Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

tình huống thảo luận thương mại điện tử đại học thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.88 KB, 13 trang )

Thảo luận luật Thương mại điện tử
TÌNH HUỐNG THẢO LUẬN 1:
Hoa, Chung, Nam là 3 sinh viên mới ra trường, cùng có ý tưởng kinh doanh
thương mại điện tử. Cả ba quyết định cùng lập trang web bán hàng trực tuyến
“muachung.com” nhằm bán hàng với các sản phẩm giảm giá giảm từ 20%-49%. Ngay
ngày hôm sau, trang web “muachung.com” nhằm bán hàng trực tuyến của Hoa, Chung,
Nam được thiết lập. Thực hiện ý tưởng của mình, Hoa, Chung, Nam xúc tiến việc gặp gỡ
và đàm phán với các doanh nghiệp về sản phẩm giảm giá, theo đó, trên trang web sẽ cung
cấp thông tin về hàng hóa và doanh nghiệp cung ứng hàng hóa, dịch vụ được giảm giá.
Khách hàng muốn mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ được đăng tải trên trang web
“muachung.com” phải thực hiện việc đặt hàng trực tuyến gửi cho Ban quản trị trang web,
việc thanh toán có thể được thực hiện online hoặc thanh toán tại nhà khi nhận được
voucher mua hàng. Sau khi đặt hàng, khách hàng sẽ nhận được thông báo xác nhận thông
tin đặt hàng của mình từ phía “muachung.com”, cũng như thời gian muachung.com sẽ
giao voucher. Để được cung ứng dịch vụ/hàng hóa, khách hàng phải xuất trình voucher
đã được “muachung.com” phát hành tại cơ sở bán hàng/cung ứng dịch vụ của doanh
nghiệp có sản phẩm/dịch vụ được giảm giá.
1 Hãy cho biết việc Hoa, Chung, Nam thiết lập trang web “muachung.com” để thực
hiện các hoạt động như trên có hợp pháp không?
2 Trang web “muachung.com” là website thương mại điện tử bán hàng hay sàn
giao dịch thương mại điện tử? Vì sao?
3 Xác định mối quan hệ, vai trò giữa Hoa, Chung, Nam; trang web muachung.com;
khách hàng đặt mua hàng trên muachung.com; và doanh nghiệp cung ứng hàng
hóa/dịch vụ được đăng tải trên muachung.com
Trả lời :
1.Việc Hoa, Chung, Nam thiết lập trang web “muachung.com” để thực hiện các hoạt
động như trên là không hợp pháp.
- Căn cứ: Điều 52, Nghị định 52/2013/NĐ-CP về điều kiện thiết lập website thương
mại điện tử bán hàng. Theo đó: “Các thương nhân,tổ chức, cá nhân được thiết lập
website thương mại điện tử bán hàng nếu đáp ứng các điều kiện sau:
1.Là thương nhân, tổ chức có chức năng, nhiệm vụ phù hợp hoặc cá nhân đã được


cấp mã số thuế cá nhân.
2. Có website với tên miền hợp lệ và tuân thủ các quy định về quản lý thông tin
trên Internet.
3. Đã thông báo với Bộ Công Thương về việc thiết lập website thương mại điện tử
bán hàng theo quy định tại Điều 53 Nghị định này”.
Do đó, việc Hoa, Chung, Nam cùng nhau lập website như vậy là hoàn toàn sai: cả 3
người đều là sinh viên mới ra trường chưa có công việc ổn định, chưa có thu nhập để phải
nộp thuế cá nhân dẫn tới là cả 3 cá nhân này đều chưa được cấp mã số thuế cá nhân.
Đồng thời, 3 người này chưa có thông báo với Bộ Công Thương về việc lập website
thương mại điện tử bán hàng “muachung.com”.
- Căn cứ Điều 54, Nghị định 52/2013 NĐ-CP về Điều kiện thiết lập website cung cấp
dịch vụ thương mại điện tử. Theo đó : “ Thương nhân, tổ chức được thiết lập website
cung cấp dịch vụ thương mại điện tử quy định tại Mục 2,3,4 và Chương III Nghị định này
khi đáp ứng các điều kiện sau:
1. Là thương nhân, tổ chức có ngành nghề kinh doanh hoặc chức năng phù hợp.
2. Có website với tên miền hợp lệ và tuân thủ các quy định về quản lý thông tin
trên Internet.
3. Có đề án cung cấp dịch vụ trong đó nêu rõ các nội dung sau:
a) Mô hình tổ chức hoạt động, bao gồm hoạt động cung cấp dịch vụ, hoạt động xúc
tiến, tiếp thị dịch vụ cả trong và ngoài môi trường trực tuyến;
b) Cấu trúc, tính năng và các mục thông tin chủ yếu trên website cung cấp dịch vụ;
c) Phân định về quyền và trách nhiệm giữa thương nhân, tổ chức cung cấp dịc vụ
thương mại điện tử với các bên sử dụng dịch vụ.4. Đã đăng ký thiết lập website cung cấp
dịch vụ thương mại điện tử và được Bộ Công Thương xác nhận đăng ký theo quy định tại
Điều 55 và Điều 58 Nghị đinh này”.
=> Căn cứ vào những điều trên, ta có thể khẳng định rằng: Việc Hoa, Chung, Nam cùng
nhau thiết lập trang web “muachung.com” là sai với quy định của pháp luật.
2.Trang web “muachung.com” là sàn giao dịch thương mại điện tử, trang web quản lý và
thực hiện các dịch vụ khuyến mại cho các thương nhân, tổ chức, cá nhân có yêu cầu thực
hiện khuyến mại bằng hình thức quảng cáo về hàng hóa, dịch vụ khuyến mại và cung cấp

voucher.
Giải thích:
- Căn cứ Khoản 1, Điều 25, Nghị định 52/2013 NĐ-CP về Các hình thức tổ chức hoạt
động thương mại điện tử, theo đó : “ Website thương mại điện tử bán hàng là website
thương mại điện tử do các thương nhân, tổ chức, cá nhân tự thiết lập để phục vụ hoạt
động xúc tiến thương mại, bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ của mình”.
- Căn cứ khoản 9 Điều 3, Nghị định 52/2013 NĐ-CP về Giải thích từ ngữ, theo đó:
“ Sàn giao dịch thương mại điện tử là website thương mại điện tử cho phép các thương
nhân, tổ chức, cá nhân không phải chủ sở hữu website có thể tiến hành một phần hoặc
toàn bộ quy trình mua bán hàng hóa , dịch vụ trên đó”.
Hơn nữa sàn giao dịch điện tử là 1 trong các loại website cung cấp dịch vụ thương
mại điện tử. Do vậy, căn cứ khoản 2, Điều 25, Nghị định 52/ 2013 NĐ-CP về Các hình
thức tổ chức hoạt động thương mại điện tử, theo đó : “ Website cung cấp dịch vụ thương
mại điện tử là website thương mại điện tử do thương nhân, tổ chức thiết lập để cung cấp
môi trường cho các thương nhân, tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động thương mại”.
- Căn cứ Khoản 2, Điều 35 Nghị định 52/2013-NĐCP về các hình thức hoạt động của
sàn giao dịch thương mại điện tử, theo đó:
“a) Website cho phép người tham gia được mở các gian hàng trên đó để trưng bày,
giới thiệu hàng hóa hoặc dịch vụ.
b) Website cho phép người tham được lập các website nhánh để trưng bày, giới
thiệu hàng hóa hoặc dịch vụ.
c)Website có chuyên mục mua bán trên đó cho phép người tham gia đăng tin mua
bán hàng hóa và dịch vụ”.
Trong tình huống này, trang web “muachung.com” sẽ cung cấp thông tin về
hàng hóa và doanh nghiệp cung ứng hàng hóa, dịch vụ được giảm giá. Khách hàng muốn
mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ được đăng tải trên trang web “muachung.com” phải thực
hiện việc đặt hàng trực tuyến gửi cho Ban quản trị trang web, việc thanh toán có thể được
thực hiện online hoặc thanh toán tại nhà khi nhận được voucher mua hàng. Sau khi đặt
hàng, khách hàng sẽ nhận được thông báo xác nhận thông tin đặt hàng của mình từ phía
“muachung.com”, cũng như thời gian muachung.com sẽ giao voucher. Để được cung ứng

dịch vụ/hàng hóa, khách hàng phải xuất trình voucher đã được “muachung.com” phát
hành tại cơ sở bán hàng/cung ứng dịch vụ của doanh nghiệp có sản phẩm/dịch vụ được
giảm giá. Trang web “ muachung.com” không trực tiếp bán sản phẩm, hàng hóa dịch vụ
của họ mà trang web này là cầu nối giữa khách hàng với những doanh nghiệp khác.
=>Căn cứ những điều trên, khẳng định rằng trang web “ muachung.com” là sàn giao dịch
thương mại điện tử.
1) Mối quan hệ, vai trò giữa Hoa, Chung, Nam; trang web muachung.com; khách hàng
đặt mua hàng trên muachung.com; và doanh nghiệp cung ứng hàng hóa/ dịch vụ
được đăng tải trên muachung.com.
- Hoa, Chung, Nam sẽ được coi là ban quản trị của website “muachung.com”- website
chịu trách nhiệm cung cấp dịch vụ khuyến mại trực tuyến. Hoa, Chung, Nam chịu trách
nhiệm quản lý và thực hiện các dịch vụ khuyến mại cho các thương nhân, tổ chức, cá
nhân có yêu cầu thực hiện khuyến mại trên website khuyến mại trực tuyến
“muachung.com” bằng hình thức quảng cáo về hàng hóa, dịch vụ khuyến mại và cung
cấp voucher hoặc giao sản phẩm.
- Website TMĐT muachung.com là trung gian giữa thương nhân có nhu cầu khuyến mại
và khách hàng tiềm năng của sản phẩm, dịch vụ của thương nhân thực hiện khuyến mại;
có tác dụng quảng cáo sản phẩm của các thương nhân hợp tác với website, cung ứng dịch
vụ khuyến mại trực tuyến thông qua hình thức bán voucher.
- Khách hàng là cá nhân hoặc tổ chức có nhu cầu mua, sử dụng các hàng hóa, dịch vụ
được khuyến mại trên Website này.
- Đối tác đăng tin trên website “muachung.com” là thương nhân, tổ chức, cá nhân trực
tiếp sản xuất sản phẩm/kinh doanh hàng hóa, có quyền thực hiện chương trình khuyến
mại theo quy định của pháp luật Việt Nam và có yêu cầu thực hiện khuyến mại trên
website khuyến mại trực tuyến muachung.com bằng hình thức quảng cáo về hàng hóa,
dịch vụ khuyến mại kết hợp cung cấp voucher hoặc giao sản phẩm.
Trong mối quan hệ này, ban quản lý bao gồm Hoa, Chung, Nam sẽ tiến hành đàm phán
và thỏa thuận với các đối tác thương nhân có nhu cầu khuyến mại và quản cáo về hàng
hóa, dịch vụ khuyến mại để đăng tin trê website “muachung.com”. Các thương nhân là
đối tác của website sẽ cung cấp voucher cho “muachung.com”. Khách hàng sẽ truy cập

vào website, nhìn các danh mục dịch vụ khuyến mãi và hàng hóa để gửi đặt hàng, sau khi
hoàn tất phía muachung.com sẽ cung cấp voucher cho khách hàng. Tuy nhiên, phía
muachung.com sẽ không chịu trách nhiệm cung ứng sản phẩm hàng hóa, khách hàng sẽ
sử dụng voucher tại nơi có hàng hóa, dịch vụ mà mình muốn mua.
Tình tiết bổ sung 1:
Giả sử, ngày 10/3/2014, chị Mai vào trang web trên đặt mua một chiếc chảo happy call
với đầy đủ thông tin về tính năng, giá cả của sản phẩm, doanh nghiệp cung cấp hàng hóa,
hướng dẫn mua hàng và phương thức thành toán. Vào lúc 16h ngày 10/3/2014, chị Mai
hoàn tất việc đặt hàng trực tuyến mua 10 chiếc chảo happy call với giá 400.000đ/chiếc.
Đến 16h ngày 11/3/2014, chị nhận được email thông báo của “muachung.com” về việc
đã nhận được đơn đặt hàng với số lượng, giá cả như chị Mai đã đặt và hẹn sẽ giao
voucher mua hàng cho chị Mai trong vòng 2 ngày tới. Ngày 13/3, nhân viên của
“muachung.com” mang 10 voucher mua chảo happy ca* Trường hợp thứ nhất: Giữa chị
Mai và muachung.com đã có hợp đồng
ll giao cho chị Mai, tuy nhiên, chị Mai nhất định không nhận hàng vì lý do không có nhu
cầu dùng nữa và việc chị đặt hàng như vậy cũng chưa thiết lập hợp đồng với
“muachung.com”.
1 Anh, chị hãy cho biết đã có hợp đồng giữa chị Mai và muachung.com chưa?
2 Giải quyết quyền lợi của các bên theo quy định của pháp luật hiện hành.
Trả lời:
1) Tình huống này được chia làm 2 trường hợp:
*Trường hợp 1: Giữa muachung và chị Mai đã có hợp đồng
Nếu trên wesite có quy định rõ thời điểm có hiệu lực của đề nghị giao kết hợp đồng
là quá 1 ngày, tức là sau 1 ngày chị Mai đặt mua hàng lúc 16h ngày 10/3/2014 và
muachung.com đã gửi thông báo vào 16h ngày 11/3/2014 thì trong trường hợp này đã có
hợp đồng giữa chị Mai va muachung.com. Căn cứ :
- Căn cứ Điều 17,Nghị định 52/2013/NĐ-CP về đề nghị giao kết hợp đồng ( giao dịch
điện tử sử dụng chức năng đặt hàng trực tuyến trên website thương mại điện tử) :
“chứng từ điện tử do khách hàng khởi tạo và gửi đi bằng cách sử dụng chức năng đặt
hàng trực tuyến được coi là đề nghị giao kết hợp đồng của khách hàng đối với hàng

hóa hoặc dịch vụ gắn kèm chức năng đặt hàng trực tuyến đo”
Việc chị Mai “vào trang web trên đặt mua một chiếc chảo happy call với đầy đủ thông
tin về tính năng, giá cả của sản phẩm, doanh nghiệp cung cấp hàng hóa, hướng dẫn mua
hàng và phương thức thành toán. Vào lúc 16h ngày 10/3/2014, chị Mai hoàn tất việc đặt
hàng trực tuyến mua 10 chiếc chảo happy call với giá 400.000đ/chiếc.” là chị Mai đã đề
nghị giao kết hợp đồng với muachung.com
- Căn cứ Điều 19, Nghị định 52/2013/NĐ-CP về trả lời đề nghị giao kết hợp đồng
( giao dịch điện tử sử dụng chức năng đặt hàng trực tuyến trên website thương mại
điện tử), theo đó:
“1. Trả lời chấp nhận hoặc không chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng phải được
thực hiện dưới hình thức phù hợp để thông tin có thể lưu trữ, in và hiển thị được tại hệ
thống thông tin của khách hàng.
2.Khi trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng của khách hàng, thương nhân,
tổ chức, cá nhân bán hàng phải cung cấp cho khách hàng những thông tin sau:
a) Danh sách toàn bộ hàng hóa hoặc dịch vụ khách hàng đặt mua, số lượng, giá
của từng sản phẩm và tổng giá trị hợp đồng;
b) Thời hạn giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ;
c) Thông tin liên hệ để khách hàng có thể hỏi về tình trạng thực hiện hợp đồng khi
cần thiết.”
Việc “muachung.com thông báo về việc đã nhận được đơn đặt hàng với số lượng, giá cả
như chị Mai đã đặt và hẹn sẽ giao voucher mua hàng cho chị Mai trong vòng 2 ngày tới”
là muachung.com đã hoàn tất trả lời đề nghị giao kết hợp đúng theo đúng quy định, hợp
pháp
-Căn cứ Điều 21, Nghị định 52/2013/NĐ-CP về thời điểm giao kết hợp đồng khi sử dụng
chức năng đặt hàng trực tuyến trên website thương mại điện tử, theo đó:
“Thời điểm giao kết hợp đồng khi sử dụng chức năng đặt hàng trực tuyến trên
website thương mại điện tử là thời điểm khách hàng nhận được trả lời của thương
nhân, tổ chức, cá nhân bán hàng chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng theo quy định
tại Khoản 2 Điều 19 Nghị định này.”
Khi chị Mai nhận được email “muachung.com thông báo về việc đã nhận được đơn đặt

hàng với số lượng, giá cả như chị Mai đã đặt và hẹn sẽ giao voucher mua hàng cho chị
Mai trong vòng 2 ngày tới” là thời điểm giao kết hợp đồng. Như vậy hợp đồng đã được
giao kết theo đúng quy định của pháp luật.
* Trường hợp thứ 2: Giữa chị Mai và muachung.com chưa có hợp đồng
Nếu trên trang web không quy định rõ thời điểm có hiệu lực của đề nghị giao kết hợp
đồng hoặc quy định thời điểm có hiệu lực của đề nghị giao kết hợp đồng là dưới 23 giờ
thì trong trường hợp này giữa chị Mai và muachung.com chưa có hợp đồng. Căn cứ:
-Căn cứ Điều 20 nghị định 52/2013/NĐ-CP về Chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng, theo
đó:
“1. Trường hợp thương nhân, tổ chức, cá nhân bán hàng có công bố thời hạn trả
lời đề nghị giao kết hợp đồng, nếu hết thời hạn này mà khách hàng vẫn không được trả
lời thì đề nghị giao kết hợp đồng của khách hàng chấm dứt hiệu lực. Việc trả lời chấp
nhận sau thời hạn này được coi là một đề nghị giao kết hợp đồng khác từ phía thương
nhân, tổ chức, cá nhân bán hàng.
2.Trường hợp thương nhân, tổ chức, cá nhân bán hàng không công bố rõ thời hạn
trả lời đề nghị giao kết hợp đồng, nếu trong vòng 12 (mười hai) giờ kể từ khi gửi đề nghị
giao kết hợp đồng, khách hàng không nhận được trả lời đề nghị giao kết hợp đồng thì đề
nghị giao kết hợp đồng của khách hàng được coi là chấm dứt hiệu lực”.
Trong trường hợp này, chị Mai đề nghị giao kết hợp đồng vào 16h ngày 10 tháng
3 năm 2014 nhưng đến 16h ngày 11 tháng 3 năm 2014 muachung.com mới gửi thông báo
trả lời chấp nhận. Như vậy là sau 24giờ (tức là đã quá 12 giờ và trên 23 giờ) website
muachung.com mới trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng thì lời đề nghị giao kết
hợp đồng của khách hàng coi như là chấm dứt hiệu lực, sẽ không có hợp đồng. Và thông
báo trả lời chấp nhận của muachung.com được coi như là một lời đề nghị giao kết hợp
đồng mới với chị Mai.
2. Quyền lợi của các bên theo quy định của pháp luật:
-Trong trường hợp đã có hợp đồng giữa chị Mai và muachung.com:
-Căn cứ Điều 426- Bộ luật dân sự : Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng dân sự
“1. Một bên có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng nếu các bên có
thoả thuận hoặc pháp luật có quy định.

2. Bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng phải thông báo ngay cho bên
kia biết về việc chấm dứt hợp đồng, nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi
thường.
3. Khi hợp đồng bị đơn phương chấm dứt thực hiện thì hợp đồng chấm dứt từ
thời điểm bên kia nhận được thông báo chấm dứt. Các bên không phải tiếp tục thực hiện
nghĩa vụ. Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán.
4. Bên có lỗi trong việc hợp đồng bị đơn phương chấm dứt phải bồi thường thiệt
hại.”
Hợp đồng giữa chị Mai và muachung.com đã được hình thành. Việc chị Mai không
nhận voucher khi người giao hàng mang đến là hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng.
Vì vậy áp dụng điều 426 bộ luật dân sự. nếu hai bên có thỏa thuận trong điều khoản được
từ chối nhận hàng khi giao hàng thì chị Mai có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng
này, còn nếu không có thỏa thuận thì chị Mai sẽ phải bồi thường cho muahcung.com nếu
gây thiệt hại.
- Trong trường hợp chưa có hợp đồng theo phân tích ở trên thì chị Mai có quyền ko mua
10 cái chảo mà chị đã đặt hàng trên website và người bán hàng không có quyền ép buộc
gì với chị Mai. Giữa chị Mai và muachung.com không có sự ràng buộc nào về mặt pháp
luật.
Tình tiết bổ sung 2:
Giả sử, vào lúc 24h cùng ngày, sau khi chị Mai đặt hàng, website “muachung.com” đã
thông báo về việc nhận được đơn hàng trên với đầy đủ thông tin về số lượng, chất lượng,
giá cả, phương thức thanh toán và đề nghị chị Mai sau khi nhận được thông báo này xác
nhận về việc đặt hàng. Ngày 12/3/2014 chị Mai gửi email xác nhận việc đặt hàng như
trên.
Hãy cho biết đã có hợp đồng thương mại chưa? Nếu đã hình thành hợp đồng, thời điểm
giao kết hợp đồng là thời điểm nào?
Trả lời:
1.Đã có hợp đồng thương mại giữa chị Mai và muachung.com. Căn cứ:
- Căn cứ điểm c, Khoản 2, Điều 18 Luật Giao dịch điện tử năm 2005 về nhận thông
điệp dữ liệu, theo đó:

“ Trường hợp trước hoặc trong khi gửi thông điệp dữ liệu, người khởi tạo có yêu cầu
hoặc thoả thuận với người nhận về việc người nhận phải gửi cho mình thông báo xác
nhận khi nhận được thông điệp dữ liệu thì người nhận phải thực hiện đúng yêu cầu hoặc
thoả thuận này;”
-Căn cứ Điều 36, Luật Giao dịch điện tử năm 2005 về giao kết hợp đồng điện tử, theo
đó:
“1.Giao kết hợp đồng điện tử là việc sử dụng thông điệp dữ liệu để tiến hành một phần
hoặc toàn bộ giao dịch trong quá trình giao kết hợp đồng.
2. Trong giao kết hợp đồng , trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, đề nghị giao
kết hợp đồng và chấp nhận giao kết hợp đồng có thể được thực hiện thông qua thông
điệp dữ liệu”.
-Căn cứ Điều 19,Nghị định 52/2013/NĐ-CP về đề nghị gia kết hợp đông, theo đó:
“1. Trả lời chấp nhận hoặc không chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng phải được
thực hiện dưới hình thức phù hợp để thông tin có thể lưu trữ, in và hiển thị được tại hệ
thống thông tin của khách hàng.
2.Khi trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng của khách hàng, thương nhân, tổ
chức, cá nhân bán hàng phải cung cấp cho khách hàng những thông tin sau:
a) Danh sách toàn bộ hàng hóa hoặc dịch vụ khách hàng đặt mua, số lượng, giá của
từng sản phẩm và tổng giá trị hợp đồng;
b) Thời hạn giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ;
c) Thông tin liên hệ để khách hàng có thể hỏi về tình trạng thực hiện hợp đồng khi
cần thiết.”
Trong tình huống này, Chị Mai đã gửi xác nhận theo đúng đề nghị của
muachung.com theo đúng theo điểm c, Khoản 2, Điều 18 của Luật giao dịch điện tử năm
2005. Như vậy việc trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng đã tuân thủ theo đúng
Theo điều 19 của nghị định 52/2013/NĐ-CP. Việc giao kết hợp đồng giữa
muachung.com và chị Mai được thực hiện qua phương tiện điện tử đã tuân thủ theo đúng
theo điều 36 luật giao dịch điện tử năm 2005.
2.Thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm chị mai gửi mail xác nhận việc đặt hàng vào
ngày 12/3/2014 .Căn cứ:

- Căn cứ điểm d, Khoản 2, Điều 18 của luật giao dich điện tử năm 2005 về Nhận
thông điệp dữ liệu, theo đó:
“Trường hợp trước hoặc trong khi gửi thông điệp dữ liệu, người khởi tạo đã tuyên bố
thông điệp dữ liệu đó chỉ có giá trị khi có thông báo xác nhận thì thông điệp dữ liệu đó
được xem là chưa gửi cho đến khi người khởi tạo nhận được thông báo của người nhận
xác nhận đã nhận được thông điệp dữ liệu đó”.
-Căn cứ Điều 21 Nghị định 52/2013/NĐ-CP về Thời điểm giao kết hợp đồng khi sử
dụng chức năng đặt hàng trực tuyến trên website thương mại điênh tử, theo đó :
“Thời điểm giao kết hợp đồng khi sử dụng chức năng đặt hàng trực tuyến trên
website thương mại điện tử là thời điểm khách hàng nhận được trả lời của thương nhân,
tổ chức, cá nhân bán hàng chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng theo quy định tại Khoản
2 Điều 19 Nghị định này.”
Việc chị Mai xác nhận mail và gửi đến muachung.com là thời điểm mà việc trả lời
chấp nhận giao kết hợp đồng của muachung.com có hiệu lực vì muachung.com đã yêu
cầu chị Mai xác nhận về việc đặt hàng. Khi chị Mai xác nhận thì thông điệp dữ liệu mà
muachung.com khởi tạo mới được coi là gửi đi, tức là lời chấp nhận giao kết hợp đồng
của muachung.com lúc đó mới được phát sinh hiệu lực theo đúng điểm d, khoản 2, điều
18 của luật giao dich điện tử năm 2005. Thời điểm giao kết hợp đồng chính là thời điểm
chị Mai nhận được trả lời của muachung.com. Vậy khi lời chấp nhận giao kết hợp đồng
của muachung.com phát sinh hiệu lực thì là lúc chị Mai gửi email xác nhận. Thời điểm
đó tuân thủ đúng theo điều 21 của nghị định 52/2013/NĐ-CP.
Tình tiết bổ sung 3:
Giả sử 8h sáng ngày 13/3/2014, anh An vào trang web “muachung.com” đặt mua 3
voucher đặt phòng khách sạn Yasaka Sài Gòn – Nha Trang với gói dịch vụ phòng 4 ngày
3 đêm với giá 2tr/đ/vourcher, thời hạn sử dụng dịch vụ đến 31/12/2014. Theo thông tin
trên trang web, để sử dụng gói dịch vụ này, khách hàng phải gọi điện đặt phòng trước cho
khách sạn ít nhất 10 ngày kể từ ngày dự kiến sử dụng dịch vụ phòng. 14h cùng ngày, anh
An nhận được đơn xác nhận về đơn đặt hàng từ web “muachung.com”, muachung.com sẽ
giao voucher trong vòng hai ngày tới. Ngày 20/3, anh An đến khách sạn xuất trình
voucher sử dụng dịch vụ phòng, tuy nhiên, người quản lý khách sạn trả lời rằng không

thể cung ứng dịch vụ phòng cho anh An do khách sạn không còn phòng. Cho rằng khách
sạn đã vi phạm hợp đồng với mình, anh An đã làm đơn khởi kiện ra cơ quan giải quyết
tranh chấp có thẩm quyền.
1 Theo anh chị, đối tượng của hợp đồng trong tình huống trên là gì? Mối quan hệ
giữa các bên trong tình huống này.
2 Hãy giải quyết vụ việc trên theo quy định hiện hành?
Trả lời:
1.Đối tượng của hợp đồng
Đối tượng của hợp đồng là gói dịch vụ phòng 4 ngày 3 đêm ở khách sạn Yasaka Sài Gòn
– Nha Trang.
Mối quan hệ của các bên:
- “muachung.com” là sàn giao dịch điện tử, tổ chức cung cấp dịch vụ khuyến mại trực
tuyến. Cụ thể trong trường hợp này “muachung.com” cung cấp voucher dịch vụ phòng
khách sạn của Yasaka và bán voucher cho anh An.
- Yasaka Sài Gòn là đối tác của “muachung.com”, có nhu cầu quảng cáo dịch vụ và
khuyến mại gói dịch vụ phòng khách sạn của mình. Yasaka đã thông qua trang web
“muchung.com” để đăng tải thông tin về gói dịch vụ, giả cả, chất lượng,v.v…
- Anh An là khách hàng có nhu cầu sử dụng gói dịch vụ cho Yasaka cung cấp. Anh An
thông qua website “muachung.com” để mua voucher nhằm mục đích sử dụng gói dịch vụ
phòng khách sạn Yasaka trong 4 ngày 3 đêm.
2. Giải quyết vụ việc:
- Căn cứ điểm b, điểm e, Khoản 1, Điều 40 điều Nghị định 52/2013-NĐCP về Thông
tin hoạt động khuyến mại trên website khuyến mại trực tuyến, theo đó:
“1.Thông tin về từng hoạt động khuyến mại trên website khuyến mại trực tuyến phải
bao gồm:
b)Mô tả hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại và hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến
mại;
e)Nội dung cụ thể của các điều kiện gắn với việc khuyến mại hàng hóa dịch vụ”.
=> Website “muachung.com” đã công bố đầy đủ thông tin về gói dịch vụ đặt phòng của
Yasaka, hơn nữa cũng cấp cấp thêm điều kiện để sử dụng gói dịch vụ là phải liên hệ đặt

phòng với khách sạn Yasaka trong vòng 10 ngày kể từ ngày có ý định sử dụng gói dịch
vụ này. Bên cạnh đó, “muachung.com” cũng đã thực hiện xong hợp đồng với anh An, đã
giao voucher cho anh An nên phía “muachung.com” sẽ không phải chịu bất cứ nghĩa vụ
gì khi xảy ra tranh chấp.
=> Tranh chấp được xác định là từ phía anh An và khách sạn Yasaka.
* Xác định lỗi khi xảy ra tranh chấp
Lỗi sai hoàn toàn đến từ phía anh An, bởi đã không đọc kỹ điệu kiện quy định để áp
dụng gói dịch vụ đặt phòng là phải đặt phòng trước 10 ngày kể từ ngày muốn sử dụng
dịch vụ ( được nếu trên trang web “muachung.vn” ). Như vậy rủi ro về việc hết phòng
phải anh An phải gánh chịu, bên phía khách sạn Yasaka không phải chịu bất cứ nghĩa vụ
nào vì lỗi phát sinh hoàn toàn từ anh An. Khách sạn Yasaka hoàn toàn không vi phạm
hợp đồng với anh An.
* Giải quyết tranh chấp :
- Căn cứ Điều 52, Luật Giao dịch điện tử năm 2005 về Giải quyết tranh chấp trong giao
dịch điện tử, theo đó :
“1.Nhà nước khuyến khích các bên có tranh chấp trong giao dịch điện tử giải quyết
thông qua hòa giải.
2. Trong trường hợp các bên không hòa giải được thì thẩm quyền , trình tự ,thủ tục
giải quyết tranh chấp về giao dịch điện tử được thực hiện theo quy định của pháp luật”.
- Căn cứ Khoản 4,điểm c Khoản 5,Điều 76, Nghị định 52 NĐCP về Giải quyết tranh
chấp trong thương mại điện tử, theo đó:
“4. Việc giải quyết tranh chấp phải thông qua thương lượng giữa các bên , hòa giải,
trọng tài hoặc tòa án theo các thủ tục, quy định hiện hành về giải quyết tranh chấp.
5. Giải quyết khiếu nại, tranh chấp trên website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử:
c) Thương nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ thương mại điện tử được tham gia hòa
giải tranh chấp phát sinh giữa khách hàng với người bán trên website thương mại điện
tử của mình”.
Trong tình huống này, hợp đồng giữa anh an và trang web muachung.com được thực hiện
theo đúng quy định của pháp luật. Khi anh An đến khách sạn thì khách sạn thông báo là
không còn phòng, anh An nghĩ là khách sạn đã vi phạm hợp đồng với mình, anh An đã

làm đơn khởi kiện ra cơ quan giải quyết tranh chấp có thẩm quyền. Do đó, tranh chấp
phát sinh được xác định là giữa anh An và khách sạn. Vì vậy, khách sạn phải có trách
nhiệm trong việc giải quyết tranh chấp này. Theo căn cứ luật thì trang web
muachung.com sẽ tham gia hòa giải tranh chấp này.
Các bên trong tranh chấp nên thương lượng, hòa giải để tìm cách giải quyết. Trong
trường hợp không thể thương lượng hay hòa giải thì mới nhờ đến cơ quan Tòa án, trọng
tài…

×