Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Hiện trạng và phương hướng khai thác tài nguyên biển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.95 KB, 24 trang )

PHẦN ĐẦU
Trước sự suy giảm của tài nguyên trên cạn, con người ngày càng hướng
sự khai thác vào biển khơi. Chính vì lẽ đó việc tìm hiểu, nghiên cứu tài nguyên
biển là điều rất quan trọng. Nước ta, có diện tích biển rất lớn (hơn 1 triệu km
2
)
lại ở trong vùng biển Đông trù phú. Vì vậy việc nghiên cứu tài nguyên biển càng
trở nên cấp thiết hơn.
Về đề tài này đã có rất nhiều tài liệu đề cập đến ở những mức độ khác
nhau. Chúng tôi, những sinh viên không thuộc chuyên ngành địa lý, khi đề cập
đến vấn đề này chắc chắn chẳng có đóng góp gì mới hơn. Mục đích của chúng
tôi là hệ thống lại một cách khái quát về tài nguyên biển Việt Nam. Từ đó, để
hiểu biết thêm phần tài nguyên quý giá này.
Trong phần trình bày chúng tôi chia các phần như sau:
I. Điều kiện tự nhiên
II. Tài nguyên
III. Hiện trạng và phương hướng khai thác tài nguyên biên.
1
I. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
Nước ta nằm ở phía tây của biển Đông - Một trong những biển rộng lớn
và giàu có nhất thế giới. Với đường bờ biển dài hơn 3 nghìn km và vùng
đặcquyền kinh tế rộng hơn một triệu km
2
nên Việt Nam cũng được coi là một
trong những nước có diện tích biển lớn nhất trong khu vực. Cũng chính vì điều
đó mà biển nước ta vừa mang đặc trưng chung của biển Đông vừa mang những
sắc thái riêng biệt :
1. ĐỊA HÌNH
Do lịch sử kiến tạo lâu dài; quá trình xâm thực của nước biển kết hợp với
sự bồi tụ của các dòng sông đã tạo cho bờ biển nước ta những nét đặc biệt. Dọc
theo chiều dài của lãnh thổ, bờ biển nước ta có sự phân hoá phức tạp. Bên cạnh


những vũng, vịnh, những hải cảng, bãi sú, vẹt đước còn có những dải đồng bằng
phì nhiêu hay những bờ cát trắng; thậm chí còn tồn tại những mỏm núi lô nhô
giữa chốn biển khơi.
Dải bờ biển từ Quảng Ninh tới Hải Phòng rất khúc khuỷu gồ gề. Có
những chỗ biển lấn sâu vào đất liền tạo ra những vịnh, hải cảng, hang động… có
nơi núi bị lấn ra biển tạo ra những mỏm núi lô nhô, những đảo nhỏ nổi tiếng về
phong cảnh hữu tình. Bên cạnh đó còn có những bãi đước, rừng sú vẹt, những
bãi cá là nơi thuận lợi cho nuôi trồng thuỷ sản. Một số những thắng cảnh ở vùng
biển này là: Vịnh Bái Tử Long, Hạ Long, những cảng thiên nhiên như Vạn Hoá,
Hòn Gai.
Từ cửa sông Thái Bình cho tới Nga Sơn (Thanh Hoá) bờ biển lại phẳng lỳ
phù sa. Nơi đây là sự giao tranh giữa biển và đất liền. Có những nơi tưởng là
làng mạc trù phú bị nhấn chìm xuống biển sâu. Song lại có nơi đất lấn biển tạo
ra những làng mới (như huyện Kim Sơn- Ninh Bình, huyện Tiền Hải - Thái
Bình). Bờ biển ở đây phẳng, thỉnh thoảng mới có một vài cửa sông dạng phễu.
Dọc bờ biển là rừng sú vẹt; những bái trồng đay, cói.
- Từ Thanh Hoá tới Thừa Thiên bờ biển cong như cánh ná dương ra biển
khơi. Bờ biển ở đoạn này cũng tương đối bằng phẳng tạo ra những bãi tắm nổi
tiếng, những đồng bằng nhỏ hẹp, những bãi cát trắng và một vài cảng biển. Ở
2
đây cũng có nhiều bãi đầm phá để nuôi trồng thuỷ sản, tạo ra thế mạnh của
vùng.
- Tiếp theo; từ Thừa Thiên trở vào bờ biển hoàn toàn đổi khác chen giữa
những mỏm núi đá, bán đảo; khối đảo là những đầm phá lớn (đầm Sa Huỳnh;
đầm Ông Tong…) để nuôi trồng thuỷ sản.
- Phía Nam Bình Định ; cảnh núi non ở ven biển là một nét đặc trưng. Đặc
biệt, nơi đây có những cảnh núi non hiểm trở của dãy Trường Sơn ăn ra biển. Có
rất nhiều mũi đá (mũi nạy, mũi Cà Ná…) và những vịnh đẹp nổi tiếng (Nha
Trang - Cam Ranh).
- Từ Đông Nam Bộ tới Nam Bộ bờ biển trở nên bằng phẳng hơn, có rất

nhiều những cồn cát, song cũng lắm đồng bằng và kênh rạch chằng chịt. Một số
cửa sông tạo ra những cảng biển quan trong cho vùng. Ngoài khơi vẫn tồn tại
một vài mỏm núi nhấp nhô. Đặc biệt từ sau vịnh Rạch Giá ; lại xuất hiện đảo,
vịnh, hang động và những bãi tắm.
Như vậy ta thấy, bờ biển nước ta có sự phân hoá rất sâu sắc theo chiều dài
đất nước. Chính sự phân hoá này vừa là những thuận lợi, vừa là thách thức để
mỗi vùng có chính sách phát triển kinh tế - xã hội hợp lý.
Chìm sâu xuỗng mực nước biển là vùng thềm lục địa. Cũng như bờ biển,
thềm lục địa nước ta có sự phân hoá theo chiều dài đất nước. Vùng thềm lục địa
Bắc bộ trải rộng bao chiếm toàn bộ vịnh. Song xuống miền Trung, thềm lục địa
lại co lại có khi cách bờ biển chỉ 80m. Tới miền Nam, đặc biệt là ở vịnh Thái
Lan, thềm lục địa lại trải rộng ra toàn vùng. Thềm lục địa là nơi hội tụ của các
loài sinh vật, của khoáng sản, nơi có nồng độ muối cao… Vì vậy với vùng thềm
lục địa rộng lớn là thế mạnh cho nước ta khai thác.
Tiếp theo thềm lục địa là sườn lục địa và vực sâu. Nói chung do thềm lục
địa nước ta bằng phẳng nên sườn lục địa không dốc lắm và rất ít vực sâu (lòng
chảo biển). Nơi đây cũng là nơi tồn tại của các quần thể san hô, của các bể trầm
tích dầu…
2. KHÍ HẬU
3
Nước ta nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa nên biển Việt
Nam cũng mang tính chất đó. Tuy nhiên do phức tạp của môi trường biển nên
khí hậu biển mang “những nét độc đáo” và “chịu nhiều nhiễu loạn”.
* Gió:
Có hai loại gió thịnh hành trên biển là gió mùa Đông Bắc và gió mùa Tây
Nam.
Vào mùa Đông - gió mùa Đông Bắc thổi từ tháng X đến tháng IV năm sau
nên các tỉnh phía Bắc mang khí hậu lạnh. Càng xuống phía Nam, độ lạnh càng
giảm đi, ở miền Trung, do gió thổi vuông góc với bờ biển nên gây ra sóng cồn
đổ bộ vào bờ. Gió mùa Tây Nam từ tháng V đến tháng XI thường gây mưa lớn.

Ở miền Bắc gió mùa Tây Nam thường bị nhiễu loạn bởi các vùng áp thấp, bão
hoạt động trong Vịnh Bắc Bộ. Ở phía Nam gió Tây Nam có tính chất điển hình
hơn.
Ngoài hai loại gió trên biển Việt Nam còn có nhiều loại gió khác như gió
Lào (khô nóng), gió đất - gió biển và đặc biệt là bão. Đây là những khó khăn rất
lớn cho mỗi vùng để điều chỉnh hoạt động sản xuất cũng như sinh hoạt.
* Mưa :
Sự phức tạp của gió, kéo theo chế độ mưa và độ ẩm của biển nước ta cũng
phức tạp thêm. Lượng mưa trung bình trên biển là 2000 mm/năm và độ ẩm là
80%.
Mưa lớn ở phía Bắc và phía Nam, còn miền Trung mưa rất ít và rất phức
tạp phân hoá theo mùa. Mùa mưa chiếm tới 70% lượng nước cả năm trong khi
mùa khô lại hạn hán. Đây cũng là một khó khăn nữa cho các vùng để điều tiết
lượng nước cho hợp lý.
* Lượng bức xạ:
Biển Đông nằm gần như hoàn toàn trong vành đai nhiệt đới nên lượng
bức xạ khá dồi dào nhất là các tháng mùa hạ. Tổng lượng bức xạ khoảng 126
Kcal/cm
3
/năm. Lượng bức xạ mặt trời lớn là điều kiện tốt để cây cối phát triển,
tận dụng làm điện năng.
* Lượng nhiệt:
4
Nhiệt độ của nước biển tương đối lớn và có nhiều biến động theo mùa,
theo tầng nước. Trung bình nhiệt độ vào khoảng từ 19
0
C. Vào mùa Xuân và mùa
thu nước biển dịu mát hơn.
Nhiệt độ còn phân hoá theo tầng nước. Càng xuống tầng nước sâu nhiệt
độ càng giảm mạnh.

Nhiệt độ nước biển thay đổi tạo ra sự đa dạng về các loài sinh vật phù hợp
với chế độ nhiệt độ khác nhau. Nó cũng giúp cho quá trình phân giải chất hữu cơ
nhanh tạo ra thức ăn cho sinh vật.
3. THỔ NHƯỠNG
Thổ nhưỡng trên biển nước ta hết sức đa dạngvề loại hình. Do sự bồi tụ
của các con sông tạo ra những khoáng vật cho biển cả (cát, bùn, các chất hoà tan
trong nước…) đặc biệt cho sự phân hoá của các loại đá mẹ trong đất biển nên
tạo ra nhiều loại đất khác nhau. Quan trọng nhất là đất Feralit, đất mặn; đất phù
sa…
Chính thành phần thổ nhưỡng đa dạng này là điều kiện quan trọng để các
sinh vật phát triển phù hợp với các loại thổ nhưỡng khác nhau.
II. TÀI NGUYÊN
1. TÀI NGUYÊN SINH VẬT
a) Rong tảo biển
Dọc bở biển nước ta, từ vùng trên triều đến vùng dưới triều đều có
những thuận lợi cho đời sống của nhiều loài tảo bám. Đến nay, theo số
liệu thống kê (1994 - Nguyễn Văn Tiến) trong vùng nước ven bờ đã phát
hiện được 653 loài rong biển, 24biến loài, 20 dạng, trong đó ở miền Bắc
có trên 300 loài, ở miền Nam trên 500 loài. Ngành rong Đỏ chiếm ưu thế
(310 loài), rong lục (151 loài), rong nâu (124), rong lam số lượng ít.
Trong chúng, 90 loài (14%) là những đối tượng kinh tế quan trọng cho
các ngành công nghiệp hoá chất dược liệu, thực phẩm, thức ăn chăn nuôi,
phân bón. Các loài rong câu thường có giá trị bậc nhất.
- Sự phát triển về sinh vật lượng của từng loài hoặc nhóm phụ thuộc
vào điều kiện môi trường nơi chúng sinh sống.
5
+ Vùng nền cứng : số lượng loài rong thường đa dạng nhất.
+ Vùng đáy mềm : số lượng loài rong giảm đi nhanh chóng.
- Ở vùng đáy đá, loài chiếm ưu thế là rong mơ : Mật độ 200 - 300
bụi/m

2
cho sản lượng bình quân ≈ 1kg trọng lượng khô, trữ lượng chung
khoảng 30.000 - 35.000 tấn.
Sau rong mơ là rong câu : Phát triển thuận lợi ở các đầm nước lợ,
độ muối thấp và ít sóng gió : Quảng Ninh, Hải Phòng, Nam Định, Thanh
Hoá… Mật độ 20 - 25 cụm/m
2
, sản lượng 10 - 13 kg tươi, trữ lượng 7000
- 9000 tấn hiện tại có khoảng 12.000 - 17.000 ha diện tích thuận lợi cho
trồng rong câu.
-Ngoài những giá trị kể trên, rong biển còn là nguồn nguyên liệu quí
để khai thác các hoá chất như agar, alginat, mannitol… trong các loại
rong còn phát hiện được hàng loạt các nguyên tố hoá học : nhôm, silic,
manhê, canxi, sắt… Với tầm quan trọng như thế, rong biển không chỉ khai
thác tự nhiên mà còn được trồng trong các đầm nước lợ. Năng suất trông
hiện nay còn thấp. Muốn nâng cao năng suất phải mở rộng qui mô và
thâm canh.
b) Rừng ngập mặn:
- Trước đây rừng ngập mặn nước ta có diện tích khá lớn 400.000 ha,
tập trung ở Nam bộ 250.000ha, nhất là bán đảo Cà Mau, nay diện tích bị
thu hẹp chỉ còn khoàng 252.500 ha chủ yếu là rừng thứ sinh, rừng trồng,
rừng cây bụi.
- Rừng ngập mặn ở phía Bắc thường nghèo nàn nhưng ở Nam bộ
được thừa hưởng nền nhiệt độ cao và những điều kiện thuận lợi khác “đe,
hè” chắn sóng, chống lại sự bào mòn của biển đối với lục địa, đồng thời
còng là công cụ của đất liền tiến chiếm đại dương.
- Cây ngập mặn tập trung thành rừng, kéo theo chúng là chim trời,
cá nước, trăn, rắn, thú rừng tạo nên một hệ sinh thái đặc trưng, ổn định
trong điều kiện bất ổn của các yếu tố môi trường- Hệ sinh thái rừng ngập
mặn.

6
2. TÀI NGUYÊN HẢI SẢN
Nước ta có đường bờ biển dài 3.260 km bằng 6/7 biên giới lục địa
và vùng đặc quyền kinh tế khoảng 1 triệu km
2
, Biển nứơc ta là biển nhiệt
đới. Theo sự phân bố của các vật thể hữu cơ trong biển thì biển Việt Nam
có mật độ cá vào loại trug bình trên thế giới và có đủ các loại hải sản chủ
yếu của các biển nhiệt đới khác.
Ưu điểm của biển Việt Nam là có thềm cát lục địa mở rộng, kèm
theo những dãy sơn đảo rất thuận tiện cho việc đánh cá. Đồng thời biển
Việt Nam còn có những dòng hải lưu ven biển và những dòng sông lớn từ
các vùng sâu trong nội địa chảy ra đem theo những sinh vật trôi nổi làm
mồi cho cá, khiến cho mật độ hải sản có thể cao hơn so với một số vùng
biển nhiệt đới khác. Nguồn lợi hải sản nước ta được đánh giá vào loại
phong phú trong khu vực.
- Ngoài các loại cá biển là nguồn lợi chính còn có loại đặc sản khác
có giá trị cao tôm, cua, mực, rong biển,…
- Theo đánh giá sơ bộ có khoảng trên 2000 loài cá trong đó có
khoảng trên 100 loài có giá trị kinh tế cao (Thu, trích, ngừ, bạc má,…).
Có đủ các loại cá nổi, cá tầng giữa và cá tầng đáy. Nhưng nhiều hơn cả là
cá nổi chiếm 63% tổng trữ lượng cá biển.
+ Trữ lượng cá biển nước ta đạt khoảng 3 triệu tấn, cho phép khai
thác hàng năm từ 1,2 - 1,4 triệu tấn, trong đó gần 50% sản lượng phân bố
ở vùng biển Nam Bộ.
Khả năng khai thác tốt nhất là ở độ sâu : 21 - 50 mét chiếm 58% khả
năng khai thác toàn vùng biển.
Khu vực có độ sâu từ 51 - 100 mét chiếm 24%.
Khu vực ven bờ từ 20 mét nước trở vào chiếm 18%.
Mức khai thác hiện nay đối với hải sản biển đã đến giới hạn cho

phép, cần có biện pháp hạn chế. Nguồn lợi cá nổi đại dương lớn và có
nhiều triển vọng.
7
- Biển nước ta có 1647 loại giáp xác trong đó có 70 loài tôm, có
những loài có giá trị xuất khẩu cao, như tôm he, tôm hùm, tôm sú.
Nhuyễn thể có hơn 2.500 loài. Rong biển có hơn 600 loài. Ngoài ra còn
nhiều đặc sản như hải sâm, bào ngư, sò, điệp,…
+ Tôm là loại đặc sản có tiềm năng khai thác lớn và có giá trị kinh
tế cao, là nguồn hàng xuất khẩu quan trọng của nước ta hiện nay. Tôm
phân bố rộng khắp ở khu vực gần bờ từ Quảng Ninh đến Kiên Giang, Cà
Mau, Bạc Liêu. Các khu vực tập trung là ven biển Quảng Ninh - Hải
Phòng, cửa Ba lạt, Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Ngãi, Ninh Thuận, và đặc
biệt là vùng ven biển Nam Bộ từ Vũng Tàu đến Rạch Giá.
Khả năng khai thác tôm biển khá lớn, trong đó trên 70% ở viên biển
Nam Bộ.
+ Khả năng khai thác mực là 30 - 40 ngàn tấn/năm và tập trung
nhiều ở vùng biển Trung bộ (45 - 50%). Các đặc sản như của, yến sào,
bào ngư, trai ngọc, sò huyết,… rất phong phú.
Dự tính có thể khai thác hàng ngàn tấn/năm, nhưng chưa được điều
tra đầy đủ.
Đây là nguồn tài nguyên có giá trị, mở ra triển vọng lớn cho việc
khai thác và chế biến xuất khẩu trong tương lai.
+ Dọc ven biển có 37 vạn ha mặt nước các loại, có khả năng nuôi
trồng thuỷ sản nước mặn - lợ, nhất là nuôi các loại đặc sản xuất khẩu như
tôm, cua, rong câu,… Riêng diện tích có thể nuôi tôm nước lợ có tới 3
vạn ha. Ngoài ra còn có tới 50 vạn ha các eo vịnh nông và đầm phá ven
biển như Vịnh Hạ Long, Bái Tử Long phá Tam Giang, vịnh Văn Phong,…
Đây là môi trường rất thuận lợi để phát triển nuôi cá và đặc sản biển. Với
tiềm năng trên, trong tương lai có thể phát triển ngành nuôi trồng hải sản
ở biển và ven biển.

- Các nguồn lợi cá, tôm, mực… tập trung ở những vùng biển nhất
định gọi là ngư trường. Nước ta có 15 ngư trường trong đó 12 ngư trường
ở ven biển và 2 ngư trường ngoài khơi.
8
Có 4 ngư trường trọng điểm được xác định là : Ngư trường Minh
Hải - Kiên Giang; ngư trường Ninh Thuận - Bình thuận , Bà Rịa - Vũng
Tàu; ngư trường Hải Phòng - Quảng Ninh và ngư trường quần đảo Trường
Sa - Hoàng Sa.
+ Trên 50% ngư trường ở phía Nam : Kiên Giang , cà Mau, Minh
Hải, Bà Rịa…
+ Ngư trường ven biển suy giảm mạnh, nhiều vùng có dấu hiệu cạn
kiệt do sự bành trướng của tàu thuyển cỡ nhỏ.
Vì thế những năm gần đây, ngành này đã chú ý đầu tư vào các
phương tiện đánh bắt xa bờ và cơ sở hạ tầng của nghề cá.
- Việc khai thác hải sản hiện nay tập trung ở các ngư trường vùng
biển vịnh Bắc bộ : là vùng biển có nguồn lợi hải sản phong phú và thuận
lợi cho việc đánh bắt. Độ sâu trung bình 50m, tập trung rất nhiều đảo
trong đó có Cát Bà, Bạch Long Vĩ với tư cách như hai trung tâm khai thác
chính.
Tiềm năng của vịnh Bắc bộ khá lớn, cho phép hàng năm có thể khai
thác 325 nghìn tấn (49,2% cá nổi và 50,8% cá đáy), chiếm 24,9% trữ
lượng có khả năng đánh bắt của toàn quốc. Tuy nhiên thực trạng khai thác
mới chỉ đạt 35,5% khả năng (114 nghìn tấn, năm 1995).
Vấn đề cấp bách là phải vươn ra khơi, nhưng lại gặp khó khăn ở chỗ
vốn đầu tư đóng tàu công suất lớn vượt quá khả năng của các hộ ngư dân.
+ Vùng ven biển Trung bộ :
Thềm lục địa hẹp nên hầu như việc khai thác hải sản tập trung ở ven
bờ. So với các vùng biển khác, tiềm năng ở đây hạn chế hơn. Khả năng
hàng năm có thể khai thác 240 nghìn tấn (83,3% cá nổi, 16,7% cá đáy)
chiếm 18,4% trữ lượng cá cả nước. Sản lượng đánh bắt thực tế là 83% khả

năng cho phép (gần 20 vạn tấn, năm 1995).
+ Vùng biển Đông Nam bộ
9

×