập khẩu
hàng hoá chúng ta cũng nhập luôn cả lạm phát từ bên ngoài. Hơn nữa,
các nhu cầu nguyên, nhiên, vật liệu của một số ngành hàng trong nớc
lại đợc nhập khẩu là chủ yếu: 90% nhu cầu phân urê, 90% nhu cầu
nguyên liệu thuốc chữa bệnh... Do đó, mức độ phụ thuộc vào giá cả

quốc tế càng nhiều. So với tháng 12-2003 giá nhiều loại hàng nhập
khẩu tăng cao: Phôi thép tăng 41,75%, xăng dầu tăng 12,22%, phân u-
5
rê tăng 9,38%, giấy 15,53%, chất dẻo 11,51%. Giá hàng nhập khẩu
tăng làm tăng chi phí sản xuất (chi phí đầu vào); chi phí sản xuất tăng
đẩy giá bán sản phẩm đầu ra lên cao. Kết quả là chỉ số giá tăng lên.
Nguyên nhân gián tiếp.
Phân tích các yếu tố cấu thành rổ hàng hoá và dịch vụ dùng để
tính toán chỉ số giá tiêu dùng, ta thấy có sự biến động quá mạnh của
nhóm hàng lơng thực, thực phẩm. Đó là một yếu tố chính làm cho chỉ
số giá tiêu dùng 9tháng đầu năm 2004 tăng khá cao. Nhóm hàng này
vừa chiếm tỷ trọng quá lớn, vừa có mức giá tăng nhiều và liên tục tăng
cao (luôn luôn cao hơn mức tăng giá chung). Những tháng đầu năm
tăng mạnh. Những tháng tiếp theo, tuy không tăng nhiều nhng vẫn giữ
ở mức cao. Trên đồ thị, đờng biểu diễn chỉ số giá hàng lơng thực, thực
phẩm luôn luôn nằm trên chỉ số giá hàng tiêu dùng nói chung.
Diễn biến chỉ số giá tiêu dùng và các thành tố cơ bản 9 tháng đầu
năm 2004.
Giá nhóm hàng dợc phẩm và y tế cũng có tốc độ tăng khá cao,
chỉ đứng sau lơng thực, thực phẩm. Bắt đầu từ tháng 2, giá dợc phẩm, y
tế tăng khá mạnh và tăng liên tục, cho đến nay vẫn cha có biểu hiện
giảm. Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng mạnh trong quí 1; dừng ở
mức cao trong các tháng tiếp theo. Trong khi đó, các nhóm hàng khác
hầu nh có mức tăng thấp hơn mức tăng bình quân.
6
Tháng 9 so với đầu năm, ngoại trừ nhóm dịch vụ giáo dục giảm
1,9%, còn lại tất cả các nhóm hàng đều tăng. Trong đó, nhóm lơng
thực, thực phẩm liên tục giữ vị trí dẫn đầu về tăng giá (tính chung tăng
15%, riêng thực phẩm tăng 16,8% và lơng thực tăng 12,5%). Tiếp theo
là dợc phẩm - thiết bị y tế (8,7%). Nhà ở - vật liệu xây dựng tăng 5,9%.

Các nhóm hàng hoá khác (đồ uống - thuốc lá - may mặc - giầy dép,
thiết bị - đồ dùng gia đình) cũng tiếp tục tăng giá, nhng ở mức khiêm
tốn hơn (3 đền 5%).
Trong sự biến động của chỉ số giá tiêu dùng 9 tháng đầu năm
20004 (tăng 8,6%), theo kết ấu rổ hàng hoá hiện tại, riêng các mặt
hàng nhóm lơng thực, thực phẩm (chiếm tỷ trọng 47,9%) đã làm tăng
4,1%. Mức tăng giá chung của 9 tháng còn lại là 4,5%. Rõ ràng sự bất
cập về kết cấu của rổ hàng hoá và dịch vụ hiện tại cần sớm đợc sửa đổi,
chỉnh lý để chỉ số giá tiêu dùng có khả năng phản ánh đúng diễn biến
của thị trờng.
Kết cấu mức tăng chỉ số giá tiêu dung 9 tháng đầu năm 2004.
Đơn vị: %
Chỉ số giá tiêu dùng 8,6
Tỷ trọng nhóm hàng lơng thực, thực phẩm 47,9
Chỉ số giá hàng lơng thực, thực phẩm 4,1
Chỉ số giá các nhóm hàng còn lại 4,5
Nh vậy, cái sự lo lắng của chúng ta chính là những lo lắng cụ
thể về sự tăng giá nhóm hàng lơng thực, thực phẩm. Và, một vấn đề
đáng bàn là khi hàng lơng thực, thực phẩm tăng giá thì ai thiệt? Ai lợi?
Phải chăng nông dân hoàn tòan đợc hởng lợi nh nhiều nhận định?
Nhìn bề ngoài, khi giá lơng thực, thực phẩm tăng thì nông dân sẽ
là ngời hởng lợi. Trên thực tế, không thể nói một cách đơn giản nh thế.
Vấn đề là tỷ trọng tiêu dùng hàng lơng thực, thực phẩm trong tổng thu
nhập của mỗi hộ nông dân vẫn còn chiếm tỷ trọng quá cao. Theo quy
luật phát triển, tỷ trọng này ngày càng giảm. Tỷ trọng tiêu dùng lơng
thực, thực phẩm (trong kết cấu chỉ tiêu) của dân phi nông nghiệp, dân
7

×