Tài liêu bồi dưỡng HSG – GV Phan Anh Tuấn
Ánh trăng
Trăng- hình ảnh giản dị mà quen thuộc, trong sáng và trữ tình. Trăng đã trở thành đề tài thường xuyên xuất hiện trên những
trang thơ của các thi sĩ qua bao thời đại. Nếu như “ Tĩnh dạ tứ” cũa Lí Bạch tả cảnh đêm trăng sáng tuyệt đẹp gợi lên nỗi niềm
nhớ quê hương, “ Vọng nguyệt” của Hồ Chí Minh thể hiện tâm hồn lạc quan, phong thái ung dung và lòng yêu thiên nhiên tha
thiết của Bác thì đến với bài thớ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy, chúng ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng mang ý nghĩa triết lí sâu
sắc.Đó chính là đạo lí “uống nước nhớ nguồn”. (Nguyễn Vũ Như Ý - học sinh trường PTNK thành phố Hồ Chí Minh).
Bài do cô giáo Lê Thị Kiều Nga, giáo viên trường THCS Coltete thành phố Hồ Chí Minh, cung cấp.
Trăng- hình ảnh giản dị mà quen thuộc, trong sáng và trữ tình. Trăng đã trở thành đề tài thường xuyên xuất hiện trên những
trang thơ của các thi sĩ qua bao thời đại. Nếu như “ Tĩnh dạ tứ” cũa Lí Bạch tả cảnh đêm trăng sáng tuyệt đẹp gợi lên nỗi niềm
nhớ quê hương, “ Vọng nguyệt” của Hồ Chí Minh thể hiện tâm hồn lạc quan, phong thái ung dung và lòng yêu thiên nhiên tha
thiết của Bác thì đến với bài thớ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy, chúng ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng mang ý nghĩa triết lí sâu
sắc.Đó chính là đạo lí “uống nước nhớ nguồn”.
Những sáng tác thơ của Nguyễn Duy sâu lắng và thấn đẫm cái hồn của ca dao, dân ca Việt Nam . Thơ ông không cố tìm ra cái
mới mà lại khai thác, đi sâu vào cái nghĩa tình muôn đời của người Việt. “Ánh trăng” là một bài thơ như vậy.Trăng đối với nhà
thơ có ý nghĩa đặïc biệt: đó là vầng trăng tri kỉ, vầng trăng tình nghĩa và vầng trăng thức tỉnh. Nó như một hồi chuông cảng tỉnh
cho mỗi con người có lối sống quên đi quá khứ.
Tác giả đã mở đầu bài thơ với hình ảnh trăng trong kí ức thuổi thơ của nhà thơ và trong chiến tranh:
“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ”
Hình ảnh vầng trăng đang được trải rộng ra trong cái không gian êm đềm và trong sáng của thuổi thơ. Hai câu thơ với vỏn vẹn
mười chữ nhưng dường như đã diễn tả một cách khái quát về sự vận động cả cuộc sống con người. Mỗi con người sinh ra và
lớn lên có nhiều thứ để gắn bó và liên kết. Cánh đồng, sông và bể là nhưng nơi chốn cất giữ bao kỉ niệm của một thời ấâu thơ
mà khó có thể quên được. Cũng chính nới đó, ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng. Với cách gieo vần lưng “đồng”, “sông” và điệp từ
“ với” đã diễn tả tuổi thơ được đi nhiều, tiếp xúc nhiều và được hưởng hạnh phúc ngắm những cảnh đẹp của bãi bồi thiên nhiên
cũa tác giả.Tuổi thơ như thế không phải ai cũng có được ! Khi lớn lên, vầng trăng đã tho tác giả vào chiến trường để “chờ giặc
tới’.Trăng luôn sát cách bên người lính, cùng họ trải nghiệm sương gió, vượt qua những đau thương và khốc liệt của bom đạn
kẻ thù. Người lính hành quân dưới ánh trăng dát vàng con đường, ngủ dưới ánh trăng, và cũng dưới ánh trăng sáng đù, tâm sự
của những người lính lại mở ra để vơi đi bớt nỗi cô đơn, nỗi nhớ nhà. Trăng đã thật sự trởø thành “tri kỉ” của người lính trong
nhưng năm tháng máu lửa.
Khổ thơ thứ hai như một lời nhắc nhở về những năm tháng đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước
hiền hậu, bình dị. Vầng trăng đù, người bạn tri kỉ đó, ngỡ như sẽ không bao giờ quên được:
“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”
Vần lưng một lần nữa lại xuất hiện: “trần trụi”, “hồn nhiên”, “thiên nhiên” làm cho âm điệu câu thơ thêm liền mạch, dường như
nguồn cảm xúc cũa tác giả vẫng đang tràn đầy. Chính cái hình ảnh so sánh ẩn dụ đã tô đâm lên cái chất trần trụi, cái chất hồn
nhiên của người lính trong nhữnh năm tháng ở rừng. Cái vầng trăng mộc mạc và giản dị đó là tâm hồn của những người nhà
quê, của đồng, của sông. của bể và của những người lính hồn nhiên, chân chất ấy. Thế rồi cái tâm hồn - vầng trăng ấy sẽ phài
làm quen với môt hoàn cảnh sống hoàn toàn mới mẻ:
“Từ hồi về thành phá
quen ánh điện, cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”
Thời gian trôi qua cuốn theo mọi thứ như một cơn lốc, chỉ có tình cảm là còn ở lại trong tâm hồn mỗi con người như một ánh
dương chói loà. Thế nhưng con người không thể kháng cự lại sự thay đổi đó.Người lính năm xưa nay cũng làm quen dần với
những thứ xa hoa nơi “ánh điện, cửa gương”. VàØ rồi trong chính sự xa hoa đó, người lính đã quên đi người bạn tri kỉ của
mình, người bạn mà tưởng chừng chẳng thể quên được, “người tri kỉ ấy” đi qua ngõ nhà mình nhưng mình lại xem như không
quen không biết. Phép nhân hoá vầng trăng trong câu thơ thật sự có cái gì đó làm rung động lòng người đoc bởi vì vầng trăng
ấy chính là một con người. Cũng chính phép nhân hoá đó làm cho người đọc cảm thương cho một “người bạn” bị chính người
bạn thân một thời của mình lãng quên. Sự ồn ã của phố phường, những công việc mưu sinh và những nhu cầu vật chất thường
nhật khác đã lôi kéo con gười ra khỏi những giá trị tinh thần ấy, một phần vô tâm của con người đã lấn át lí trí của người lính,
khiến họ trở thành kẻ quay lưng với quá khứ. Con người khi được sống đầy đủ về mặt vật chất thì thường hay quên đi những
giá trị tinh thần, quên đi cái nền tảng cơ bản củacuộc sống, đó chình là tình cảm con người. Nhưng rồi một tình huống bất ngờ
xảy ra buộc ngươiø lính phải đối mặt:
“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn -đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”
Khi đèn điện tắt, cũng là khi không còn được sống trong cái xa hoa, đầy đủ về vật chất, người lính bỗng phải đối diện với cái
thực tại tối tăm. Trong cái “thình lình”, “đột ngột” ấy, người lính vôi bật tung cửa sổ và bất ngờ nhận ra một cái gì đó. Đó chẳng
phải ai xa lạ mà chính là người bạn tri kỉ năm xưa của mình đây hay sao? Con người ấy không hề biết được rằng cái người bạn
tri kỉ, tình nghĩa, người bạn đã bị anh ta lãng quên luôn ở ngoài kia để chờ đợi anh ta. “Người bạn ấy” không bao giờ bỏ rơi con
người, không bao giờ oán giận hay trách móc con người vì họ đã quên đi mình. Vầng trăng ấy vẫn rất vị tha và khoan dung, nó
cũng sẵn sàng đón nhận tấm lòng của một con người biết sám hối, biết vươn lên hoàn thiện mình. Cuộc đời mỗi con người
không ai có thể đóan biết trước được. Không ai mãi sống trong một cuộc sống yên bình mà không có khó khăn, thử thách. Cũng
như một dòng sông, đời người là một chuỗi dài với những qunh co, uốn khúc . Và chính trong những khúc quanh ấy, những biến
cố ấy, con người mới thật sự hiểu được cái gì là quan trọng, cái gì sẽ gắn bó với họ trong suốt hành trình dài và rộng của cuộc
Tài liêu bồi dưỡng HSG – GV Phan Anh Tuấn
đới. Dường như người lính trong bài thơ đã hiểu được điều đó!
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng”
Khi người đối mặt với trăng, có cái gì đókhiến cho người lính áy náydù cho không bị quở trách một lời nào. Hai từ “mặt” trong
cùng một dòng thô: mặt trăng và mặt người đang cùng nhau trò chuyện . Người lính cảm thấy có cái gì “rưng rưng” tự trong tận
đáy lòng và dường như nước mắt đang muốn trào ra vì xúc động trước lòng vị tha của người bạn “tri kỉ” của mình . Đối mặt với
vầng trăng, bỗng người lính cảm thấy như đang xem một thước phim quay chậm về tuổi thơ của mình ngày nào, nới có “sông”
và có “bể” .Chính những thước phim quay chậm ấy làm người lính trào dâng nhưng nỗi niềm và ngững giọt nước mắt tuôn ra tự
nhiên, không chút gượng ép nào! Những giọt nước mắt ấy đã phần nào làm cho người lính trở nên thanh thản hơn, làm tâm hồn
anh trong sáng lại. Một lần nữa những hình tượng trong tuổi thơ và chiến tranh được láy lại làm sáng tỏ những điều mà con
người cảm nhận được. Cái tâm hồn ấy, cái vẻ đẹp mộc mạc ấy không bao giờ bị mất đi, nó luôn lặng lẽ sống trong tâm hồn mỗi
con người và nó sẽ lên tiếng khi con người bị tổn thương. Đoạn thơ hay ở chất thơ mộc mạc, chân thành, ngôn ngữ bình dị mà
thấm thía, những hình ảnh đi vào lòng người.
Vầng trăng trong khổ thớ thứ ba đã thực sự thức tỉnh con người:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kề chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Khổ thơ cuối cùnh mang tính hàm súc độc đáo và đạt tới chiều sâu tư tưởng và triết lí. “Trăng tròn vành vạnh” là vẻ đẹp của
trăng vẫn viên mãn, tròn đầy và không hề bị suy suyển dù cho trải qua biết bao thăng trầm. Trăng chỉ im lặng phăng phắc, trăng
không nói gì cả, trăng chỉ nhìn, nhưng cái nhìn đó đủù khiến cho con người giật mình. Ánh trăng như một tấm gương để cho
con người soi mình qua đó, để con người nhận ra mình để thức tỉnh lương tri. Con người có thể chối bỏ, có thể lãng quên bất
cứ điều gì trong tâm hồn anh ta . Nhưng dù gì đi nũa thì những giá trị văn hoá tinh thần của dân tộc cũng luôn vậy bọc và che
chởù cho con người.
“Ánh trăng” đã đi vào lòng người đọc bao thế hệ như một lời nhắc nhở đối với mỗi người: Nếu ai đã lỡ quên đi, đã lỡ đánh mất
những giá trị tinh thần qúy giá thì hãy thức tỉnh và tìmlại những giá trị đó. còn ai chưa biết coi trọng những giá trị ấy thì hãy nâng
niu những kí ức quý giá của mình ngay từ bây giờ, đừng để quá muộn. Bài thơ không chỉ hay về mắt nội dung mà cón có những
nét đột phá trong nghệ thuật. Thể thơ năm chữ được vận dụng sáng tạo, các chữ đầu dòng thơ không viết hoa thể hiện những
cảm xúc liền mạch của nhà thơ. Nhịp thơ biến ảo rất nhanh, giọng điệu tâmtình dã gấy ấn tượng mạnh trong lòng người đọc/./
Cố hương
Tác giả:
- Lỗ Tấn: Lúc nhỏ tên là Chu Thụ Nhân(1881-1963).
- Là chiến sĩ cộng sản kiên định, sớm có tư tưởng văn học tiến bộ.
- Công trình nghiên cứu và tác phẩm văn chương của Lỗ Tấn rất đa dạng và đồ sộ.
Tác phẩm:
- Truyện có nhiều chi tiết hư cấu không đúng với sự thực.
- Là 1 truyện ngắn có yếu tố hồi ký (truyện ký) chứ không phải là hồi ký.
- Phương thức biểu đạt chủ yếu là tự sự - song biểu cảm là phương thức biểu đạt có giá trị quan
trọng trong tác phẩm.
- Trong “Cố Hương”, tác giả dùng ngôi thứ nhất không chỉ dẫn dắt câu chuyện mà còn thể hiện tình
cảm, quan điểm, nguyện vọng. Đặc biệt ngay cả khi dung phương thức biểu đạt khác, kể cả miêu tả
và lập luận, tình cảm sâu kín của tác giả thấm đẫm trong từng trang viết.
+Không phải sau 20 năm Lỗ Tấn mới về quê (tham khảo chú thích 1 SGK).
- Dù là truyện có nhiều chi tiết có thực trong cưộc đời Lỗ Tấn, song không nên đồng nhất
nhân vật “tôi” với tác giả.
Tìm bố cục, tóm tắt văn bản
*Bố cục: 3 phần
1. Từ đầu đến “đang làm ăn sinh sống”: nhân vật “tôi” trên đường về quê.
2. Tiếp đến “sạch trơn như quét”: những ngày “tôi” ở quê.
3. Còn lại: “Tôi” trên đường rời xa quê.
*Tóm tắt:
“Tôi” trở về quê sau hơn 20 năm xa cách.
Lúc này thời tiết đang độ giưã đông, trời âm u, gió lạnh lùa vào khoang thuyền, làng xóm giờ đây
tiêu điều xơ xác. Hình ảnh làng quê cũ hiện lên trong ký ức làm lòng “tôi” thấy không vui, về thăm
làng chuyến này, “tôi” có ý định từ giã quê lần cuối và lo việc chuyển nhà đi nơi khác.
“Tôi nhớ đến người bạn cũ thủa nhỏ là Nhuận Thổ: 1 cậu bé nông dân khỏe mạnh, tháo vát, hiểu biết
và hồn nhiên.Ngày ấy 2 đứa trẻ chơi thân với nhau, sau 20 năm xa cách gặp lại, nhân vật tôi thấy
Tài liêu bồi dưỡng HSG – GV Phan Anh Tuấn
Nhuận Thổ đã thay đổi nhiều: Anh trở thành 1 người nông dân nghèo khổ, đần độn, mụ mẫm đi,
“Tôi” buồn bã rời quê với niềm băn khoăn không biết tương lai của cháu Hoàng và Thuỷ Sinh sau này
sẽ ra sao, hình ảnh con đường ở cuối truyện nói lên lòng mong mỏi hy vọng 1 sự đổi thay.
Diễn biến tâm trạng của nhân vật “tôi”.
1. Trên đường về thăm quê
- Thời tiết đang độ giữa đông - trời u ám, giá lạnh.
- Từ biệt làng quê lần cuối, rời nhà đến nơi làm ăn sinh sống.
- Hình ảnh làng xóm xa gần, thấp thoáng tiêu điều.
- Cách miểu tả kết hợp vừa kể, vừa tả theo kiểu hồi ức, thể hiện rõ tâm trạng của nhân vật.
- Tâm trạng buồn, một nỗi buồn tiếc xót xa sau 20 năm trở về quê cũ.
Những ngày ở quê
a. Cảnh và con người ở quê
*Cảnh:
- Sáng tinh mơ
- Trên mái ngói mấy cọng rơm khô phất phơ
- Các gia đình đã dọn đi nhiều, càng hiu quạnh.
Hoang vắng, hiu quạnh gợi cảm giác buồn.
+ Mẹ: mừng rỡ, nét mặt ẩn 1 nỗi buồn.
- (Nỗi buồn của người sắp phải từ giã nơi mình sinh ra và lớn lên, từng gắn bó niềm vui và nỗi buồn
trong cuộc đời mà chưa hẹn ngày gặp lại)
- Nỗi buồn khó nói thành lời (nỗi buồn trước sự thay đổi của quê hương).
+Cháu Hoàng: nhìn tôi chòng chọc vì nó chưa gặp tôi lần nào, tôi thấy khác xa những người ở quê
mà hàng ngày nó được gần gũi, tiếp xúc.
+Thím Hai Dương:
Trước kia
- Nàng tâythi đậu phụ, chị xoa phấn, lưỡng quyền không cao.
- Môi không mỏng, chị là người phụ nữ khá đẹp, có sức quyến rũ.
Bây giờ
- Người đàn bà trên dưới 50, lưỡng quyền nhô ra.
-Môi mỏng dính
- Chân nhỏ xíu giống như chiếc com-pa.
- Hình ảnh người đàn bà tiều tuỵ, xấu xí, khác hẳn xưa, do dấu ấn của thời gian và vất vả của cuộc
đời hằn sâu trên vóc dáng của con người đó.
+ Tính cách : giọng nói the thé, hay nói cạnh khoé, nguẩy đít quay đi còn giất đôi bít tất…
- Trở thành con người đanh đá, tham lam, ích kỷ.
Hình ảnh đối lập thể hiện sự thay đổi ghê gớm, thay đổi hoàn toàn trở thành một con người khác
hẳn, tham lam, ích kỷ, đanh đá.
+Nhuận Thổ
Sau 20 năm
- Cao gấp 2, da vàng sạm
- Mắt viền đỏ húp lên, mũ rách tươm
- Tay nặng nề thô kệch, nứt nẻ như vỏ cây thông
- Xưng hô cung kính, cách thưa bẩm
- Nói năng thiểu não, chán ngán, mệt
- Hành động, cử chỉ: hút thuốc, ăn cơm xong nhặt nhạnh vật thừa.
Sau 20 năm: thay đổi nhiều, là người nông dân già nua, nghèo khổ, đần độn, mụ mẫm, cam chịu số
phận.
Nguyên nhân là do xã hội phong kiến: đông con nhà nghèo, chỗ nào cũng hỏi tiền không luật lệ gì
cả, mất mùa thuế nặng, lính tráng, trộm cướp, quan lại, thân hào đày đoạ.
Phản ánh hiện thực đầy đau khổ buồn tẻ của nông thôn Trung Quốc thời phong kiến.
- Tình trạng mụ mẫm, thái độ cam chịu, chấp nhận số phận của nhân vật Nhuận Thổ nói riêng, người
nông dân Trung Quốc nói chung, đó là điều nguy hiểm nhất, là điều trăn trở đau xót nhất của nhà
văn.
Tình bạn giữa 2 người, tình cảm sâu sắc không đổi thay. Đó là nét phẩm chất đáng quý của người
nông dân.
Nhuận Thổ: là nhân vật điển hình của người nông dân Trung Quốc với cuộc sống nghèo khổ, an
Tài liêu bồi dưỡng HSG – GV Phan Anh Tuấn
phận, đau thương cùng tình trạng tinh thần mu muội, của dân chúng trong xã hội phong kiến đầu
thế kỷ XX.
- Tác giả đã dùng nghệ thuật hồi ức, hiện tại để đối chiếu so sánh làm rõ cảnh và người ở quê trong
quá khứ và hiện tại.
Tâm trạng của nhân vật “tôi”: Thấy buồn xót trước cảnh đổi thay theo chiều hướng lụi tàn của quê
hương và trước tình trạng tinh thần lạc hậu mụ mẫm của dân chúng.
Đây là những đoạn độc thoại nội tâm để xen kẽ với đoạn tự sự miêu tả đặc sắc.
- Khi gặp thím Hai Dương: trầm ngâm, im lặng.
- Gặp Nhuận Thổ: điếng người, buồn thương.
- Tôi sống lại quá khứ, gặp lại bạn, định kể nhiều nhưng vừa vui vừa buồn(vui vì gặp bạn, buồn vì
thất vọng cô đơn).
Tôi trên đường rời quê.
-Thời gian buổi chiều khi hoàng hôn buông xuống, việc lựa chọn thời điểm là nhằm một dụng ý nghệ
thuật rõ nét, bố cục đầu cuối tương ứng.
- Một con người đầy tâm trạng suy tư, trở về quê trong một buổi trời vàng úa, và cũng rời xa quê
cũng vào buổi chiều khhi hoàng hôn buông xuống trên một chiếc thuyền, khi những dãy núi xanh
sẫm lại… cách sử dụng thời gian không gian nghệ thuật độc đáo.
- Ngổn ngang với bao suy tư, trăn trở nghĩ về Nhuận Thổ, về tình bạn giữa hai người, lại càng buồn:
- Mong ước hy vọng con cháu (Thuỷ Sinh và cháu Hoàng) thân thiết hơn, sung sướng hơn, không
như Nhuận Thổ và “tôi”, chúng cũng không khốn khổ như bao người khác.
- Hy vọng một cuộc sống mới, một cuộc đời mà chúng tôi chưa từng được sống.
“Cũng giống như những con đường trên mặt đất; kỳ thực trên mặt đất vốn mà gì có đường. Người ta
đi mãi thì thành đường thôi”.
- Hình ảnh con đường là cách nói theo nhiều nghĩa thông qua cách bàn luận, suy tư của nhân vật
“tôi”.
+ Đó là con đường mà tôi và cả gia đình đang đi.
Con đường đi lên cho tất cả hình ảnh của tương lai, đổi mới, đó là niềm hy vọng của các nhà văn về
một ngày mai tươi sáng đối với cả dân tộc.
- Hai biện pháp nghệ thuật được sử dụng: hồi ức và đối chiếu được kết hợp một cách nhuần nhuyễn
để làm nổi bật sự thay đổi của con người và cảnh vật.
- Trong việc chỉ rõ sự thay đổi của con người và cảnh vật của làng quê, tác giả có nói đến sự sa sút
về kinh tế, tình cảm đói nghèo nhưng trọng điểm vẫn là sự thay đổi về diện mạo tinh thần (thể hiện
qua tính cách của thím Hai Dương, của những người “mượn có tiễn mẹ con tôi để lấy đồ đạc”. Đặc
biệt là qua tính cách của Nhuận Thổ. Chính vì vậy trong mọi điều thay đổi, điều khiến Lỗ Tấn đau xót
nhất là mối quan hệ cách bức giữa Nhuận Thổ và nhân vật “tôi”).
- Để làm nổi bật sự thay đổi của làng quê, tác giả không chỉ đối chiếu từng nhân vật trong quá khứ
với hiện tại mà còn đối chiếu nhân vật này trong hiện tại mâu thuẫn với quá khứ của nhân vật khác.
- Đối chiếu Nhuận Thổ trong quá khứ với Thuỷ Sinh trong hiện tại: quá khứ Nhuận Thổ đeo vòng bạc,
hiện tại Thuỷ Sinh không đeo vòng bạc.
Qua hàng loạt sự đối chiếu ấy, tác giả đã phản ánh tình cảnh sa sút của xã hội Trung Quốc đầu thế
kỷ XX về mọi mặt.
- Phân tích nguyên nhân và lên án các thế lực đã tạo nên thực trạng đáng buồn ấy.
- Chỉ ra những mặt tiêu cực nằm ngay trong tâm hồn, tính cách của bản thân người lao động.
Qua cách miêu tả đặt ra một vấn đề bức thiết, phải xây dựng một cuộc đời mới tươi đẹp hơn.
Về nghệ thuật của truyện:
Bố cục chặt chẽ, cách sử dụng sinh động những thủ pháp nghệ thuật: hồi ức, hiện tại, đối chiếu, đầu
cuối tương ứng.
- Nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật độc đáo góp phần khắc hoạ tính cách nhân vật và
thể hiện chủ đề tác phẩm.
- Kết luận các phương thức biểu đạt: tự sự, miêu tả, biểu cảm, lập luận.
Về nội dung chính:
- Thông qua việc tường thuật chuyến về quê lần cuối của nhân vật “Tôi”, những rung cảm của “tôi”
trước sự thay đổi của làng quê, đặc biệt là của Nhuận Thổ, tác giả đã phản ánh hiện trạng xã họi
phong kiến đương thời, đồng thời đặt ra vấn đề đường đi của người nông dân, của toàn xã hội để mọi
người suy ngẫm.