Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

quy hoạch tổng thể phát triển du lịch vùng đồng bằng sông hồng và duyên hải đông bắc đến năm 2020 tầm nhìn 2030

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 112 trang )


QUY HOẠCH TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÙNG ĐBSH&DHĐB ĐẾN NĂM 2020, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030
VIỆN NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN DU LỊCH – 58,KIM MÃ - HÀ NỘI: TEL.37343131. FAX.8240407
1
MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết lập quy hoạch
Vùng Đồng bằng sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc (ĐBSH&DHĐB) theo định
hướng phát triển du lịch vùng của Chiến lược và Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch
Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 bao gồm Thủ đô Hà Nội, thành phố Hải
Phòng và các tỉnh Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nam, Ninh Bình,
Nam Định, Thái Bình và Quảng Ninh.
Trong tổ chức lãnh thổ phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030
vùng ĐBSH&DHĐB tiếp giáp vùng Trung du miền núi Bắc Bộ ở phía Bắc, Tây và
Tây Bắc và vùng Bắc Trung Bộ ở phía Tây Nam, vịnh Bắc Bộ ở phía Đông Nam.
Vùng bao gồm toàn bộ lãnh thổ vùng Kinh tế trọng điểm phía Bắc với 2 trung tâm
kinh tế lớn là Hà Nội và Hải Phòng và vùng Nam sông Hồng. Mặt khác vùng cũng là
lãnh thổ bao gồm vùng Thủ đô và vùng Duyên hải Bắc Bộ.
Có thể nhận thấy, vùng ĐBSH&DHĐB là một khu vực trải dài từ Tây sang Đông
với các miền địa hình khác nhau như rừng núi, trung du, đồng bằng, biển và hải đảo…
Vùng cũng là nơi có lịch sử khai phá lâu đời, nôi của nền văn minh lúa nước, tập trung
nhiều di tích, lễ hội, làng nghề truyền thống, làng Việt cổ đặc trưng… Do đó vùng
ĐBSH&DHĐB là khu vực chứa đựng nguồn tài nguyên du lịch khá toàn diện.
Những đặc điểm địa lý tự nhiên và tài nguyên tạo điều kiện để vùng ĐBSH&
DHĐB có thể phát triển một nền kinh tế mở đa dạng với định hướng chủ đạo là phát
triển công nghiệp công nghệ cao, sản xuất và chế biến lương thực, đồng thời nâng cao
tỷ lệ các ngành dịch vụ trong đó có du lịch.
Đứng về góc độ du lịch, vùng ĐBSH&DHĐB có Hà Nội là trung tâm du lịch cả
nước và trục tăng trưởng Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh với cửa mở ra biển Đông,
đến với các nước trong khu vực và quốc tế, chính vì vậy phát triển du lịch vùng có ý
nghĩa động lực đối với phát triển du lịch Việt Nam.


Thời gian qua, cùng với sự phát triển du lịch cả nước, du lịch vùng
ĐBSH&DHĐB được quan tâm phát triển và đem lại những thành quả nhất định, góp
phần quan trọng vào sự phát triển du lịch cả nước và kinh tế - xã hội của khu vực.
Tuy nhiên, cũng như các vùng khác trên cả nước phát triển du lịch của vùng
ĐBSH&DHĐB vẫn chưa tương xứng tiềm năng, chưa xứng đáng với vai trò động lực
của du lịch cả nước, phát triển thiếu sự liên kết vùng và vẫn còn ẩn chứa nhiều yếu tố
thiếu bền vững.
Trong giai đoạn phát triển mới, để phù hợp với định hướng chung của Chiến lược
và Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm
2030 cần thiết quy hoạch phát triển du lịch vùng theo hướng bền vững đáp ứng với
những yêu cầu và nhiệm vụ mới.
Với các nhìn nhận trên, việc xây dựng "Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch
vùng Đồng bằng sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc đến năm 2020, tầm nhìn đến năm

QUY HOẠCH TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÙNG ĐBSH&DHĐB ĐẾN NĂM 2020, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030
VIỆN NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN DU LỊCH – 58,KIM MÃ - HÀ NỘI: TEL.37343131. FAX.8240407
2
2030" là cần thiết.
2. Căn cứ lập quy hoạch
2.1. Căn cứ pháp lý
- Luật Du lịch số 44/2005/QH11 ngày 14/6/2005;
- Luật Di sản văn hoá số 28/2001/QH10 ngày 29/6/2001 và Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Di sản văn hóa số 32/2009/QH12 ngày 18/06/ 2009;
- Luật Bảo vệ Môi trường số 52/2005/QH11ngày 29/11/2005;
-Nghị quyết số 54-NQ/TW ngày 14/9/2005 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế
- xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng sông Hồng và vùng Kinh tế
trọng điểm đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020;
- Nghị định số 92/2006/NĐ-CP ngày 07/9/2006 của Chính phủ về lập, phê duyệt
và quản lý quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội;
- Nghị định số 92/2007/NĐ-CP ngày 01/6/2007 của Chính phủ quy định chi tiết

thi hành một số điều của Luật Du lịch;
- Nghị định số 98/NĐ-CP ngày 21/9/2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Di sản văn hóa và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Di sản văn hóa;
- Nghị định số 04/2008/NĐ-CP ngày 11/1/2008 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định số 92/2006/NĐ-CP ngày 07/9/2006 của Chính phủ về lập,
phê duyệt và quản lý quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội;
- Quyết định số 191/2006/QĐ-TTg ngày17/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ
triển khai thực hiện Chương trình Hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số
54-NQ/TW ngày 14/9/2005 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm
quốc phòng, an ninh vùng ĐBSH và vùng Kinh tế trọng điểm đến năm 2010 và định
hướng đến năm 2020;
- Quyết định số 2473/QĐ-TTg ngày 30/12/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030;
- Quyết định 201/QĐ-TTg ngày 22/1/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
Quy hoạch tổng thể phát triển Du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm
2030;
- Thông tư 01/2007/TT-BKHĐT ngày 07 tháng 2 năm 2007 của Bộ Kế hoạch và
Đầu tư hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 92/2006/NĐ-CP ngày
07/9/2006 của Thủ tướng Chính phủ về lập, phê duyệt và quản lý quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế - xã hội;
- Thông tư 01/2012/TT-BKHĐT ngày 9/2/2012 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về
hướng dẫn xác định mức chi phí cho lập, thẩm định và công bố quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế - xã hội; quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực và sản phẩm chủ yếu;

QUY HOẠCH TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÙNG ĐBSH&DHĐB ĐẾN NĂM 2020, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030
VIỆN NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN DU LỊCH – 58,KIM MÃ - HÀ NỘI: TEL.37343131. FAX.8240407
3
- Quyết định số 1059/QĐ-BVHTTDL ngày 22/3/2012 của Bộ trưởng Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch về việc giao nhiệm vụ lập “Quy hoạch tổng thể phát triển du

lịch vùng Đồng bằng sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc đến năm 2020, tầm nhìn đến
năm 2030”.
- Quyết định số 1696/QĐ-BVHTTDL ngày 07/5/2012 của Bộ trưởng Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch về việc phê duyệt nội dung đề cương “Quy hoạch tổng thể
phát triển du lịch vùng Đồng bằng sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc đến năm 2020,
tầm nhìn đến năm 2030”.
- Các văn bản pháp lý khác có liên quan.
2.2. Các căn cứ khác
- Định hướng phát triển kinh kinh tế-xã hội và quy hoạch xây dựng vùng Đồng
bằng sông Hồng, vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, vùng Thủ đô, vùng Duyên hải Bắc
Bộ đến năm 2020.
- Các báo cáo quy hoạch các ngành kinh tế và sản phẩm chủ yếu có liên quan trên
địa bàn vùng.
- Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch vùng đến năm 2011; nhu cầu và xu
thế phát triển du lịch quốc tế, khu vực và trong nước trong giai đoạn mới.
- Các số liệu thống kê và tài liệu khác.
3. Quan điểm, mục tiêu quy hoạch
3.1. Quan điểm quy hoạch
- Phù hợp với định hướng phát triển kinh tế-xã hội vùng ĐBSH&DHĐB, vùng
kinh tế trọng điểm phía Bắc, vùng Thủ đô và vùng Duyên hải Bắc Bộ đến năm 2020;
- Phù hợp với Chiến lược và Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến
năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030;
- Tăng cường liên kết vùng để phát huy lợi thế vùng, địa phương trong vùng, sử
dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên, đáp ứng nhu cầu du lịch.
3.2. Mục tiêu quy hoạch
- Cụ thể hóa các định hướng của Chiến lược và Quy hoạch tổng thể phát triển du
lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
- Khai thác tính đặc thù về tài nguyên để phát triển sản phẩm du lịch đặc trưng và
thương hiệu du lịch vùng.
- Làm cơ sở cho các địa phương trong vùng lập quy hoạch ngành và các quy

hoạch phát triển du lịch cụ thể khác theo hướng Chiến lược và quy hoạch phát triển
ngành Du lịch cả nước.



QUY HOẠCH TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÙNG ĐBSH&DHĐB ĐẾN NĂM 2020, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030
VIỆN NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN DU LỊCH – 58,KIM MÃ - HÀ NỘI: TEL.37343131. FAX.8240407
4
4. Nội dung và nhiệm vụ quy hoạch
1. Xác định vị trí, vai trò và lợi thế của ngành Du lịch vùng.
2. Phân tích, đánh giá các yếu tố nguồn lực và hiện trạng phát triển du lịch vùng.
3. Xác định quan điểm, mục tiêu; dự báo chỉ tiêu và luận chứng các phương án
phát triển du lịch vùng.
4. Tổ chức không gian, kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch vùng.
5. Xác định danh mục các khu vực, các dự án đầu tư, vốn đầu tư, nguồn nhân lực;
thị trường và sản phẩm du lịch vùng.
6. Đánh giá tác động môi trường, các giải pháp bảo vệ tài nguyên và môi trường.
7. Đề xuất giải pháp thực hiện quy hoạch.
5. Phƣơng pháp lập quy hoạch
5.1. Phương pháp thu thập tài liệu: Được sử dụng để lựa chọn những tài liệu, số
liệu, những thông tin có liên quan đến nội dung và đối tượng nghiên cứu trong quy
hoạch. Phương pháp này là tiền đề giúp cho việc phân tích, đánh giá tổng hợp các nội
dung và đối tượng nghiên cứu một cách khách quan và chính xác.
5.2. Phương pháp phân tích tổng hợp: Phân tích, đánh giá toàn diện các nội
dung, các đối tượng nghiên cứu trong quy hoạch như: thực trạng tiềm năng tài nguyên
du lịch; thực trạng công tác tổ chức quản lý và khai thác tài nguyên du lịch; thực trạng
phát triển của hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển du lịch; thực trạng biến động
của môi trường du lịch; thực trạng phát triển của các chỉ tiêu kinh tế du lịch
5.3. Phương pháp điều tra, khảo sát thực địa: Điều tra, kiểm tra chứng các tư
liệu và số liệu trên thực tế. Thông qua phương pháp này cho phép xác định cụ thể hơn

vị trí, ranh giới, quy mô cũng như tầm quan trọng của các đối tượng nghiên cứu; đồng
thời còn cho phép xác định khả năng tiếp cận đối tượng (xác định được khả năng tiếp
cận bằng các loại phương tiện gì từ thị trường khách du lịch đến các điểm tài nguyên).
5.4. Phương pháp chuyên gia: Tham vấn ý kiến các chuyên gia trong và ngoài
nước để hoàn thiện các kết quả phân tích đánh giá, các dự báo phát triển phù hợp với
thực tế và xu hướng phát triển chung.
5.5. Phương pháp bản đồ: Được sử dụng để thể hiện các số liệu, tư liệu về tiềm
năng, hiện trạng và định hướng phát triển du lịch trên toàn bộ lãnh thổ vùng
ĐBSH&DHĐB cũng như vị trí vai trò du lịch vùng trong mối liên hệ phát triển du lịch
quốc gia và khu vực.

QUY HOẠCH TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÙNG ĐBSH&DHĐB ĐẾN NĂM 2020, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030
VIỆN NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN DU LỊCH – 58,KIM MÃ - HÀ NỘI: TEL.37343131. FAX.8240407
5
PHẦN THỨ NHẤT
ĐÁNH GIÁ CÁC YẾU TỐ NGUỒN LỰC VÀ HIỆN TRẠNG PHÁT
TRIỂN DU LỊCH VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG VÀ DUYÊN HẢI
ĐÔNG BẮC (2000-2011)

I. CÁC YẾU TỐ NGUỒN LỰC PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÙNG
1. Đặc điểm tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội vùng ĐBSH&DHĐB
1.1. Đặc điểm tự nhiên
1.1.1. Vị trí địa lý, địa hình: Vùng đồng bằng sông Hồng (VĐBSH&DHDB),
trong đó có vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc có tọa độ địa lý từ 20
0
00' đến 21
0
40' vĩ
độ Bắc; từ 105
0

25' đến 108
0
05' kinh độ Đông. Phía Bắc vùng giáp Lạng Sơn, Thái
Nguyên, Tuyên Quang; phía Tây giáp với Phú Thọ, Hoà Bình (thuộc vùng Trung du
miền núi Bắc Bộ); phía Đông và Đông Bắc giáp với Trung Quốc và biển Đông; phía
Nam giáp với Thanh Hoá (thuộc vùng Bắc Trung Bộ). Tổng diện tích tự nhiên toàn
vùng xấp xỉ 21.063,1 km
2
(nguồn: Niên giám Thống kê 2010).
Có thể nhận thấy, vùng ĐBSH&DHĐB là một khu vực trải dài từ Tây sang Đông
với các miền địa hình khác nhau như rừng núi, trung du, đồng bằng, biển và hải
đảo…Do đó vùng ĐBSH&DHĐB cũng là một khu vực chứa đựng nguồn tài nguyên
du lịch đa dạng, phong phú là yếu tố thuận lợi phát triển du lịch.
1.1.2. Khí hậu: Vùng ĐBSH&DHĐB có đặc điểm khí hậu và thời tiết đa dạng,
độc đáo và có nhiều biến động nhất ở nước ta với đầy đủ các tính chất của khí hậu
vùng. Vùng chịu ảnh hưởng sâu sắc của chế độ gió mùa tạo nên một mùa hè nóng ẩm,
mưa nhiều với hướng gió chủ yếu là gió Đông Nam và đặc biệt là có mùa đông lạnh, ít
mưa với hướng gió chính là hướng Bắc và Đông Bắc. Đặc điểm này đã chi phối mạnh
mẽ đến tính chất thời vụ của hoạt động du lịch. Thêm vào đó, khí hậu, thời tiết của
vùng có nhiều biến động với những diễn biến phức tạp.
Mặc dù nằm trong cùng một vùng lãnh thổ nhưng do sự phân hoá của đặc điểm
địa hình, khí hậu của vùng ĐBSH&DHĐB thuận lợi hơn cho hoạt động du lịch so với
các khu vực khác. Khí hậu của vùng ĐBSH&DHĐB so với các nơi khác ấm áp hơn
với nhiệt độ trung bình hàng năm từ 23
0
C - 24
0
C, lượng mưa trung bình từ 1.600 -
1.900 mm và mùa mưa thường từ tháng 5 đến tháng 10. Các tháng cuối năm và đầu
năm thời tiết đẹp, trời ấm áp, khô ráo, dễ chịu rất thích hợp với các hoạt động lễ hội,

vãn cảnh, thăm quan du lịch. Ngay trong vùng cũng có những sự khác biệt về khí hậu
giữa vùng đồng bằng và vùng duyên hải. So với vùng đồng bằng, vùng duyên hải có
lượng mưa lớn hơn và thường có nhiều cơn giông nên mưa nặng hạt hơn. Nhiệt độ ở
vùng duyên hải thường có biên độ dao động cao hơn đồng bằng khoảng 1 - 2
o
C.
Vùng ĐBSH&DHĐB là một trong những lãnh thổ chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất
của gió mùa Đông Bắc ở nước ta, trung bình mỗi năm có 20 - 25 đợt gió mùa Đông
Bắc. Đây cũng là khu vực chịu nhiều ảnh hưởng của bão, tập trung từ tháng 6 - 9, đặc

QUY HOẠCH TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÙNG ĐBSH&DHĐB ĐẾN NĂM 2020, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030
VIỆN NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN DU LỊCH – 58,KIM MÃ - HÀ NỘI: TEL.37343131. FAX.8240407
6
biệt là ở vùng ven biển Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình. Những ngày gió mùa Đông
Bắc hoặc bão thời tiết chuyển xấu, có ảnh hưởng không tốt đến hoạt động du lịch.
Đặc điểm khí hậu, thời tiết của khu vực có tính hai mặt đối với các hoạt động du
lịch. Một mặt khí hậu, thời tiết đã tô điểm thêm cảnh sắc thiên nhiên đa dạng và phong
phú của vùng. Bên cạnh đó, đặc điểm khí hậu vùng làm cho tính thời vụ về du lịch rất
rõ nét, đặc biệt là với loại hình du lịch biển. Ngoài ra vùng cũng chịu ảnh hưởng sâu
sắc của biến đổi khí hậu, đặc biệt là khu vực ven biển.
1.1.3. Thủy văn: Vùng ĐBSH&DHĐB có mạng lưới sông ngòi khá dày đặc, các
sông lớn chảy qua vùng có diện tích lưu vực trên 1.000 km
2
như sông Hồng, sông Đà,
sông Lô, sông Cầu, sông Thương, sông Lục Nam. Các sông này có khả năng rất lớn về
cung cấp nước, làm thủy lợi, giao thông và cung cấp thủy sản đồng thời cũng là tiềm
năng du lịch.
Đáng kể nhất trong các sông trên là sông Hồng với chiều dài hơn 200 km chảy
qua địa phận của vùng. Lượng nước và phù sa của sông lớn nhất miền Bắc. Tổng
lượng nước trung bình lên tới 114.000 m

3
và tổng lượng phù sa trung bình là 100 triệu
tấn/năm. Về tới khu vực vùng ĐBSH&DHĐB, sông phân thành nhiều nhánh nên mới
kịp thoát nước khi mùa lũ ập đến.
So với sông Hồng sông Thái Bình nhỏ hơn nhiều. Sông Thái Bình do sông Cầu,
sông Thương và sụng Lục Nam hợp lại. Nước sông trong và ít phù sa. Sông Hồng và
sông Thái Bình đều chịu ảnh hưởng của nhịp điệu gió mùa nên thủy chế thất thường,
mùa mưa nước quá nhiều trong khi mùa khô rất ít nước.
Nhìn chung toàn vùng ĐBSH&DHĐB, do rừng đầu nguồn bị khai thác bừa bãi
nên gây ra tình trạng lũ, lụt triền miên vào mùa mưa và hạn hạn nặng nề vào mùa khô
ảnh hưởng đến đời sống người dân.
Hoàn lưu gió mùa mùa hạ nóng ẩm tạo ra mùa mưa, chiếm 80 - 85% lượng mưa
của cả năm. Trùng hợp với mùa mưa là mùa lũ, mực nước các sông dâng cao. Ở vùng
ĐBSH&DHĐB mùa lũ thường kéo dài từ tháng 6 đến tháng 10. Tuy mùa lũ ngắn hơn
mùa cạn, nhưng lượng dòng chảy mùa lũ chiếm 60 - 90% cả năm. Nhìn chung thời
điểm bắt đầu và kết thúc mùa lũ cũng biến động mạnh, phụ thuộc vào chế độ gió mùa
hàng năm. Đây là những yếu tố thời tiết bất lợi cho họat động du lịch.
Vùng ĐBSH&DHĐB còn có một diện tích khá lớn các hồ chứa nước tự nhiên và
nhân tạo. Đáng chú ý là các hồ chứa nước lớn có nhiều phong cảnh đẹp, khí hậu tốt có
thể khai thác phục vụ du lịch như các hồ chứa nước nhân tạo Suối Hai, Đồng Mô,
Quan Sơn (Hà Nội), Đại Lải (Vĩnh Phúc), Tam Chúc (Hà Nam), Yên Lập (Quảng
Ninh) và hồ tự nhiên như Hồ Tây (Hà Nội)
Tài nguyên nước ngầm trên địa bàn vùng cũng khá phong phú. Trong tài nguyên
nước ngầm, các mỏ nước khoáng có tác dụng sinh lý tốt đối với cơ thể con người do
có chứa những thành phần đặc biệt có hàm lượng cao và nhiệt độ thích hợp là tài
nguyên du lịch chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ, sắc đẹp.v.v… Một số mỏ nước khoáng

QUY HOẠCH TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÙNG ĐBSH&DHĐB ĐẾN NĂM 2020, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030
VIỆN NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN DU LỊCH – 58,KIM MÃ - HÀ NỘI: TEL.37343131. FAX.8240407
7

đã được phát hiện và đưa vào sử dụng như mỏ nước khoáng Kênh Gà (Ninh Bình),
Quang Hanh (Quảng Ninh), Tiền Hải (Thái Bình)…
1.1.4. Sinh vật: Do nằm trong khu vực có nhiều dạng địa hình, các Vườn quốc
gia, khu dự trữ sinh quyển, khu bảo tồn thiên nhiên, khu Ramsar nên vùng có các hệ
sinh thái đa dạng, phong phú. Trong đó phải kể đến hệ sinh thái rừng ngập mặn, hệ
sinh thái rừng trên núi đá vôi, hệ sinh thái rừng biển với các rạn san hô (Cát Bà), hệ
sinh thái rừng lùn trên đỉnh núi và các dông núi hẹp, hệ sinh thái rừng kín thường xanh
nhiệt đới ẩm, gió mùa vùng núi cao trung bình trên sườn dốc thoát nước và vùng đỉnh
núi, hệ sinh thái rừng kín thường xanh nhiệt đới ẩm gió mùa vùng núi cao trung bình
trên đất ngập nước vùng đỉnh núi, hệ sinh thái rừng kín thường xanh hỗn giao tre trúc -
cây lá rộng, hệ sinh thái rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới (Tam Đảo)…
Hệ động, thực vật phong phú với các loài động vật sống trong rừng, các loài
động vật sống ở đáy biển, cá biển, các loài thực vật trên cạn, thực vật ngập mặn, rong
biển, san hô, các loài cây dược liệu, các cây gỗ quý Đặc biệt, tại đây còn có nhiều
loài đặc hữu quý hiếm được đưa vào Sách đỏ Việt Nam như voọc đầu trắng, voọc quần
đùi trắng (Cát Bà,Cúc Phương), cầy vằn, báo hoa mai (Cúc Phương), quạ khoang, sóc
đen (Cát Bà), gà lôi trắng, khỉ, báo, gấu, sóc bay (Ba Vì), cu li, khỉ mặt đỏ, khỉ vàng,
khỉ mốc, khỉ đuôi lợn, voọc má trắng, sóc bay lông chân, dơi tay sọ cao v.v…(Tam
Đảo), Tê tê vàng, khỉ vàng, rái cá lông mượt, cá heo trắng Trung Hoa, cá Ông Chuông,
tu hài, trai ngọc, bào ngư, sá sùng và đặc biệt là 2 loài rùa biển vích và đồi mồi.…( Bái
Tử Long); thực vật có thổ phục linh, lát hoa, kim giao, sến mật, rừng kim giao (Cát
Bà), bách xanh, thông, dẻ, lát hoa (Ba Vì). Nhiều loài gần như tuyệt chủng trong sách
đỏ quốc tế có rẽ mỏ thìa, bồ nông, cò thìa, choi choi mỏ thìa, mòng biển, diệc đầu đỏ
(Xuân Thủy). Nhiều loài cây gỗ lớn như chò xanh, chò chỉ hay đăng, loài thực vật có
mạch đặc hữu, loài đặc hữu đối với vùng núi đá vôi (Cúc Phương)… Một số cây đặc
hữu được đặt tên gắn với Vườn quốc gia như Lan hài và Hoàng thảo Tam Đảo.
1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
1.2.1.Các đặc điểm dân cư, dân tộc: Dân số Vùng đồng bằng sông Hồng và
Duyên hải Đông Bắc hiện có hơn 19.770 người, chiếm 23% dân số cả nước.
Đây là vùng dân cư đông đúc nhất cả nước (939 người/km

2
). Mặc dù tỷ lệ gia
tăng tự nhiên của dân số trong vùng giảm mạnh nhưng mật độ dân số vẫn cao, gấp 3,5
lần mật độ trung bình cả nước. Đây là một thuận lợi về nguồn lực lao động. Tuy nhiên,
dân số đông cũng đem đến những khó khăn nhất định gây sức ép lên sự phát triển kinh
tế - xã hội của vùng.
Những nơi đông dân cư nhất vùng là Hà Nội (1.962 người/km
2
), Bắc Ninh (1.257
người/km
2
), Hải Phòng (1.221 người/km
2
), Hưng Yên (1.226 người/km
2
), Thái Bình
(1.140 người/km
2
), Nam Định (1.107 người/km
2
). Ở những nơi khác, chủ yếu thuộc rìa
phía Bắc và Đông Bắc nên mật độ dân cư thưa hơn.
Đa số dân số là người Kinh, một bộ phận nhỏ là các dân tộc thiểu số như dân tộc
Mường (Ba Vì-Hà Nội, Nho Quan-Ninh Bình, Quảng Ninh), các dân tộc Dao, Tày,

QUY HOẠCH TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÙNG ĐBSH&DHĐB ĐẾN NĂM 2020, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030
VIỆN NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN DU LỊCH – 58,KIM MÃ - HÀ NỘI: TEL.37343131. FAX.8240407
8
Sán Dìu, Hoa (Vĩnh Phúc, Quảng Ninh), dân tộc Cao Lan, Ngái (Vĩnh Phúc), dân tộc
Sán Chỉ, Nùng (Quảng Ninh). Yếu tố dân tộc không phải là tiềm năng du lịch nội bật

của vùng, nhưng bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số ở Quảng Ninh, Vĩnh Phúc
và ngay cả ở Thủ đô Hà Nội cũng là những chủ đề có thể khai thác phát triển du lịch.
Sự phân bố dân cư quá đông ở khu vực liên quan tới nhiều yếu tố như nền nông
nghiệp thâm canh cao với nghề trồng lúa nước là chủ yếu đòi hỏi phải có nhiều lao
động. Trong vùng còn có nhiều trung tâm công nghiệp quan trọng và một mạng lưới
các đô thị khá dày đặc. Ngoài ra, khu vực đã được khai thác từ lâu đời và có các điều
kiện tự nhiên khá thuận lợi cho hoạt động sản xuất và cư trú của con người. Tại đây,
tốc độ tăng dân số chưa phù hợp với nhịp độ kinh tế - xã hội. Điều này gây khó khăn
cho phát triển kinh tế - xã hội của khu vực. Hàng loạt các vấn đề xã hội như việc làm,
nhà ở, y tế, văn hóa, giáo dục vẫn còn gây bức xúc. Đời sống của người dân vẫn còn
nhiều khó khăn do kinh tế dịch chuyển chậm, dân số quá đông.
Vùng ĐBSH&DHĐB có kết cấu hạ tầng nông thôn hoàn thiện nhất cả nước. Với
chiều dài tổng cộng hơn 3.000 km, hệ thống đê điều được xây dựng và bảo vệ từ đời
này qua đời khác không chỉ là bộ phận quan trọng trong kết cấu hạ tầng mà còn là nét
độc đáo của nền văn hóa sông Hồng, văn hóa Việt Nam. Cơ sở vật chất của vùng cũng
ngày càng hoàn thiện, đặc biệt là mạng lưới đường giao thông. Vùng cũng nhận được
sự quan tâm đầu tư của nhà nước và nước ngoài.
1.2.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội: Đây là một khu vực có tốc độ phát triền kinh tế
nhanh, đứng thứ hai sau vùng Đông Nam Bộ. Theo kế hoạch phát triển, đến năm 2020,
vùng sẽ phải giữ được tốc độ tăng trưởng liên tục trên 10% và đóng góp khoảng 24%
cho GDP của cả nước. Mục tiêu đến trước năm 2020, tỷ lệ này sẽ là 27%.
Cơ cấu kinh tế của vùng đang có sự chuyển dịch tích cực theo hướng tăng dịch
vụ trên cơ sở đảm bảo tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững, gắn liền với việc giải
quyết các vấn đề xã hội.
* Công nghiệp: Công nghiệp được hình thành sớm nhất và phát triển mạnh trong
thời kỳ đất nước thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Giá trị công nghiệp chiếm tỷ
trọng lớn trong GDP công nghiệp cả nước. Phần lớn giá trị công nghiệp tập trung ở các
thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh.
* Thủ công nghiệp: Hàng thủ công mỹ nghệ sử dụng hầu hết nguyên liệu trong
nước gồm các mặt hàng truyền thống như mây, tre, đan, sơn mài, gốm sứ, thêu, chạm

khắc, các sản phẩm từ cói….thỏa mãn nhu cầu của du khách và xuất khẩu.
* Nông nghiệp: Về diện tích và tổng sản lượng lương thực, vùng chỉ đứng sau
đồng bằng sông Cửu Long, nhưng là vùng có trình độ thâm canh cao nên năng suất lúa
rất cao. Sự phát triển kinh tế cùng với hàng loạt các chính sách mới cũng góp phần
quan trọng cho việc giải quyết lương thực, thực phẩm của vùng.
Trong cơ cấu ngành nông nghiệp, ngành trồng cây lương thực luôn giữ vị trí
hàng đầu. Sản lượng lương thực chiếm xấp xỉ 20% cả nước. Trong các cây lương thực,
lúa có ý nghĩa quan trọng nhất cả về diện tích và sản lượng. Hàng năm, khu vực có

QUY HOẠCH TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÙNG ĐBSH&DHĐB ĐẾN NĂM 2020, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030
VIỆN NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN DU LỊCH – 58,KIM MÃ - HÀ NỘI: TEL.37343131. FAX.8240407
9
hơn 1 triệu ha đất gieo trồng lúa. Năm 2011, năng suất lúa của vùng tăng 4,1% so với
năm trước. Cây lúa có mặt ở hầu hết mọi nơi, tập trung nhất và đạt năng suất cao nhất
ở các tỉnh Thái Bình, Nam Định, Hải Dương, Hưng Yên, Ninh Bình, trong đó Thái
Bình là tỉnh dẫn đầu cả nước về năng suất lúa. Ngành trồng cây lương thực đặc biệt là
trồng lúa ở đây đã có từ lâu đời và được thâm canh với trình độ cao nhất cả nước. Tuy
vậy, việc đảm bảo lương thực cho con người và các nhu cầu khác (phục vụ chăn nuôi,
công nghiệp chế biến v.v…) còn bị hạn chế.
Ngoài sản xuất lương thực vùng còn trồng các loại cây nông sản khác, nuôi trồng
thủy sản… phục vụ đời sống và có ý nghĩa đối với hoạt động du lịch.
Trong những năm qua, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch là giảm tỉ trọng trồng
trọt, tăng tỉ trọng chăn nuôi và thủy sản, riêng trồng trọt thì giảm tỉ trọng lương thực,
tăng tỉ trọng cây công nghiệp và cây thực phẩm.
* Các trung tâm kinh tế và vùng kinh tế trọng điểm: Vùng có hai trung tâm kinh
tế lớn là Hà Nội và Hải Phòng. Các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Hạ Long
(Quảng Ninh) tạo thành tam giác kinh tế phát triển mạnh của vùng và có sự lan tỏa,
thu hút lớn đối với các vùng, tỉnh lân cận. Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ bao gồm 7
tỉnh Bắc sông Hồng tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, sử dụng hợp lí tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao động của vùng và

khu vực phía Bắc.
Vùng ĐBSH&DHĐB cũng là nơi có đội ngũ trí thức đông đảo và đội ngũ lao
động có trình độ kỹ thuật và tay nghề cao. Đây là những yếu tố đang dần thu hút các
nhà đầu tư trong nước và quốc tế đầu tư mạnh mẽ vào khu vực công nghiệp của vùng,
đặc biệt là các ngành công nghiệp công nghệ cao.
Sự phát triển nền kinh tế thị trường đã dần dần làm thay đổi bộ mặt xã hội vùng
theo hai xu hướng trái ngược nhau:
- Thứ nhất: Kinh tế phát triển, đời sống được cải thiện đã đưa các yếu tố mới hiện
đại vào lối sống của người dân.
- Thứ hai: Xu hướng khôi phục các nét sinh hoạt văn hóa truyền thống, đặc trưng
của văn hóa nông nghiệp và văn hóa làng xã đang được phục hồi.
Như vậy, một mặt xã hội đang phát triển theo xu hướng đô thị hóa, mặt khác sự
trở về với cội nguồn, với những giá trị truyền thống với những nét sinh hoạt văn hóa
xưa như tập tục, tín ngưỡng đang trở nên một xu hướng mạnh mẽ. Đấy chính là những
nét đặc sắc, hấp dẫn là nguồn tài nguyên có giá trị để phát triển du lịch.
2. Tài nguyên du lịch vùng ĐBSH&DHĐB
2.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên
2.1.1. Tài nguyên du lịch biển: Vùng ĐBSH&DHĐB có đường bờ biển tương đối
dài với nhiều bãi biển đẹp có thể khai thác cho hoạt động du lịch như bãi biển Trà Cổ,
Quan Lạn, Ngọc Vừng, Bãi Cháy (Quảng Ninh), Cát Cò 1,2,3, Đồ Sơn (Hải Phòng),

QUY HOẠCH TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÙNG ĐBSH&DHĐB ĐẾN NĂM 2020, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030
VIỆN NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN DU LỊCH – 58,KIM MÃ - HÀ NỘI: TEL.37343131. FAX.8240407
10
Đồng Châu (Thái Bình), Thịnh Long, Giao Lâm (Nam Định) Tuy nhiên các bãi biển
có giá trị tắm biển nằm ở khu vực phía Bắc và các đảo như Trà Cổ, Quan Lạn. Vịnh
Hạ Long có giá trị cảnh quan đặc biệt, nhưng giá trị tắm biển không cao. Các bãi biển
như Đồ Sơn, Quất Lâm, Thịnh Long…nước đục nên cũng ít có giá trị đối với du lịch
tắm biển.
Hệ thống đảo ven bờ là những tài nguyên du lịch giá trị. Các đảo Cô Tô, Ngọc

Vừng, Quan Lạn (Quảng Ninh), Cát Bà, Bạch Long Vĩ (Hải Phòng) có những bãi
tắm đẹp, môi trường trong lành là tài nguyên du lịch tắm biển, thể thao và khám phá.
Các đặc sản từ biển gồm những loại thực phẩm cao cấp như bào ngư, tôm hùm,
mực.v.v…ở khu vực này rất sẵn và rẻ. Bên cạnh đó, các sản phẩm khác từ biển như
hàng hàng mỹ nghệ, đồ lưu niệm cũng rất có giá trị đối với du lịch.
2.1.2. Tài nguyên du lịch hang động: Trong số rất nhiều hang động đã được phát
hiện ở vùng ĐBSH&DHĐB có rất nhiều hang đẹp, rộng có khả năng khai thác phục vụ
mục đích du lịch tham quan, nghiên cứu như Tràng an - Tam Cốc - Bích Động, Địch
Lộng (Ninh Bình), Hương Tích (Hà Nội); Bồ Nâu, Sửng Sốt (Quảng Ninh).v.v…
3.1.3. Tài nguyên du lịch thuộc sông, hồ, suối nước nóng, nước khoáng: Sông,
hồ, suối nước nóng, nước khoáng là những tài nguyên du lịch rất phong phú ở vùng
ĐBSH&DHĐB. Những tài nguyên này được khai thác phục vụ mục đích tham quan,
nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí, thể dục thể thao và chữa bệnh. Điển hình có hồ Đại Lải,
Đầm Vạc (Vĩnh Phúc); Đồng Mô, hồ Tây, Quan Sơn, Suối Hai (Hà Nội); Tam Chúc
(Hà Nam) v.v…; các suối nước nóng Kênh Gà (Ninh Bình), Quang Hanh (Quảng
Ninh), Tiền Hải (Thái Bình) và các sông thuộc hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình.
2.1.4. Tài nguyên du lịch thuộc các khu rừng đặc dụng: Vùng ĐBSH&DHĐB có
32 khu bảo tồn chiếm xấp xỉ 29%, trong đó có 6 vườn quốc gia; 14 khu dự trữ động
thực vật và 12 khu rừng văn hóa - môi trường. Đặc biệt trên lãnh thổ có một số khu
bảo tồn đất ngập nước có giá trị du lịch cao như Xuân Thủy (Nam Định) và Vân Long
(Ninh Bình) trong đó Xuân Thủy là 1 trong 4 khu Ramsar của cả nước, 2 khu dữ trữ
sinh quyển là đảo Cát Bà (Hải Phòng) và vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng (gồm
vùng ven biển cửa sông Đáy thuộc huyện Kim Sơn, Ninh Bình và Nghĩa Hưng, Nam
Định; vùng ven biển cửa cửa Ba Lạt thuộc huyện Giao Thủy, Nam Định và Tiền Hải,
Thái Bình và vùng ven biển cửa cửa Thái Bình thuộc huyện Thái Thụy, Thái Bình).
Các vườn quốc gia Bái Tử Long (Quảng Ninh); Cát Bà (Hải Phòng); Cúc
Phương (Ninh Bình); Tam Đảo (Vĩnh Phúc); Ba Vì (Hà Nội) và Xuân Thủy (Nam
Định) còn bảo tồn được nhiều diện tích rừng nguyên sinh với nhiều loại thực, động vật
nhiệt đới điển hình. Đây là nơi lưu giữ tốt nhất nguồn gen động thực vật, bảo tồn sinh
thái và đa dạng sinh học vì thế có ý nghĩa rất lớn về khoa học, về kinh tế, giáo dục và

du lịch. Các khu dự trữ động, thực vật và đặc biệt là các khu rừng văn hóa - lịch sử
môi trường như Côn Sơn, Hương Tích, Chùa Thầy.v.v. đều nằm trong các khu vực
được quy hoạch để phục vụ mục đích du lịch cần sớm có sự kết hợp để đạt hiệu quả
cao trong việc bảo vệ, khai thác sử dụng.

QUY HOẠCH TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÙNG ĐBSH&DHĐB ĐẾN NĂM 2020, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030
VIỆN NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN DU LỊCH – 58,KIM MÃ - HÀ NỘI: TEL.37343131. FAX.8240407
11
2.1.5. Một số khu vực có cảnh quan du lịch đặc biệt: Thiên nhiên trên địa bàn
vùng ĐBSH&DHĐB đã tạo nên nhiều khu vực khá tập trung các tài nguyên có giá trị du
lịch cao, tiêu biểu là các khu vực sau:
- Khu vực Hạ Long - Cát Bà - Bái Tử Long: Đây là khu vực có giá trị cảnh quan
du lịch đặc biệt trong đó nổi bật là vịnh Hạ Long đã được UNESCO công nhận là di
sản thiên nhiên thế giới với gần 3.000 hòn đảo và 2 vườn quốc gia là Bái Tử Long và
Cát Bà. Không gian này còn có nhiều giá trị về du lịch hang động, nước khoáng nóng
và các bãi biển đẹp và những giá trị khảo cổ tiêu biểu của nền văn hóa Hạ Long. Bên
cạnh đó, Cát Bà cũng là một trong những khu dự trữ sinh quyển thế giới vì vậy vừa
qua đã thu hút được số lượng lớn khách du lịch đến tham quan, nghỉ dưỡng. Năm
2012, vịnh Hạ Long được bình chọn là một trong bảy kỳ quan thế giới mới càng làm
tăng thêm giá trị về du lịch cho khu vực này
- Khu vực Ba Vì - Tam Đảo: Có các điều kiện tự nhiên của vùng núi cao trung
bình ở ngay rìa đồng bằng Bắc Bộ với nhiều cảnh đẹp, khí hậu tốt, đặc biệt mát mẻ
trong mựa hè, rất thích hợp nghỉ mát, nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí cuối tuần của vùng
Thủ đô Hà Nội và khu vực đồng bằng . Ở đây có nhiều tài nguyên du lịch hấp dẫn như
vườn quốc gia, khu dự trữ động thực vật, thác nước, hồ chứa nước với các thắng cảnh
Tam Đảo, Đại Lải, Ao Vua, Đồng Mô, Ba Vì, Suối Hai….
- Khu vực Tam Cốc - Bích Động - Vân Long - Tràng An: Toàn bộ không gian
này thuộc tỉnh Ninh Bình. Tam Cốc - Bích Động được mệnh danh là “Hạ Long cạn”
với núi, sông, hồ, hang động đặc sắc gắn liền với Hoa Lư, cố đô của hai vương triều
Đinh – Lê, di tích cấp quốc gia đặc biệt. Cúc Phương là vườn quốc gia đầu tiên được

thành lập ở nước ta, nơi còn bảo tồn và gìn giữ được một kho sưu tập đặc sắc về thế
giới thực, động vật điển hình của thiên nhiên nhiệt đới ẩm, khu bảo tồn đất ngập nước
Vân Long, nước khoàng nóng Kênh Gà.v.v…Tuy nhiên, nổi bật là di tích danh thắng
Tràng An - Tam Cốc - Bích Động được công nhận di tích quốc gia đặc biệt, trở thành
tài nguyên du lịch hấp dẫn.
2.2. Tài nguyên du lịch nhân văn
Là nôi của văn minh sông Hồng vì vậy vùng ĐBSH&DHĐB có hệ thống tài
nguyên du lịch nhân văn nổi bật thể hiện qua các Di tích lịch sử - văn hóa, kiến trúc
nghệ thuật, khảo cổ; Lễ hội văn hóa dân gian; Ca múa nhạc; Ẩm thực; Làng nghề thủ
công truyền thống, làng Việt cổ; Các bảo tàng và cơ sở văn hóa nghệ thuật; Yếu tố con
người và bản sắc văn hóa dân tộc đều gắn liền với các giá trị của văn minh sông Hồng.
Đây là cơ sở để phát triển các loại hình và sản phẩm du lịch du lịch đặc trưng mang
thương hiệu vùng và có sức hấp dẫn khách du lịch cao.
2.2.1. Các di tích lịch sử - văn hóa, kiến trúc nghệ thuật, khảo cổ: Vùng
ĐBSH&DHĐB là nôi của nền văn minh sông Hồng nên tập trung nhiều di tích lịch sử
- văn hóa, kiến trúc nghệ thuật, khảo cổ gắn với các giá trị văn minh sông Hồng. Toàn
vùng có 2.232 di tích cấp quốc gia so với cả nước có 3.125 di tích trong đó có 12 di
tích cấp quốc gia đặc biệt với 2 Di sản văn hóa vật thể (Di sản văn hóa và các danh

QUY HOẠCH TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÙNG ĐBSH&DHĐB ĐẾN NĂM 2020, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030
VIỆN NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN DU LỊCH – 58,KIM MÃ - HÀ NỘI: TEL.37343131. FAX.8240407
12
hiệu khác được UNESCO vinh danh). Đây là hệ thống tài nguyên đặc biệt giá trị phục
vụ du lịch của vùng.
Hà Nội, Thủ đô nghìn năm văn hiến, trung tâm của vùng với hơn 1.000 di tích
văn hóa-lịch sử cấp quốc gia có nguồn tài nguyên nổi bật. Những di tích nổi tiếng
trong và ngoài nước như Hoàng thành Thăng Long, Văn Miếu Quốc Tử Giám, Cổ
Loa, chùa Trấn Quốc, chùa Một Cột, phủ Tây Hồ, lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, phố cổ
Hà Nội.v.v… kết hợp văn hóa ẩm thức, văn hóa phi vật thể luôn thu hút khách du lịch.
Các di tích lịch sử - văn hóa, kiến trúc nghệ thuật khác của vùng như cố đô Hoa

Lư, nhà thờ đá Phát Diệm (Ninh Bình), đền Đô, chùa Phật Tích, chùa Bút Tháp (Bắc
Ninh), Côn Sơn-Kiếp Bạc (Hải Dương), di tích chiến thắng Bạch Đằng (Quảng Ninh),
đền Trần, tháp Phổ Minh (Nam Định), đền thờ các vua Trần, chùa Keo (Thái
Bình).v.v…thể hiện sâu sắc tư tưởng triết học phương Đông và bàn tay tài hoa của
nhân dân lao động Việt Nam từ ngàn xưa.
Hệ thống di tích trên cùng với các giá trị văn hóa phi vật thể khác, các di tích
danh thắng, ẩm thực.v.v…của vùng là đặc trưng của nền văn minh lúa nước sông
Hồng, văn hóa Việt Nam không nơi nào có được.
2.2.2. Lễ hội văn hóa dân gian: Vùng ĐBSH&DHĐB là miền đất của lễ hội. Các
lễ hội ở vùng gắn liền với nền văn minh lúa nước sông Hồng nên mang tính khái quát
cao, phản ánh sinh động đời sống tâm linh, tư tưởng triết học và bản sắc văn hóa Việt
Nam. "Đồng bằng sông Hồng là quê hương của hội làng, hội vùng, hội của cả nước; là
cái nôi của lễ hội nông nghiệp và lễ hội mang nội dung lịch sử - văn hóa ở tầm quốc
gia". Cho nên dù có những khác biệt nhất định, song các loại hình lễ hội Bắc Bộ ít
nhiều đều mang tính đại diện cho cả nước. Đây chính là một trong những điểm chủ
yếu hấp dẫn du khách đến với vùng ĐBSH&DHĐB. Tuy nhiên, dưới góc độ du lịch
cần thiết phải nghiên cứu chọn lọc, có kế hoạch khôi phục hay phát triển một số hình
thức lễ hội có giá trị phục vụ du lịch.
Trong số các lễ hội có hội Gióng được UNESCO công nhận Di sản văn hóa phi
vật thể là tài nguyên du lịch tầm vóc quốc tế, ngoài ra còn các lễ hội nổi tiếng như
chùa Hương (Hà Nội), Yên Tử (Quảng Ninh), hội Lim (Bắc Ninh).v.v…thu hút khách
du lịch trong và ngoài nước. (Danh mục lễ hội quan trọng của vùng xem phụ lục).
2.2.3. Ca múa nhạc: Đối với phát triển du lịch vùng ĐBSH&DHĐB, ca múa
nhạc dân tộc cũng là một loại tài nguyên du lịch giá trị.
Hầu hết các loại dân tại vùng ĐBSH&DHĐB như ngâm thơ, hát ru, hát vè, trống
quân, hát đám, quan họ đều rất phổ biến. Tuy nhiên, có giá trị hấp dẫn khách du lịch
nhất gồm Ca trù, Quan họ và Chèo.
- Hát ả đào vốn là hát cửa đình, người hát lĩnh thưởng bằng thẻ tre nên cũng gọi
là hát thẻ (tiếng Hán gọi là trự) nên tục cũng gọi lối hát đó là Ca trù. Tiêu biểu là hát
cửa đình Lỗ Khê (Liên Hà, Đông Anh) nơi có đền thờ Ca Công - ông tổ nghề hát.


QUY HOẠCH TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÙNG ĐBSH&DHĐB ĐẾN NĂM 2020, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030
VIỆN NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN DU LỊCH – 58,KIM MÃ - HÀ NỘI: TEL.37343131. FAX.8240407
13
Ca trù sau này phát triển thành lối hát thính phòng, một thú chơi tao nhã của đất
kinh thành. Ngày nay ca trù vẫn được ưa chuộng, đặc biệt là khách nước ngoài. Ca trù
được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp
(2009). Đây là tài nguyên du lịch đặc biệt giá trị.
- Hát Quan họ có thể hát tại nhà trong các dịp cưới hỏi, giỗ, khao; hay sau khi hát
ở hội đình, hội chùa mời nhau về nhà. Hát quan họ được UNESCO công nhận là di
sản phi vật thể đại diện cho nhân loại (2009), trở thành tài nguyên du lịch hấp dẫn.
- Chèo là loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian Việt Nam được xuất phát từ
kinh dô Hoa Lư và phát triển mạnh ở đồng bằng Bắc Bộ. Chèo là loại hình nghệ thuật
giàu tính dân tộc, mang tính quần chúng và được coi là một loại hình sân khấu của hội
hè với đặc điểm sử dụng ngôn ngữ đa thanh, đa nghĩa kết hợp với cách nói ví von giàu
tính tự sự, trữ tình… là đại diện tiêu biểu nhất của sân khấu truyền thống Việt Nam.
- Hát xẩm, một loại hình dân ca đặc trưng của miền Bắc Việt Nam, phổ biến ở
đồng bằng sông Hồng, thường được thể hiện bằng những người khiếm thị đi hát rong.
Hiện nay, tỉnh Ninh Bình, nơi có nghệ nhân hát xẩm nổi tiếng cuối cùng đang đệ trình
UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới cần được bảo vệ khẩn cấp. Đây cũng là
tiềm năng phát triển du lịch gắn với các giá trị văn minh sông Hồng.
Ngoài ra vùng ĐBSH&DHĐB còn rất giàu các làn điệu dân ca khác gắn với dàn
nhạc cụ dân tộc với đàn bầu, đàn nguyệt, đàn chanh, nhị, sáo trúc, trống thường có sức
hấp dẫn rất lớn đối với du khách. Hát dân ca Bắc Bộ đặc biệt phát triển và đã trở thành
một hình thức sinh hoạt cộng đồng, trở thành các ngày hội phổ biến trong năm.
Vùng ĐBSH&DHĐB cũng nổi tiếng về các điệu múa dân gian, múa rối nước,
múa rồng, múa lân, múa cung kiếm. Có nhiều phường múa đã hình thành và nổi danh
từ thời nhà Lý như phường múa rối cổ truyền ở làng Nguyễn, Nguyên Xá, Đông Hưng
(Thái Bình), phường rối Nam Chấn (Nam Hà), Tế Tiêu (Hà Đông)
Nhìn chung ca múa nhạc dân tộc thường gắn với lễ hội truyền thống và các di

tích lịch sử văn hóa. Tất cả đã gắn bó với nhau tạo nên sắc thái văn hóa vùng và văn
hóa Việt Nam.
2.2.4. Ẩm thực: Dân tộc Việt Nam, đặc biệt là vùng ĐBSH&DHĐB rất coi trọng
cách thức ăn uống và đã chăm chút nâng lên đến tầm nghệ thuật. Ngoài các món ăn ở
hàng vương giả cầu kỳ, tinh tế còn có hàng trăm món ăn dân dã hấp dẫn lại rẻ. Có
những món ăn dân gian đã nổi tiếng trong và ngoài nước như chả cá Lã Vọng, bánh
cuốn Thanh Trì, bánh tôm hồ Tây, cốm làng Vòng, bánh cuốn chả Phủ Lý, bánh phu
thê Đình Bảng, cỗ chay Đào Xá, bánh nhã Hải Hậu, bánh cáy làng Nguyễn, canh cá
Quỳnh Côi.v.v…
Đồ uống tuy không phong phú song cũng nhiều loại độc đáo. Rượu dân gian Bắc
Bộ nổi tiếng với rượu làng Vân (Bắc Ninh). Nghệ thuật pha trà, có thể sánh ngang với
nghệ thuật pha trà cầu kỳ của Trung Hoa, Nhật Bản là cảm hứng của nhiều du khách.

QUY HOẠCH TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÙNG ĐBSH&DHĐB ĐẾN NĂM 2020, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030
VIỆN NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN DU LỊCH – 58,KIM MÃ - HÀ NỘI: TEL.37343131. FAX.8240407
14
2.2.5. Làng nghề thủ công truyền thống, làng Việt cổ: Nghề thủ công truyền
thống ở vùng ĐBSH&DHĐB có lịch sử phát triển từ lâu đời. Có thể nói vùng
ĐBSH&DHĐB là nơi xuất phát các nghề thủ công truyền thống trong cả nước, tiêu
biểu là vùng Hà Nội xưa. Ngạn ngữ có câu "khéo tay hay nghề, đất lề kẻ chợ'' là để ca
ngợi tài hoa của người xứ Kinh kỳ. Nhiều phường nghề, làng nghề nổi tiếng từ xưa của
vùng trải qua thăng trầm của thời gian vẫn còn phát triển cho tới ngày nay như đúc
đồng, khảm trai, chạm bạc, sơn mài Các làng nghề tiêu biêu có giá trị khai thác du
lịch như dệt lụa tơ tằm Vạn Phúc, gốm sứ Bát Tràng (Hà Nội), mộc Bích Chu, rèn Lý
Nhân (Vĩnh Phúc), mộc Tiên Sơn, đúc đồng Đại Bái, tranh Đông Hồ (Bắc Ninh), dệt
cói Kim Sơn (Ninh Bình), tương Bần (Hưng Yên), gốm Chu Đậu (Hải Dương), đúc
đồng La Xuyên (Nam Định), chạm bạc Đồng Xâm (Thái Bình) và một số làng chài ở
Hải Phòng, Quảng Ninh Có thể nói các sản phẩm thủ công truyền thống ở vùng
ĐBSH&DHĐB là một loại hình sản phẩm du lịch độc đáo cần được đầu tư nghiên cứu
và phát triển.

Bên cạnh làng nghề truyền thống, các làng Việt cổ là sự thể hiện sinh động bản
sắc văn hóa của nền văn minh lúa nước sông Hồng. Đây là nguồn tài nguyên du lịch
nhân văn độc đáo, hấp dẫn khách du lịch. Điển hình, có thể kể đến làng Đường Lâm,
làng Láng, Đông Ngạc (Hà Nội), Trường Yên (Ninh Bình), Mạn Xuyên (Hưng Yên)…
2.2.6. Các bảo tàng và cơ sở văn hóa nghệ thuật
a) Bảo tàng: Vùng ĐBSH&DHĐB là nơi có những trung tâm kinh tế và văn hóa
lớn, đặc biệt là thủ đô Hà Nội. Có thể nói Hà Nội là nơi tập trung đầy đủ nhất những
tinh hoa văn hóa nghệ thuật của cả nước.
Ở Thủ đô Hà Nội có những bảo tàng thuộc loại lớn nhất nước: Bảo tàng Hồ Chí
Minh, Bảo tàng Lịch sử, Bảo tàng Quân đội, Bảo tàng Phụ nữ, Bảo tàng Mỹ thuật, Bảo
tàng Địa chất, Bảo tàng Dân tộc học, Làng văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt
Nam Khách du lịch đặc biệt là khách nội địa khi đến Hà Nội thường không quên đến
thăm khu lưu niệm về Bác Hồ, một quần thể gồm Lăng, nơi ở và làm việc của Người
và Bảo tàng. Ngoài ý nghĩa là một khu di tích lịch sử có tầm quan trọng bậc nhất, đây
còn là một quần thể kiến trúc nghệ thuật đặc sắc của Thủ đô.
Bảo tàng Dân tộc học là bảo tàng khá hiện đại của cả nước về dân tộc học, nơi
trưng bầy đầy đủ hình ảnh của 54 dân tộc anh em trong cộng đồng các dân tộc Việt
Nam hiện đang rất được du khách khen ngợi.
Bên cạnh đó, Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam mới được khánh
thành và đưa vào sử dụng, là nơi tập trung tái hiện, gìn giữ, phát huy và khai thác các
di sản văn hóa truyền thống của các dân tộc Việt Nam. Đây là nơi được Nhà nước đặc
biệt đầu tư cơ sở hạ tầng, khu các làng dân tộc Việt Nam, tái hiện cuộc sống của các
dân tộc với mục tiêu xây dựng một trung tâm du lịch, dịch vụ, nghỉ ngơi, vui chơi giải
trí có quy mô lớn, đồng bộ tạo môi trường đầu tư hấp dẫn, khai thác các lợi thế sẵn có
về tài nguyên văn hóa, thiên nhiên tạo động lực cho sự phát triển bền vững, phục vụ
nhu cầu tham quan, nghiên cứu của nhân dân trong nước và du khách quốc tế.

QUY HOẠCH TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÙNG ĐBSH&DHĐB ĐẾN NĂM 2020, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030
VIỆN NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN DU LỊCH – 58,KIM MÃ - HÀ NỘI: TEL.37343131. FAX.8240407
15

Ngoài ra ở mỗi tỉnh, thành phố lớn đều có hệ thống các nhà bảo tàng và nhà
trưng bày về lịch sử địa phương.
b) Các cơ sở văn hóa nghệ thuật: Thủ đô Hà Nội vốn là nơi có truyền thống
trong các hoạt động văn hóa nghệ thuật. Ngày nay, cùng với sự phát triển kinh tế,
những hoạt động văn hóa nghệ thuật đang được chú ý phát triển. Nhiều cơ sở văn hóa
được phục hồi, nâng cấp hoặc xây mới như nhà hát Thành phố Hà Nội cổ kính đã 100
năm tuổi, nhà hát Tuồng, Chèo Trung ương, Nhà hát Tuổi trẻ, Nhà hát Múa rối nước.
Hầu như địa phương nào cũng có các đoàn nghệ thuật riêng. Những hoạt động nghệ
thuật, đặc biệt là nghệ thuật dân tộc đã thực sự có sức hấp dẫn và thu hút du khách.
Tuy nhiên, các hoạt động văn hóa nghệ thuật vẫn chưa được quan tâm đúng mức,
nhất là ở các vùng xa trung tâm. Nhiều loại hình văn hóa nghệ thuật dân tộc đang có
nguy cơ tàn lụi, nhiều cơ sở văn hóa bị xuống cấp. Ngành văn hóa và du lịch các địa
phương cần phải có kế hoạch phối hợp đầu tư để khôi phục và phát triển các loại hình
nghệ thuật dân tộc nhằm mục đích chấn hưng văn hóa và phát triển du lịch.
2.2.7. Yếu tố con người và bản sắc văn hóa dân tộc: Con người Việt Nam nói
chung và vùng ĐBSH&DHĐB nói riêng vốn mang đậm nét những cư dân nông nghiệp
thuần phác, chân thật và hiếu khách. Trong quá trình lịch sử lâu dài, trước một thiên
nhiên hào phóng nhưng cũng khắc nghiệt con người đã phải cố kết lại với nhau để bám
trụ và tồn tại. Do vậy khó có nơi nào có thể thấy rõ hơn tính cộng đồng vững chắc như
ở người Việt. Đặc trưng nổi bật của tính cộng đồng là văn hóa làng xã thể hiện ở sự
thống nhất của chế độ ruộng công, hương ước, ở những nét riêng biệt trong văn hóa
dân gian, trong tập tục và luật lệ, trong tình làng nghĩa xóm và nhất là ở quần thể thống
nhất đình chùa miếu mạo.
Phạm trù văn hóa làng của người Việt là một không gian văn hóa chỉnh thể, chặt
chẽ, là một thể thống nhất của những phạm trù đối lập vừa đúng vừa mở, vừa bảo thủ
vừa phát triển. Do vậy một mặt có thể thấy sự cấu kết chặt chẽ, sự đúng kén của mỗi
xã thôn với bao luật lệ riêng biệt, với những nét rất riêng trong sinh hoạt văn hóa, mặt
khác cũng dễ nhận thấy những yếu tố hòa nhập và những nét rất chung của các làng xã
Việt, với cây đa giếng nước, với dáng cong của mái đình và những ngôi chùa cổ kính.
Những làn điệu dân ca dù có khác nhau, song đều gắn bó với cánh cò dòng sông với

bờ tre, rặng trúc. Và cho dù mỗi làng có những lệ riêng của mình, nhưng cũng không
vượt ra khỏi những quan niệm chung nhất về ý thức hệ. Các tư tưởng chung được thể
hiện trong một loạt quan niệm cơ bản như: uống nước nhớ nguồn; đất lề quê thói; tôn
sư trọng đạo; tiên học lễ, hậu học văn; đói cho sạch, rách cho thơm Chính tất cả điều
đó đã tạo nên bản sắc văn hóa đặc trưng của người Việt, là điểm hấp dẫn du khách.
Ngày nay, trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường, những quan niệm về giá trị
trong quan hệ kinh tế hàng hóa đã và đang xâm nhập vào các góc độ khác nhau của đời
sống xã hội và có nguy cơ làm mai một đi những nét đẹp truyền thống của nền văn hóa
dân tộc. Thêm vào đó sự mở cửa đã tạo điều kiện để phát triển giao lưu văn hóa, cùng
với nó là sự xâm nhập của những lối sống hiện đại, trong đó không ít những điều xa lạ
và độc hại, gây ảnh hưởng không tốt, nhất là đối với lớp trẻ.

QUY HOẠCH TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÙNG ĐBSH&DHĐB ĐẾN NĂM 2020, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030
VIỆN NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN DU LỊCH – 58,KIM MÃ - HÀ NỘI: TEL.37343131. FAX.8240407
16
2.3. Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch
2.3.1. Hiện trạng khai thác: Sự phát triển du lịch của vùng ĐBSH&DHĐB trong
thời gian qua ngoài các yếu tố về cơ chế chính sách, về sự cải thiện các điều kiện hạ
tầng cơ sở, cơ sở vật chất kỹ thuật và sự lớn mạnh của đội ngũ cán bộ, công nhân lao
động ngành, luôn gắn liền với việc khai thác tiềm năng tài nguyên du lịch hết sức đa
dạng và phong phú của vùng.
Ngoài việc khai thác tài nguyên tại các điểm du lịch truyền thống như Hạ Long,
Đồ Sơn, Ba Vì, Tam Đảo nhiều tiềm năng du lịch của vùng ĐBSH&DHĐB đang
được tiếp tục mở rộng khai thác như vườn quốc gia Cát Bà, cố đô Hoa Lư, Tam Cốc-
Bích Động, cụm di tích thắng cảnh Tràng An, hồ Đồng Mô, Ao Vua, Ba Vì - Suối Hai,
hồ Đại Lải, hồ Tam Chúc.v.v Có thể nói, trong những năm gần đây tiềm năng tài
nguyên du lịch của vùng đang thu hút sự quan tâm không chỉ của các nhà du lịch mà
còn của các nhà hoạch định kinh tế nói chung. Điều này đã thúc đẩy sự phát triển của
vùng ĐBSH&DHĐB, góp phần tích cực vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển
kinh tế - xã hội vùng.

Bên cạnh các hoạt động khai thác tích cực, nhiều tài nguyên du lịch có giá trị của
vùng ĐBSH&DHĐB, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan vẫn chưa được
đầu tư khai thác tương xứng với tiềm năng. Trước hết đó là vịnh Hạ Long, với vị trí là
"di sản thiên nhiên" lớn nhất ở khu vực, nơi có nhiều thắng cảnh đặc sắc, tài nguyên
sinh vật phong phú song các hoạt động du lịch ở khu vực này còn tương đối đơn điệu,
chưa thực sự thu hút được sự quan tâm của các tập đoàn du lịch lớn tới đầu tư. Ngoài
ra, nhiều điểm tài nguyên có giá trị khác của vùng ĐBSH&DHĐB như hệ thống các di
tích lịch sử - văn hóa đời Trần ở Nam Định, di tích Cổ Loa, hệ thống các làng Việt cổ,
các làng nghề, v.v vẫn đang còn ở dạng tiềm năng. Đây là một vấn đề cần được quan
tâm nghiên cứu để sớm làm thức dậy những tiềm năng hết sức to lớn của vùng
ĐBSH&DHĐB, nhanh chóng đưa vào khai thác, gúp phần tích cực vào sự nghiệp phát
triển du lịch của vùng và của các địa phương.
Hiện nay ngành du lịch của cả nước nói chung và vùng ĐBSH&DHĐB nói riêng
đang đứng trước khó khăn hết sức lớn là sự thống nhất giữa hai mặt: khai thác và bảo
tồn phát triển tài nguyên du lịch, đặc biệt trong hoàn cảnh hiện nay khi trình độ dân trí
còn thấp, khi sự phát triển kinh tế - xã hội chưa cao. Điều này được thể hiện rõ nét qua
việc khai thác tài nguyên quá mức, thiếu quy hoạch làm suy kiệt tài nguyên, gây ô
nhiễm môi trường và dẫn đến sự giảm tính hấp dẫn ở một số điểm du lịch như Đồ Sơn,
Tam Đảo. Nhiều di tích lịch sử - văn hóa có giá trị bị xâm phạm, xuống cấp nghiêm
trọng như đền Hai Bà Trưng, Cổ Loa (Hà Nội), đền Đinh, đền Lê (Hoa Lư - Ninh
Bình) Sự khai thác quá tải ở một số điểm du lịch văn hóa cũng ảnh hưởng đến việc
bảo tồn tài nguyên và gây ô nhiễm môi trường sinh thái nghiêm trọng như Chùa
Hương (Hà Nội).
Ngoài ra, việc thiếu quan tâm của các ngành, các cấp khiến nhiều di tích lịch sử -
văn hóa bị xuống cấp, việc tự ý tu sửa làm các di tích văn hóa mất đi giá trị vốn có của
mình như di tích làng cổ Đường Lâm, chùa Trăm gian (Hà Nội).

QUY HOẠCH TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÙNG ĐBSH&DHĐB ĐẾN NĂM 2020, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030
VIỆN NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN DU LỊCH – 58,KIM MÃ - HÀ NỘI: TEL.37343131. FAX.8240407
17

2.3.2. Các mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình khai thác tài nguyên: Trong quá
trình khai thác tài nguyên du lịch hiện nay trên địa bàn vùng đã nảy sinh những vấn đề
phức tạp mâu thuẫn nhau giữa các ngành:
- Mối quan hệ giữa ngành Du lịch và ngành Lâm nghiệp trong việc khai thác các
tài nguyên sinh vật, đặc biệt tại các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên.
- Mối quan hệ giữa ngành Du lịch và ngành Công nghiệp trong khai thác tài
nguyên khoáng sản, vật liệu xây dựng. Việc khai thác đá tại các khu vực núi karst có
hang động (Ninh Bình, Hà Nam, Hạ Long ) hoặc có cảnh quan đẹp (hệ thống đảo ven
bờ Hạ Long) khai thác than tại Hòn Gai, khai thác san hô tại các đảo ven bờ, vịnh Hạ
Long vừa huỷ hoại tài nguyên du lịch, vừa ảnh hưởng đến môi trường sinh thái, làm
giảm đi đáng kể sức hấp dẫn của những khu vực có tiềm năng du lịch lớn, thậm chí rất
lớn như vịnh Hạ Long.
- Mối quan hệ giữa ngành Du lịch và ngành Thủy lợi thể hiện trong việc khai
thác các hồ chứa nước lớn. Phần lớn các hồ nước trên địa bàn vùng đều là hồ thuỷ lợi,
vì vậy có những mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình khai thác du lịch trên mặt hồ.
- Mối quan hệ giữa ngành Du lịch và ngành Văn hóa thể hiện trong khai thác
phát triển du lịch với công tác bảo tồn các giá trị văn hoá, các di tích.
Những vấn đề nảy sinh trong quá trình khai thác tài nguyên du lịch giữa ngành
Du lịch và một số ngành kinh tế khác là tất yếu vì thường trong quy hoạch phát triển
ngành trong phạm vi lãnh thổ tỉnh, khu vực hoặc vùng, lợi ích của ngành sẽ được đặt
lên trên, mặc dù trong một số trường hợp các dự án chưa được nghiên cứu một cách
toàn diện với sự tham gia của các ngành có liên quan. Vấn đề này sẽ chỉ được giải
quyết khi có được một quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội trên quan điểm
khai thác tối ưu tiềm năng tài nguyên, đảm bảo sự phát triển bền vững gắn với cảnh
quan môi trường và bảo vệ những di sản thiên nhiên, lịch sử văn hóa của đất nước.
3. Hệ thống kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch
3.1. Hệ thống giao thông
Vùng ĐBSH&DHĐB có hệ thống giao thông phát triển thuộc diện nhất nước và
hội tụ đầy đủ các loại hình giao thông đường bộ, đường thủy (sông và biển), đường sắt
và đường không, thuận lợi cho việc liên kết phát triển du lịch.

3.1.1. Đường bộ: Vùng ĐBSH&DHĐB có Hà Nội là thủ đô của cả nước, Hải
Phòng là một trong năm Trung tâm quốc gia và nhiều đô thị lớn nên mạng lưới giao
thông đường bộ phát triển gồm các đường quốc lộ và đường tỉnh. Phần lớn hệ thống
đường bộ đã được hình thành và xây dựng từ thời Pháp thuộc. Tuy nhiên, cùng với quá
trình phát triển kinh tế của cả nước, hệ thống giao thông đường bộ được đầu tư nâng
cấp và phát triển không ngừng.
Các tuyến quốc lộ đều chủ yếu được bắt đầu từ thủ đô Hà Nội nối với các trung
tâm hành chính của các tỉnh trong vùng. Ngoài ra, hệ thống đường tỉnh, đường huyện
đi hầu hết các điểm dân cư trên địa bàn tạo nên mật độ giao thông dày đặc.

QUY HOẠCH TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÙNG ĐBSH&DHĐB ĐẾN NĂM 2020, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030
VIỆN NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN DU LỊCH – 58,KIM MÃ - HÀ NỘI: TEL.37343131. FAX.8240407
18
Các tuyến quốc lộ quan trọng thuộc vùng ĐBSH&DHĐB bao gồm:
- Quốc lộ 1A (AH 1): Con đường huyết mạch nối Hà Nội với các tỉnh Bắc Ninh,
về phía Bắc và nối Hà Nội với các tỉnh Hà Nam, Ninh Bình, và các tỉnh miền Trung,
miền Nam. Mặt đường rộng 10 - 12 m, thảm bê tông nhựa, chất lượng khá tốt, hiện
đang được mở rộng, phát triển thành đường cao tốc Bắc – Nam.
- Quốc lộ 2 (AH 14): Nối Hà Nội với tỉnh Vĩnh Phúc và đi các tỉnh phía Bắc là
Phú Thọ, Tuyên Quang, Yên Bái, Lào Cai. Đoạn từ Km0 (Phù Lỗ) đến Km 109 (Đoan
Hùng) thuộc tuyến AH 14 (Hải Phòng - Cửa khẩu Lào Cai/Hà Khẩu - Côn Minh) trong
các Hiệp định đường bộ GMS và ASEAN. Mặt đường rộng 10 - 12 m, thảm bê tông
nhựa, chất lượng khá tốt, hiện đang được mở rộng, nâng cấp.
- Quốc lộ 5A (AH 14): Nối Hà Nội, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng. Đường
cấp 1 đồng bằng, nền đường 26 - 35 m, mặt đường 18 - 23 m (từ km 0 đến km6+600
mặt đường 6 làn xe bằng 30 m) thảm bê tông nhựa. Từ km 6+600 (Phú Thụy - Gia
Lâm - TP Hà Nội) đến cảng Chùa Vẽ - Hải Phòng, mặt đường phổ biến từ 18 đến 23 m
(4 làn xe) có dải phân cách cứng rộng 1,2 - 1,5 m.
- Đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng (còn gọi là Quốc lộ 5B) là một trong 6
tuyến cao tốc được xây dựng theo quy hoạch tại miền Bắc Việt Nam. Đây là dự án

đường ô-tô cao tốc loại A dài 105,5 km từ Thủ đô Hà Nội qua Hưng Yên, Hải
Dương tới thành phố cảng Hải Phòng.
Quốc lộ 2, Quốc lộ 5A (AH 14) là trục xuyên Á thuộc hành lang kinh tế Hải
Phòng-Hà Nội-Lào Cai-Côn Minh, một trong hai hành lang kinh tế quan trọng giữa
Việt Nam và Trung Quốc có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển du lịch vùng. Trên
cơ sở không gian hành lang kinh tế các địa phương trong vùng có thể hợp tác phát
triển du lịch với các địa phương của Trung Quốc thông qua hệ thống giao thông, cửa
khẩu đường bộ, hệ thống sân bay, cảng biển.v.v
- Đường nối thành phố Hạ Long với đường cao tốc 5B Hà Nội - Hải Phòng:
Đường nối Hạ Long với đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng có tổng chiều dài tuyến
hơn 25 km, điểm đầu tại Km 0+000 giao với Km 102+400 Quốc lộ 18 thuộc phường
Đại Yên (Hạ Long) và điểm cuối tại Km 25+214 giao với dự án đường cao tốc Hà Nội
- Hải Phòng, chiều rộng đường 4 làn xe.
- Quốc lộ 6 (AH13): Nối Hà Nội với các tỉnh vùng núi Tây Bắc là Hòa Bình, Sơn
La và Điện Biên.
- Quốc lộ 10: Là tuyến đường chạy dọc theo vùng duyên hải qua 6 tỉnh và thành
phố: Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình và Thanh Hóa, tổng
chiều dài 228 km. Mặt đường rộng 12 m, chất lượng tốt, bảo đảm lưu thông thuận tiện.
- Quốc lộ 18: Nối 2 cực của tam giác tăng trưởng kinh tế phía Bắc là Hà Nội và
Quảng Ninh, đây là một tuyến quan trọng nối sân bay quốc tế Nội Bài và khu công
nghiệp tập trung Nội Bài với khu du lịch nổi tiếng Hạ Long và cảng nước sâu Cái Lân,
cửa khẩu quốc tế đường bộ Móng Cái (Quảng Ninh).

QUY HOẠCH TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÙNG ĐBSH&DHĐB ĐẾN NĂM 2020, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030
VIỆN NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN DU LỊCH – 58,KIM MÃ - HÀ NỘI: TEL.37343131. FAX.8240407
19
- Quốc lộ 21: Nối Nam Định - Hà Nam - Hà Nội (nối với đường Hồ Chí Minh);
Quốc lộ 21B, trục đường nối trung tâm thủ đô (tiếp giáp quốc lộ 6) với khu thắng cảnh
Hương Sơn (Mỹ Đức).
- Quốc lộ 32: Nối Hà Nội với vùng Tây Bắc qua Phú Thọ, từ đó có thể kết nối

các tuyến QL 32B, 32C, QL 37 và QL 4D. Hiện nay đoạn chạy qua Hà nội đang được
đầu tư nâng cấp, thuận lợi cho việc giao lưu từ Hà Nội lên các tỉnh Tây Bắc.
Ngoài ra còn tuyến đường Hồ Chí Minh, chạy qua phía Tây vùng liên hệ trực tiếp
với các tỉnh vùng Trung du miền núi Bắc Bộ, vùng Bắc Trung Bộ; Điểm đầu quốc lộ
4B từ Tiên Yên (Quảng Ninh), quốc lộ 279 từ Yên Hưng (Quảng Ninh) đi các tỉnh
vùng Trung du miền núi Bắc Bộ.
Trong giai đoạn mới, để phát huy được hiệu quả và khai thác tốt các tiềm năng
du lịch của vùng ĐBSH &DHĐB, cần:
+ Mở rộng, nâng cấp tuyến đường quốc lộ huyết mạch nối các trung tâm đô thị
lớn trong và ngoài vùng để tạo ra vành đai liên kết kinh tế trong khu vực, tạo điều kiện
liên kết, nối tour, tuyến tốt hơn nữa trong lãnh thổ vùng.
+ Ưu tiên xây dựng một số trục đường có chất lượng cao đến các điểm tham quan
du lịch, trung tâm giải trí đã được quy hoạch.
+ Cải tạo hệ thống giao thông nội đô, các tuyến vành đai của Thủ độ Hà Nội,
thành phố Hải Phòng và một số thành phố lớn khác…để tạo điều kiện thuận lợi thu hút
các dòng khách du lịch từ các sân bay, bến cảng…
3.1.2. Đường sắt: Vùng ĐBSH&DHĐB hội tụ của nhiều tuyến đường sắt với các
nhánh đi và về qua thủ đô Hà Nội. Hầu hết các tuyến đường sắt được xây dựng từ thời
Pháp thuộc nên hệ thống đường và hạ tầng kỹ thuật đã lạc hậu. Gần đây Chính phủ rất
quan tâm đầu tư nâng cấp hệ thống đường sắt, tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng nhu cầu đi
lại và vận chuyển hàng hóa.
Các tuyến đường sắt kết nối Hà Nội với các địa phương trong vùng
ĐBSH&DHĐB và vùng phụ cận bao gồm:
- Hà Nội - Hải Dương - Hải Phòng nối liền các địa phương trong vùng theo
hướng Đông - Tây.
- Hà Nội - Đồng Đăng qua cửa khẩu Hữu Nghị đi Nam Ninh (Trung Quốc).
- Hà Nội - Thái Nguyên nối với vùng Trung du miền núi Bắc Bộ.
- Hà Nội - Việt Trì - Yên Bái - Lào Cai qua Côn Minh (Trung Quốc).
- Hà Nội - Nam Định - Ninh Bình nối với các tỉnh phía Nam, một phần của tuyến
đường sắt xuyên Á.

Giao thông đường sắt là phương tiện vận chuyển quan trọng, một trong những
điều kiện để liên kết vùng và liên kết quốc tế phát triển du lịch. Đặc biệt là tuyến

QUY HOẠCH TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÙNG ĐBSH&DHĐB ĐẾN NĂM 2020, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030
VIỆN NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN DU LỊCH – 58,KIM MÃ - HÀ NỘI: TEL.37343131. FAX.8240407
20
đường sắt xuyên Á, với định hướng phát triển mới sẽ tạo điều kiện thuận lợi để kết nối
du lịch vùng ĐBSH&DHĐB với các nước trong khối ASEAN và Trung Quốc.
3.1.3. Đường không: Hiện nay ở vùng ĐBSH&DHĐB có các sân bay sau:
- Sân bay quốc tế Nội Bài (Hà Nội) cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 30 km
với khả năng chuyên chở 2 - 3 triệu hành khách và 20.000 tấn hàng hóa/năm.
- Sân bay Gia Lâm cách trung tâm Hà Nội khoảng 4 km, dùng cho máy bay vận
tải và máy bay nhỏ.
- Sân bay Cát Bi (Hải Phòng) hiện đã đi vào hoạt động và tháng 8/2006 đã được
phép tổ chức các chuyến bay quốc tế nối Hải Phòng với Ma Cao (Trung Quốc) đang
tiếp tục được đầu tư nâng cấp đón các chuyến bay quốc tế.
Ngành hàng không nói chung và các sân bay ở vùng ĐBSH&DHĐB nói riêng đã
có những bước tiến bộ và phát triển đáng kể. Các tuyến bay trong nước và quốc tế
được mở rộng, các chuyến bay được tăng cường. Những tiến bộ nói trên đã đáp ứng
kịp thời yêu cầu phát triển du lịch của vùng và tạo ra tiền đề mở rộng khai thác các
nguồn khách du lịch quốc tế đến Việt Nam.v.v
Tuy nhiên, đến nay nhìn chung hạ tầng kỹ thuật hàng không còn lạc hậu so với
các nước trong khu vực và chưa đáp ứng được những nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội
nói chung và du lịch nói riêng trong thời kỳ đổi mới và hội nhập.
Việc mở rộng Cảng hàng không quốc tế Nội Bài, đủ khả năng phục vụ 25 triệu
hành khách mỗi năm vào năm 2020; hoàn thành nâng cấp sân bay Cát Bi theo quy
hoạch, đến năm 2015, Cảng hàng không quốc tế Cát Bi sẽ đón 2 triệu hành khách một
năm và xây dựng mới sân bay Vân Đồn năm 2015 với năng lực vận chuyển khoảng 6
triệu khách/ năm là những cơ hội đối với phát triển du lịch vùng.
3.1.4. Đường thủy: Vùng ĐBSH&DHĐB có hai loại hình giao thông thủy là giao

thông đường sông và giao thông đường biển.
a) Giao thông đường sông: Vùng ĐBSH&DHĐB có nhiều tuyến đường sông
quốc gia được đưa vào danh sách hệ thống đường sông Việt Nam như: Sông
Hồng, sông Đuống, sông Luộc, sông Đáy, sông Hoàng Long, sông Nam Định, sông
Ninh Cơ, sông Vạc, sông Thái Bình, sông Cầu, sông Kinh Thầy, sông Kinh Môn, sông
Kênh Khê, sông Lai Vu, sông Mạo Khê, sông Cầu Xe, sông Gùa, sông Mía, sông
Hoá, sông Trà Lý, sông Cấm, sông Lạch Tray, sông Phi Liệt, sông Văn Úc,
Sông Hồng là con sông lớn nhất vùng Bắc Bộ dài 500 km chảy qua nhiều tỉnh
của vùng. Phạm vi thông thương bằng đường sông từ Hà Nội đến các tỉnh, các vùng
trong cả nước là rất lớn không chỉ bởi con sông dài chảy qua nhiều tỉnh mà còn được
nối nhiều mạng sông nhỏ với sông Hồng như sông Đà, sông Lô, sông Thái Bình và
cả vùng ven biển Việt Nam. Chính vì vậy vận chuyển hàng hóa, hành khách từ Hà Nội
bằng đường sông trong tới các tỉnh trong vùng rất thuận lợi. Từ lợi thế này từ lâu Hà
Nội đã có cảng sông và thường xuyên được đầu tư nâng cấp và góp phần tích cực vào
việc vận chuyển hàng hóa và hành khách.

QUY HOẠCH TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÙNG ĐBSH&DHĐB ĐẾN NĂM 2020, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030
VIỆN NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN DU LỊCH – 58,KIM MÃ - HÀ NỘI: TEL.37343131. FAX.8240407
21
Hệ thống sông ở vùng là tiềm năng phát triển du lịch theo đường sông nối các
tỉnh trong vùng và với các vùng khác. Những năm gần đây trên địa bàn vùng đã khai
thác tuyến du lịch sông Hồng nhưng do thời tiết, hệ thống tàu thuyền chưa được đầu tư
kỹ lưỡng.v.v…nên hoạt động còn rất hạn chế và chưa phát huy được thế mạnh của
mạng lưới đường sông đầy tiềm năng.
Các cảng sông quan trọng gồm: Cảng Hà Nội, cảng Diêm Điền (Thái Bình), cảng
Ninh Cơ (Nam Định).
b) Giao thông đường biển: Vùng ĐBSH&DHĐB có hệ thống cảng biển nối liền
với các cảng biển miền Trung và miền Nam trong hệ thống giao thông biển của cả
nước, đồng thời cũng có nhiều cảng biển quốc tế. Đây chính là một lợi thế cơ bản để
phát triển du lịch bởi vì hiện nay du lịch bằng tàu biển ngày càng được ưa chuộng.

Thực tế trong những năm qua Việt Nam đã đón nhiều tàu du lịch lớn cập các cảng Hạ
Long, Hải Phòng.
Các cảng biển quan trọng bao gồm cảng Hải Phòng, cảng Cái Lân, cảng Hòn
Gai, trong đó cảng Hải Phòng và cảng Cái Lân là cảng biển nước sâu, quốc tế, có khả
năng cấp được tàu trọng tải lớn. Cảng tàu du lịch Hòn Gai (Hạ Long) hiện đã quá tải
và đang được nâng cấp. Cảng tàu du lịch Tuần Châu hiện đón được 100 tàu thuyền
cùng một lúc và đã được quy hoạch thành cảng tàu hiện đại nhất thế giới.
Như vậy, giao thông đường biển qua cảng Hải Phòng và Hạ Long đang phát huy
được vai trò đón khách du lịch đến vùng ĐBSH&DHĐB bằng đường biển. Tuy nhiên
so với tiềm năng và nhu cầu hạ tầng du lịch đường biển của vùng ĐBSH&DHĐB còn
chưa đáp ứng nhiều.
3.1.5. Hệ thống cửa khẩu: Vùng ĐBSH&DHĐB có thuận lợi lớn có nhiều cửa
khẩu quan trọng để đưa đón khách du lịch nước ngoài. Sân bay quốc tế Nội Bài (Hà
Nội) là cửa khẩu hàng không quốc tế đã được xây dựng hiện đại, quy mô có thể vận
chuyển 2 - 3 triệu lượt khách/năm. Cảng Hải Phòng là cảng lớn thứ hai trong cả nước,
sau cảng Sài Gòn, dư sức tiếp nhận và tiễn đưa hàng chục ngàn khách du lịch vận
chuyển bằng đường biển. Cửa khẩu biên giới đường bộ Móng Cái nằm trên tuyến
đường liên vận quốc tế (AH14) nối liền giữa Viêt Nam và Trung Quốc.
Bên cạnh đó, do tiếp giáp với vùng Trung du miền núi Bắc Bộ nên vùng có sự
ảnh hưởng của hệ thống cửa khẩu biên giới đường bộ với Trung Quốc, trong đó có hai
cửa khẩu quan trọng là Lào Cai (Lào Cai) và Hữu Nghị (Lạng Sơn).
3.2. Cung cấp điện
Đây là vùng tập trung các nhà máy điện lớn như nhiệt điện Phả Lại, nhà máy
nhiệt điện Ninh Bình, Những năm gần đây sản lượng điện được tăng lên không
ngừng và chất lượng điện cung cấp cũng tốt hơn, cùng với việc phát triển mạng lưới
điện rộng khắp đã đảm bảo vững chắc nguồn điện phục vu cho các ngành và các địa
phương trong vùng, trong đó có hoạt động du lịch

QUY HOẠCH TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÙNG ĐBSH&DHĐB ĐẾN NĂM 2020, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030
VIỆN NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN DU LỊCH – 58,KIM MÃ - HÀ NỘI: TEL.37343131. FAX.8240407

22
Vùng ĐBSH&DHĐB có diện tích hẹp, đồi núi không nhiều, kinh tế phát triển vì
vậy điện lưới quốc gia đến hầu hết các địa phương trong vùng, trừ một số đảo của
Quảng Ninh và Hải Phòng như Cô Tô, Quan Lạn, Bạch Long Vĩ. Tuy nhiên các đảo
đều có nguồn điện tại chỗ và đến cuối năm 2012, mạng điện lưới quốc gia sẽ cung cấp
cho các đảo Cô Tô, Quan Lạn.
Tuy nhiên, thực trạng của mạng lưới dây tải điện và hệ thống trạm biến hạ thế
hiện nay là đáng lo ngại bởi sự quá tải trước sức ép gia tăng dân số, đô thị hóa và tốc
độ phát triển kinh tế. Nhiều khu vực đường dây tải điện đó quá cũ, lạc hậu chưa được
thay thế và làm mới không những không đáp ứng được những công trình đầu tư lớn,
yêu cầu tiêu thụ điện công xuất lớn mà còn không đáp ứng tốt nhu cầu sinh hoạt của
nhân dân. Cho đến nay không còn tình trạng cúp điện do thiếu điện mà chủ yếu là do
cắt điện để sửa chữa đường dây, dẫn đến tình trạng gián đoạn điện phục vụ sản xuất,
kinh doanh và sinh hoạt xảy ra cục bộ ở một số khu vực.
3.3. Cung cấp nước sạch
3.3.1. Nguồn nước: Do điều kiện địa lý tự nhiên có nhiều sông ngòi, lượng mưa
hàng năm lớn nên vùng ĐBSH&DHĐB có nguồn nước mặt và nước ngầm phong
phú đủ điều kiện và khả năng giải quyết tốt nhu cầu nước phục vụ du lịch.
a) Nguồn nước mặt: Với diện tích không lớn nhưng vùng ĐBSH&DHĐB có
nhiều sông lớn nhỏ, nhiều hồ chứa nước đa chức năng tự nhiên và nhân tạo. Hệ thống
sông được hình thành và đi qua hầu hết các tỉnh. Đây là nguồn cung cấp nước dồi dào
cho sinh hoạt và sản xuất.
b) Nguồn nước ngầm: Theo kết quả khảo sát nghiên cứu thì vùng ĐBSH&DHĐB
có nguồn nước ngầm cũng rất phong phú.
- Vùng Hà Nội và lân cận nguồn nước dưới đất đủ cung cấp cho hiện tại và tương
lai, chất lượng nước rất tốt.
- Vùng Bắc Ninh, Phả Lại chất lượng nước tốt nhưng cần có sự đánh giá chính
xác về trữ lượng.
- Vùng Hòn Gai, Cẩm Phả nguồn nước dưới đất cũng phong phú, tuy nhiên cần
phân vùng nhiễm mặn.

- Vùng Đông Triều, Uông Bí nguồn nước ngầm phong phú.
Chỉ có một số vùng như Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên trữ lượng nước ngầm
ít, phải sử dụng chủ yếu nguồn nước mặt.
Xét về nguồn nước cung cấp vùng ĐBSH&DHĐB có thể sử dụng cả hai nguồn
nước mặt và nước ngầm, trữ lượng và chất lượng đủ khả năng cung cấp lâu dài cho
nhu cầu sinh hoạt của dân cư, khách du lịch và sản xuất.
3.3.2. Hiện trạng cung cấp nước sạch
a) Khả năng cung cấp nước sạch: Nước sạch đang là một vấn đề lớn đang được
quan tâm nghiên cứu trên toàn lãnh thổ vùng ĐBSH&DHĐB.

QUY HOẠCH TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÙNG ĐBSH&DHĐB ĐẾN NĂM 2020, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030
VIỆN NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN DU LỊCH – 58,KIM MÃ - HÀ NỘI: TEL.37343131. FAX.8240407
23
Nguồn cung cấp nước chủ yếu là dùng nguồn nước mặt, chỉ có thành phố Hà Nội
chủ yếu là dựng nguồn nước ngầm. Khoảng 80% dân cư vùng nông thôn và đô thị nhỏ
dùng nguồn nước sông, hồ tự nhiên và giếng đào.
Thủ đô Hà Nội có 9 nhà máy nước trong đó có 8 nhà máy lớn công suất từ
25.000 m
3
/ngày đêm đến 60.000 m
3
/ngày đêm với công nghệ tương đối đảm bảo
(giếng khoan - dàn mưa - bể lọc - bể chứa - khử trùng). Tổng công suất cung cấp nước
sạch gần 400.000 m
3
/ngày đêm. Tình hình cung cấp nước sạch đã được cải thiện nhiều
so với vài năm trước đây.
Khả năng cấp nước sinh hoạt các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng mới đạt
100-120 lít/người/ngày, còn các thành phố khác trung bình từ 60 - 80 lít/người/ngày
v.v Với tốc độ đô thị hóa và phát triển kinh tế hiện nay việc cung cấp cho nhu cầu

sinh hoạt và sản xuất kinh doanh vẫn còn gặp nhiều khó khăn.
Các địa phương khác trong vùng, tình hình cung cấp nước sạch được đáp ứng đủ
cho các đô thị. Khu vực nông thôn cung cấp nước sạch còn khó khăn hơn, đặc biệt các
địa phương vùng biên giới, hải đảo. Tuy nhiên trong mục tiêu của Chương trình nông
thôn mới, đến năm 2020 đảm bảo cơ bản cung cấp nước sạch cho vùng nông thôn.
b) Mạng cấp nước và vệ sinh môi trường: Phổ biến mạng lưới cấp nước của các
thành phố đã quá cũ, số lượng các trạm phân phối chưa đủ, đến nay chỉ có thành phố
Hà Nội mới được cải tạo một phần do dự án hợp tác của Phần Lan nhưng chưa được
cải thiện nhiều.
Ngoài nguồn cung cấp nước, chất lượng nước cũng là một vấn đề cần lưu ý.
Nguồn nước mặt có nguy cơ bị ô nhiễm do các hoạt động dân sinh hoặc do sự phát
triển của kinh tế-xã hội.
3.4. Thông tin và truyền thông
3.4.1.Hiện trạng và khả năng cung cấp các dịch vụ thông tin truyền thông: Trong
mấy năm gần đây ngành Thông tìn và truyền thông Việt Nam sớm hòa nhập vào trình
độ của khu vực và quốc tế đồng thời đó đạt đến trình độ tiên tiến và hiện đại hóa. Hà
Nội một trong những trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa lớn nhất được ưu tiên đầu tư
trang bị sớm hoàn thiện. Điều đó có ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc phát triển
kinh tế - xã hội của Hà Nội, của cả nước nói chung và đặc biệt đối với ngành du lịch.
Cùng với mạng điện thoại cố định, các mạng điện thoại di động Mobiphone và
Vinaphone, Viettel đã phủ sóng tới hầu hết các địa danh du lịch thuộc vùng
ĐBSH&DHĐB, góp phần giúp thông tin thông suốt, nhanh chóng và tiện lợi. Số thuê
bao của 3 mạng di động này ngày một tăng nhanh, tuy nhiên do sự tăng đột biến nên
thường dẫn đến hiện tượng nghẽn mạch, đòi hỏi có sự đầu tư đồng bộ hơn nữa.
3.4.2. Kế hoạch và dự án cho các năm tiếp theo: Ngành Thông tin truyền thông
Việt Nam là một trong những ngành có bước chuyển biến nhanh, mạnh dạn đầu tư, tạo
nên những chuyển biến lớn cho phát triển thông tin truyềnthông quốc gia. Hiện nay
ngành Thông tìn và truyền thông có một số các dự án phát triển gồm:

QUY HOẠCH TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÙNG ĐBSH&DHĐB ĐẾN NĂM 2020, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030

VIỆN NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN DU LỊCH – 58,KIM MÃ - HÀ NỘI: TEL.37343131. FAX.8240407
24
- Thiết lập mạng VSAT, qua đó tạo điều kiện cho khách hàng có thể sử dụng
thông tin vệ tinh ở bất kỳ địa điểm nào trên lãnh thổ Việt Nam.
- Nâng cấp hệ thống cáp quang biển, nâng số kênh khai thác lên nhiều lần.
- Cải thiện các bưu cục, nâng số máy bình quân trên 100 dân.
- Đa dạng hóa các dịch vụ bưu chính viễn thông.
4. Các nguồn lực khác
4.1. Nguồn nhân lực
Dân số vùng ĐBSH&DHĐB đông nhất so với các vùng khác trên cả nước. Năm
2011, ước cả vùng có hơn 20 triệu dân, trong đó có trên 60% ở tuổi lao động. Đây là
nguồn lực rất quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nói chung và cho phát triển du
lịch nói riêng của. Trình độ dân trí vùng khá cao, ngoài nguồn nhân lực dồi dào vùng
cũng là khu vực lao động có trình độ tay nghề cao nhất trên cả nước. Đây cũng là khu
vực có thế mạnh nhất về phát triển nguồn nhân lực, với hàng trăm viện nghiên cứu
chuyên ngành, các trường đại học, cao đẳng, các trường dạy nghề, đã tạo nên thế mạnh
đối với việc phát triển các sản phẩm chủ lực trong các lĩnh vực nông nghiệp, công
nghiệp như: sản phẩm lúa gạo, cây ăn quả, thủy sản, gia cầm; cơ khí chế tạo, điện tử,
công nghiệp hóa chất và chế biến khoáng sản.
Du lịch là ngành kinh tế dịch vụ, vì vậy nhu cầu về nhân lực là rất cần thiết. Căn
cứ Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực du lịch đã được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt, dự báo nhu cầu nguồn nhân lực du lịch đến năm 2020 khoảng trên 4 triệu, trong
đó khoảng 1,5 triệu là lao động trực tiếp. Nhu cầu này được phân bổ không đồng đều
theo lãnh thổ mà sẽ tập trung ở các trọng điểm du lịch như ở vùng ĐBSH&DHĐB.
Kết quả điều tra dân số cho thấy ở những trọng điểm du lịch gắn với các đô thị
lớn như thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh.v.v…tập trung dân số cao, các tỉnh
vùng sâu vùng xa dân số ít và mật độ thấp. Sự phân bố này khá phù hợp với nhu cầu
nhân lực cho phát triển du lịch và đây là nguồn lực quan trọng cho phát triển du lịch
thời gian qua và cho giai đoạn tới đến năm 2020.
4.2. Hệ thống cơ chế, chính sách

Ngoài hệ thống cơ chế, chính sách chung của cả nước, vùng Đồng bằng sông
Hồng và Duyên hải Đông Bắc được Đảng và Nhà nước quan tâm phát triển về nhiều
mặt trong đó có Du lịch thể hiện qua việc ban hành và áp dụng hệ thống các cơ chế,
chính sách về ưu đãi đầu tư, về phát triển sản phẩm du lịch đặc thù, về phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao, phát triển khoa học và công nghệ cao, bảo tồn và phát
huy giá trị các làng nghề, làng Việt cổ tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch và
là một trong các yếu tố nguồn lực để phát triển du lịch Vùng.
4.3. Đầu tư, khoa học công nghệ
4.3.1. Đầu tư: Vùng đồng bằng sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc có vị trí đặc
biệt quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng đối

QUY HOẠCH TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÙNG ĐBSH&DHĐB ĐẾN NĂM 2020, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030
VIỆN NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN DU LỊCH – 58,KIM MÃ - HÀ NỘI: TEL.37343131. FAX.8240407
25
cả nước nên được Đảng và Chính phủ hết sức quan tâm đầu tư. Vùng cũng được đầu
tư nhiều từ các tổ chức khác ở nước ngoài. Các dự án phát triển kinh tế - xã hội, các dự
án phát triển công trình dịch vụ, giao thông, nông nghiệp nông thôn.v.v…được tập
trung đầu tư tạo điều kiện thuận lợi phát triển du lịch.
4.3.2. Khoa học công nghệ: Những điều kiện kinh tế, xã hội, tự nhiên rất thuận
lợi của vùng kết hợp với việc đầu tư nghiên cứu khoa học, đổi mới và phát tiển công
nghệ đã tạo nên thế mạnh đối với việc phát triển các sản phẩm chủ lực như: lúa gạo,
cây ăn quả, thủy sản, gia cầm, cơ khí chế tạo, điện tử, công nghiệp hóa chất, công
nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản. Nhờ có ứng dụng KHCN vào sản xuất, hàng
loạt sản phẩm có chất lượng của vùng ĐBSH đã có chỗ đứng vững chắc trên thị
trường, nhiều sản phẩm ứng dụng KHCN của vùng đã tạo được thương hiệu uy tín
như: may mặc, giày da, chế biến nông sản Hưng Yên; mộc Ninh Phong, đá mỹ nghệ
Ninh Vân, cói và rượu Kim Sơn của tỉnh Ninh Bình Theo định hướng phát triển
chung của cả nước hoạt động khoa học công nghệ trong khu vực vẫn giữ vai trò then
chốt và là công cụ để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
II. HIỆN TRẠNG VÀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN QUY HOẠCH PHÁT

TRIỂN DU LỊCH VÙNG (2000 - 2011)
1. Vị trí, vai trò của du lịch vùng ĐBSH&DHĐB
Thời gian qua, du lịch vùng ĐBSH&DHĐB phát triển và ngày càng khẳng định
vị trí quan trong đối với phát triển kinh tế-xã hội của các tỉnh trong vùng và vai trò
động lực đối với du lịch cả nước, thể hiện qua các mặt sau:
1.1. Vị trí, vai trò du lịch vùng đối với phát triển kinh tế - xã hội vùng
1.1.1. Vị trí của ngành du lịch: Nhờ có tiềm năng du lịch phong phú, đa dạng và
nổi trội thời gian qua du lịch các địa phương trong vùng phát triển phát triển với tốc độ
nhanh. Du lịch phát triển và ngày càng khẳng định là ngành kinh tế có vị trí quan trọng
trong cơ cấu kinh tế chung của địa phương. Các tỉnh, thành phố như Hà Nội, Quảng
Ninh, Ninh Bình, Hải Phòng, Vĩnh Phúc tỷ trọng ngành du lịch trong khối dịch vụ và
trong cơ cấu kinh tế chung đạt cao. Các địa phương khác, tuy mức độ đóng góp so với
GDP toàn tỉnh còn khiêm tốn những đã có bước chuyển dịch và đang từng bước được
tăng lên.
1.1.2. Vai trò của ngành du lịch
- Du lịch vùng ĐBSH&DHĐB phát triển góp phần tăng trưởng và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế cho các tỉnh trong vùng: Phát triển du lịch sẽ thu hút khách du lịch đến
vùng, tăng nguồn thu từ khách du lịch, tăng giá trị GDP du lịch trong cơ cấu kinh tế
của các tỉnh. Thực tế hiện nay, GDP du lịch tăng nhanh, từng bước được khẳng định là
ngành có vị trí quan trọng trong cơ cấu kinh tế của mỗi địa phương trong vùng.
- Du lịch vùng ĐBSH&DHĐB phát triển góp phần giải quyết việc làm, nâng cao
đời sống vật chất cho cộng đồng dân cư và công tác xoá đói giảm nghèo: Phát triển du
lịch vùng, ngoài việc thu hút lực lượng lao động trực tiếp, sẽ lôi kéo theo một lượng
lớn lao động gián tiếp ngoài xã hội nhờ sự xuất hiện những ngành nghề phục vụ du

×