VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TIỂU LUẬN
MÔN: LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
Đề tài:
CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
LIÊN QUAN ĐẾN QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
Họ và tên học viên: ĐINH THỊ QUÝ
Líp: LUẬT K
2
Khoá: 02
Hà Nội, - 2006
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Luật thương mại quốc tế là ngành luật điều chỉnh các quan hệ xã hội
trong lĩnh vực kinh tế, thương mại hoặc kinh doanh tại các quốc gia khác
nhau trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Luật thương mại quốc tế quy định
nhiều vấn đề khác nhau trong lĩnh vực kinh tế, thương mại và kinh doanh như
các quy định về thương mại hàng hoá, các quy định về thương mại dịch vô,
các quy định về đầu tư quốc tế và các quy định liên quan đến quyền sở hữu trí
tuệ…
Các quy định về thương mại quốc tế liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ
là một trong những nội dung cơ bản nhất trong Luật Thương mại quốc tế. Các
quy định này thể hiện sự mong muốn giảm bớt những bóp méo và những trở
ngại trong hoạt động thương mại quốc tế và lưu ý tới nhu cầu phải thúc đẩy
việc bảo hội một cách có hiệu quả và thích hợp các quyền sở hữu trí tuệ và
đảm bảo rằng các biện pháp và thủ tục thực thi các quyền sở hữu trí tuệ không
trở thành các trở ngại cho hoạt động thương mại hợp pháp.
Trong thương mại quốc tế, quyền sở hữu trÝ tuệ được hiểu rằng: Các
nhà phát minh sáng chế có thể có quyền không cho người khác sử dông các
sáng chế, bản vẽ, mẫu mã hay bất cứ sáng tạo nào khác của mình. Họ có thể
dùng quyền đó để thương lượng khoản thù lao mà họ được hưởng trong
trường hợp người thứ ba muốn sử dông các phát minh, sáng chế của họ.
Xét từ vai trò đặc biệt quan trọng đó của các quy định thương mại quốc
tế liên quan đến quyền sở hữu trí tụê và xuất phát từ quá trình nghiên cứu luật
thương mại quốc tế, tác giả xin chọn đề tài "Các quy định cơ bản của Luật
Thương mại quốc tế liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ" làm nội dung của
bài tiểu luận trong quá trình học tập và nghiên cứu môn Luật Thương mại
quốc tế.
1
Bằng các phương pháp nghiên cứu như phân tích, đọc hiểu, tổng hợp,
đối chiếu, so sánh… Tác giả sẽ nêu một cách khái quát nhất, có sự phân tích,
đánh giá về các quy định cơ bản của thương mại quốc tế liên quan đến quyền
sở hữu trí tuệ, trong đó là các vấn đề: Khái niệm quyền sở hữu trí tuệ, vấn đề
bảo hộ quyền sở hữu trí tụê, vấn đề quyền tác giả, vấn đề nhãn hiệu hàng hoá
và dịch vô, vấn đề chỉ dẫn địa lý, vấn đề bản vẽ và kiểu dáng công nghiệp và
bằng phát minh sáng chế, phương thức bảo đảm thực thi quyền sở hữu trí tuệ
Trong đó, nguồn tham khảo cơ bản của bài tập tiểu luận này là hiệp định các
khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tụê và các văn bản
pháp lý quốc tế khác về hội nhập kinh tế quốc tế….
Tuy nhiên, đây là một vấn đề phức tạp đòi hỏi một dung lượng kiến thức
sâu nặng về pháp luật thương mại quốc tế. Hơn nữa, trong khuôn khổ của một
bài tiểu luận có những ràng buộc nhất định trong việc phân tích tổng hợp…
Do đó, bài tập tiểu luận này chắc chắn không tránh khỏi những hạn chế tác
giả rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo, các bạn…
để những bài tập sau có những kết quả cao hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
2
NỘI DUNG
1. Khái niệm quyền sở hữu trí tuệ
Các ý tưởng và tri thức đang chiếm vị trí ngày càng quan trọng trong hệ
thống thương mại. Giá trị của các loại dược phẩm mới và các sản phẩm công
nghệ cao khác nằm ở nỗ lực phát minh, cải tiến, tìm tòi, chế tạo và thử
nghiệm cho phép sản xuất chóng. Phim ảnh, băng đĩa nhạc, sách báo, phần
mềm tin học và các dịch vô trên mạng được mua bán nhờ vào khối lượng
thông tin và tính sáng tạo đã được đưa vào các sản phẩm này, chứ không phải
là nhờ các chất liệu nhựa, giấy hay kim loại được sử dông để sản xuất ra
chúng. Nhiều sản phẩm trước kia còn được xếp vào loại hàng hoá có hàm
lượng công nghệ thấp thì nay lại có giá trị cao nhờ vào những phát minh và
thiết kế: ví dụ như quần áo mang nhãn hiệu nổi tiếng hoặc các giống cây trồng
khác.
Các nhà phát minh sáng chế có thể có quyền không cho người khác sử
dông các sáng chế, bản vẽ, mẫu mã hay bất cứ sáng tạo nào khác của mình.
Họ có thể dùng quyền đó để thương lượng khoản thù lao mà họ được hưởng
trong trường hợp người thứ ba muốn sử dông các phát minh, sáng chế của họ.
Các quyền này được gọi là "Quyền sở hữu trí tuệ". Chúng có nhiều hình thức:
bản quyền, chẳng hạn đối với các Ên phẩm sách báo, phim và tranh ảnh: Bằng
sáng chế, nhãn hiệu hàng hoá hoặc thương phẩm đối với thương hiệu và lôgô
sản phẩm… Chính phủ và Quốc hội các nước đã trao quyền này cho các nhà
phát minh sáng chế để khuyến khích họ đưa ra nhiều ý tưởng phục vụ lợi Ých
của toàn xã hội.
Điều 2 Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ có định nghĩa "Quyền
sở hữu trí tuệ" bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan, nhãn hiệu hàng
hoá, sáng chế, thiết kế bố trí (topography) mạng tích hợp, tín hiệu vệ tinh
mang chương trình đã được mã hóa, thông tin bí mật (bí mật thương mại),
3
kiểu dáng công nghiệp và quyền đối với giống thực vật.
Điều 1.2 của Hiệp định TRIPS định nghĩa thuật ngữ (sở hữu trí tuệ) có
nghĩa là tất cả các đối tượng sở hữu trí tuệ nêu tại các mục từ mục 1 đến mục
7 của phần II của Hiệp định này, tức bao gồm: bản quyền và quyền có liên
quan, nhãn hiệu hàng hoá; chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng công nghiệp; Patent, thiết
kế bố trí (topograph) mạch tích hợp và bảo hộ thông tin bí mật. Quyền sở hữu
trí tuệ là quyền phát sinh từ sở hữu trí tuệ đó.
2. Bảo hộ quyền sở hữu trí tụê
Mức độ bảo vệ và tôn trọng các quyền này ở các nước rất khác nhau. Do
sở hữu trí tuệ đóng vai trò ngày càng quan trọng trong thương mại nên những
khác biệt đó đang trở thành nguyên nhân gây căng thẳng trong quan hệ kinh
tế quốc tế. Việc xây dùng các quy định pháp luật thương mại mới trên phạm
vi toàn thế giới nhằm điều chỉnh quyền sở hữu trí tuệ đã trở thành một
phương tiện giúp củng cố trật tự quốc tế, khả năng dự báo, cũng như giải
quyết tranh chấp thương mại quốc tế có hiệu quả hơn.
Vòng đàm phán Uruguay cho phép đạt được kết quả này. Hiệp định
TRIPS được đàm phán trong vòng đàm phán Uruguay từ năm 1986 đến năm
1994. Với hiệp định này, lần đầu tiên những quy định về sở hữu trí tuệ được
đưa vào hệ thống pháp luật thương mại đa biên. Hiệp định TRIPS có mục tiêu
là giảm bớt sự khác biệt trong cách thức bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trên thế
giới và đưa ra các quy định quốc tế chung điều chỉnh sự bảo hộ này. Hiệp
định Ên định cao mức độ bảo hộ tối thiểu mà mỗi quốc gia thành viên phải
bảo đảm cho quyền sở hữu trí tuệ của các quốc gia thành viên khác. Trên cơ
sở đó, hiệp định tạo sự cân bằng giữa lợi Ých lâu dài và chi phí ngắn hạn đối
với xã hội. Chính phủ các nước được phép giảm các chi phí ngắn hạn bằng
nhiều cách khác nhau, ví dụ như để đối phó với các vấn đề y tế công cộng.
Hơn nữa, hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO cho phép giải quyết các
4
tranh chấp thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ có hiệu quả.
Các lĩnh vực thuộc phạm vi điều chỉnh của hiệp định TRIPS bao gồm
bản quyền và quyền liên quan: nhãn hiệu hàng hoá và dịch vô; chỉ dẫn địa lý,
bản vẽ về kiểu dáng công nghiệp; bằng sáng chế; sơ đồ bố trí tích hợp; bảo vệ
thông tin bí mật. Hiệp định đề cập 5 nội dung chính các nguyên tắc cơ bản
của hệ thống thương mại và các hiệp định quốc tế khác về sở hữu trí tuệ được
áp dụng; mức độ bảo vệ thích hợp đối với quyền sở hữu trí tuệ, bảo đảm cho
các quyền này được tôn trọng mét cách thoả đáng trên lãnh thổ của nước
thành viên; giải quyết tranh chấp về sở hữu trí tuệ giữa các thành viên WTO;
áp dụng các thoả thuận đặc biệt trong thời gain chuyển đổi cũng như các thoả
thuận trong các hiệp định GATT và GATS, hiệp định TRIPS dùa trên một số
nguyên tắc cơ bản. Hiệp định TRIPS nhấn mạnh tới nguyên tắc không phân
biệt đối xử: đối xử quốc gia (bình đẳng đối xử giữa người trong nước và
người nước ngoài) và đối xử tối huệ quốc gia cũng là một nội dung cốt lõi của
các hiệp định khác về sở hữu trí tuệ được đăng ký kết ngoài khuôn khổ
WTO.
Hiệp định TRIPS còn đưa ra một nguyên tắc quan trọng khác đó là bảo
hộ sở hữu trí tuệ phải góp phần cải tiến kỹ thuật và chuyển giao công nghệ.
Bảo hộ sở hữu trí tuệ phải đem lại lợi Ých cho người sản xuất còng như người
tiêu dùng, góp phần tăng sự no Êm về kinh tế và xã hội.
Điều 1 Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ cũng quy định: để bảo
hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ một cách đầy đủ và có hiệu quả, mỗi bên
tối thiểu phải thực hiện chương này và các quy định có nội dung kinh tế của:
- Công ước Geneva về bảo hộ người sản xuất bản ghi âm chống sự sao
chép trái phép năm 1971 (công ước Geneva).
- Công ước Berne về bảo hộ tác phẩm văn học và công nghệ năm 1971
(công ước Berne).
- Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp, năm 1967 (công ước
5
Paris).
- Công ước quốc tế về bảo hộ giống thực vật mới, năm 1978 (công ước
UPOV (1978), hoặc công ước quốc tế về bảo hộ giống thực vật mới, năm
1991 (công ước UPOV (1991).
- Công ước về phân phối tín hiệu mang chương trình tryền qua vệ tinh
(1974).
Điều 1 Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ cũng như quy định
một bên có thể thực hiện việc bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ theo
pháp luật quốc gia của mình ở mức độ rộng hơn so với yêu cầu tại chương
trình, với điều kiện là việc bảo hộ và thực thi đó không mâu thuẫn với chương
trình.
3. Một số quy định cụ thể về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
Các quyền sở hữu trí tuệ có thể rất khác nhau và cách thức bảo hộ chúng
cũng khác nhau. Vấn đề đặt ra là làm sao để các quy định phù hợp về bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ được tất cả các nước áp dụng. Theo cách đó, nền tảng
pháp luật quốc tế của việc bảo hộ phải là những nghĩa vụ được ghi trong các
hiệp định quốc tế ký kết trong khuôn khổ tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới
(WIPO) và WTO, đặc biệt là công ước Paris về bảo vệ sở hữu công nghiệp
(văn bằng, bản vẽ công nghiệp…), công ước Perne về bảo hộ các tác phẩm
văn học nghệ thuật (quyền tác giả), hiệp định TRIPS.
3.1. Về quyền tác giả (Copyrights)
Luật thương mại quốc tế quy định các quyền tác giả phải được bảo hộ
như đã được quy định trong các văn bản của WIPO và WTO. Chẳng hạn,
chương trình máy tính sẽ được bảo hộ như các tác phẩm văn học theo đúng
công ước Perne. Tuy vậy, hiệp định TRIPS mở rộng phạm vi điều chỉnh của
các quy định quốc tế về bản quyền tác giả đối với quyền thuê lại, theo đó tác
giả của các chương trình máy tính và các nhà thu âm còn có quyền không cho
6
công chúng thuê các sản phẩm của họ. Độc quyền tương tự cũng được giành
cho các tác phẩm điện ảnh. Việc kinh doanh, cho thuê đã khiến các tác phẩm
điện ảnh bị sao chép rất nhiều, khiến người nắm giữ quyền tác giả không thu
được hết lợi nhuận mà mình đáng được hưởng… người phiên dịch hoặc người
biểu diễn cũng có quyền không thu âm, sao chép và phổ biến rộng rãi các hoạt
động của họ Ýt nhất là trong vòng 50 năm. Các nhà sản băng đĩa cũng có
quyền không cho sao chép lại các sản phẩm của họ trong vòng 50 năm.
3.2. Về nhãn hiệu hàng hoá và dịch vụ (Trademarks)
Luật thương mại quốc tế định rõ các nhãn hiệu hàng hoá và dịch vô cần
được bảo hộ trong mức độ cần thiết các quyền tối thiểu, chủ sở hữu các nhãn
hiệu dịch vô phải được bảo hộ như chủ sở hữu các nhãn hiệu hàng hoá. Các
nhãn hiệu nổi tiếng ở các nước phải còn được bảo hộ theo các quy chế bổ
sung.
3.3. Về chỉ dẫn địa lý (Geographical Indications)
Tên mét khu vực địa lý, một địa điểm đôi khi được sử dông để nhận
dạng mét sản phẩm. "chỉ dẫn địa lý" này không những chỉ ra nơi sản phẩm
được sản xuất mà đặc biệt còn chỉ ra các đặc tính của sản phẩm có được từ
nguồn gốc của nơi sản xuất ra nã.
Các tên "Champagne", "Scotch", "Tequila" và "Roquefort" là những ví
dụ mà ai cũng biết. Những nhà sản xuất rượu vang và rượu mạnh đặc biệt coi
trọng việc sử dông địa danh để nhận dạng các sản phẩm này. Chỉ dẫn địa lý
được một số điều khoản đặc biệt của Hiệp định TRIPS điều chỉnh. Tuy vậy,
đây cũng là một vấn đề quan trọng đối với các loại hàng hoá khác.
Việc sử dông tên một khu vực địa lý, một địa điểm khi sản phẩm được
sản xuất ở nơi khác hoặc không có được những tính năng vốn có của sản
phẩm sẽ gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng và dẫn tới cạnh tranh không lành
mạnh. Hiệp định TRIPS quy định nghĩa vụ các nước thành viên phải ngăn
cấm việc sử dông bừa bãi các địa danh gắn lên sản phẩm.
7
Đối với rượu vang và rượu mạnh, các hiệp định quy định mức độ bảo hộ cao
hơn, tức là ngay cả khi không có nguy cơ gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng.
Luật Thương mại quốc tế cho phép một số ngoại lệ, đặc biệt khi địa danh
đã được bảo hộ dưới dạng nhãn hiệu hàng hoá hoặc thương hiệu hoặc khi nó
đã trở thành tên chung. Ví dụ: "Chaddar" ngày nay được dùng để chỉ một loại
phomát đặc biệt không nhất thiết phải được sản xuất ở vùng Cheddar thuộc
nước Anh. Tuy nhiên, nước nào muốn nêu ngoại lệ vì những lý do này đều
phải tiến hành đàm phán với những nước cũng muốn bảo hộ chỉ dẫn địa lý đó.
3.4. Về bản vẽ và kiểu dáng công nghiệp (Industrial Dasigns)
Theo Luật thương mại quốc tế, các bản vẽ và kiểu dáng công nghiệp phải
được bảo hộ Ýt nhất trong vòng 10 năm. Chủ sở hữu các bản vẽ được bảo hộ
phải có quyền ngăn cấm việc sản xuất, bán hoặc nhập khẩu các sản phẩm
mang hoặc chứa hình vẽ giống với hình vẽ đã được bảo hộ.
3.5. Bằng phát minh sáng chế (Patents)
Luật thương mại quốc tế quy định các sáng chế có thể được bảo hộ thông
qua văn bằng sáng chế trong vòng Ýt nhất 20 năm. Cả sản phẩm lẫn phương
thức sản xuất đều được bảo hộ trong hầu hết các lĩnh vực công nghệ. Chính
phủ các nước có thể từ chối cấp văn bằng sáng chế nếu việc khai thác kinh
doanh chóng bị cấm vì vi phạm trật tù công cộng hoặc đạo đức xã hội. Họ
cũng có thể khôn cấp văn bằng cho các phương pháp chẩn đoán, điều trị và
phẫu thuật, các loại thực vật và động vật (không phải là các chủ vi sinh vật)
và các phương pháp sinh học sản xuất giống cây trồng và vật nuôi (không
phải là các phương pháp vi sinh). Tuy nhiên, các giống cây phải được bảo vệ
bằng các phát minh(không phải là các phương pháp vi sinh). Tuy nhiên, các
giống cây phải được bảo vệ bằng các phát minh hoặc bằng mét hệ thống đặc
biệt (như hệ thống bảo vệ quyền của người được cấp phép được quy định
trong các công ước của Liên minh quốc tế bảo hộ giống cây trồng).
8
Luật thương mại quốc tế có các quyền tối thiểu dành cho người sở hữu
văn bằng sáng chế. Tuy nhiên, ở đây cũng quy định một số ngoại lệ, có thể
xảy ra trường hợp người sở hữu văn bằng sáng chế lạm dụng các quyền của
mình, nhưng không cung ứng sản phẩm cho thị trường. Trong trường hợp đó
Chính phủ các nước có thể cấp "giấy phép bắt buộc" cho phép một số đối thủ
cạnh tranh được sản xuất sản phẩm này hoặc được phép sử dông quy trình sản
xuất đã được bảo hộ. Tuy nhiên, Chính phủ các nước cũng đồng thời phải đáp
ứng một số điều kiện nhằm mục đích bảo vệ lợi Ých chính đáng của người
giữ văn bằng sáng chế. Nếu là văn bằng sáng chế về quy trình sản xuất thì các
sản phẩm được sản xuất trực tiếp từ quy trình này cũng được bảo hộ. Trong
một số trường hợp, người vi phạm có thể bị buộc phải chứng minh trước toà
án về việc họ không sử dông quy trình đã được cấp văn bằng sáng chế.
Cho tới gần đây, đối với việc bảo hộ các dược phẩm đã được cấp văn
bằng sáng chế là vấn phức tạp nhất là chữa trị căn bệnh HIV/AIDS. Vấn đề là
ở chỗ làm thế nào để vừa không cản trở các nước nghèo tiếp cận các loại
thuốc chữa bệnh, vừa duy trì được vai trò của văn bằng sáng chế là khuyến
khích hoạt động nghiên cứu và phát triển trong ngành dược phẩm. Một số quy
định mềm dẻo, như khả năng nhượng lại "giấy phép bắt buộc", đã được đưa
vào Hiệp định TRIPS/WTO. Tuy nhiên, một số chính phủ đang đặt ra câu hỏi
cần phải diễn giải các quy định này như thế nào, và làm thế nào để đảm bảo
quyền sử dông các quy định này. Phần lớn vấn đề này đã được giải quyết khi
các Bộ trưởng các nước thành viên WTO họp và thông qua một tuyên bố đặc
biệt tại Hội nghị Doha vào tháng 11/2001. Các bộ trưởng nhất trí rằng Hiệp
định TRIPS sẽ không ngăn cản và không được ngăn cản các nước thành viên
áp dụng các biện pháp bảo vệ sức khoẻ cộng đồng. Họ nhấn mạnh rằng các
nước có thể sử dông các quy định mềm dẻo trong Hiệp định TRIPS và nhất trí
tiếp tục miễn cho các nước kém phát triển phải bảo vệ các dược phẩm đã
được cấp văn bằng sáng chế cho tới năm 2016. Đối với vấn đề còn tồn đọng,
9
các bộ trưởng cũng giao cho Hội đồng TRIPS phải quyết làm sao để các quy
định trở nên mềm dẻo hơn nữa nhằm giúp các nước không có khả năng tù sản
xuất dược phẩm có thể nhập khẩu thuộc được sản xuất theo "giấy phép bắt
buộc".
3.6. Về sơ đồ bố trí mạch tích hợp (Integrated circits layout designs -
Topographies)
Việc bảo hộ sơ đồ bố trí mạch tích hợp được thực hiện trên cơ sở Hiệp
định Washington về sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực mạch tích hợp. Tuy đã được
thông qua năm 1989 nhưng Hiệp định này vẫn chưa có hiệu lực. Hiệp định
TRIPS/WTO bổ sung thêm một số điều khoản, chẳng hạn như mạch tích hợp
phải được bảo hộ Ýt nhất là 10 năm.
3.7. Bảo hộ thông tin mật và bí quyết thương mại (Undiscclosed
Information and Trade seerets)
Bí quyết thương mại và các loại "thông tin mật" khác có giá trị thương
mại phải được bảo vệ nhằm ngăn chặn việc lạm dụng lòng tin và các hành vi
khác trái với nguyên tắc làm ăn trung thực. Tuy vậy, cũng cần phải đưa ra các
biện pháp phù hợp nhằm bảo vệ bí mật của các thông tin này. Nếu được cung
cấp các kết quả thử nghiệm trong quá trình cấp phép dược phẩm hoặc sản
phẩm hóa phục vụ nông nghiệp thì Chính phủ phải bảo vệ các kết quả này
nhằm ngăn ngõa việc khai thác thương mại bất hợp pháp.
3.8. Các hợp đồng li - xăng chống cạnh tranh trong thương mại
(Curbing anti - Competivive licensing contracts)
Chủ sở hữu bản quyền tác giả, văn bằng hoặc bất cứ quyền sở hữu trí tuệ
nào khác đều có thể cho phép một người khác sản xuất hay sao chép nhãn
hiệu hàng hoá hoặc dịch vô, tác phẩm, sáng chế, bàn về hoặc các mẫu mã
được bảo hộ. Luật thương mại quốc tế cho phép, trong một số trường hợp
người chủ sở hữu có thể hạn chế ký kết các hợp đồng chuyển giao công nghệ,
bản quyền tác giả dạng độc quyền, không có cạnh tranh hoặc cản trở việc
10
chuyển giao công nghệ bằng cách đưa vào hợp đồng chuyển giao đối tượng
của quyền sở hữu trí tuệ (còn gọi là hợp đồng li -xăng) một số các điều kiện
như vậy. Luật thương mại quốc tế cũng cho phép Chính phủ các nước, trong
một số điều kiện nhất định có quyền áp dụng các biện pháp nhằm ngăn ngõa
hành vi chống cạnh tranh và lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực
nhượng bản quyền. Tuy vậy, Chính phủ các nước phải sẵn sàng tham khảo
nhằm hạn chế áp dụng cá hành vi này.
4. Phương thức bảo đảm thực thi quyền sở hữu trí tuệ
Có được các luật lệ tốt về sở hữu trí tuệ là chưa đủ, các nước còn phải
làm sao để luật lệ được tuân thủ chặt chẽ. Vấn đề này đã được Luật thương
mại quốc tế quy định, theo đó Chính phủ các nước phải bảo đảm thực thi pháp
luật về bảo hộ được quyền sở hữu trí tuệ và các trường hợp vi phạm phải bị
trừng trị thích đáng. Các thủ tục áp dụng phải hợp pháp, công bằng và không
quá phức tạp và không phải tốn kém một cách không cần thiết. Các thủ tục
này không được đề ra thời hạn quá dài hoặc gây chậm trễ một cách vô lý.
Những người có liên quan phải được phép yêu cầu toà án xem xét lại quyết
định hành chính cho dù đó là bản quyết định cuối cùng hoặc xét xử phóc thẩm
một bản án của toà án cấp dưới.
Hiệp định TRIPS/WTO có các quy định mô tả chi tiết các công cụ bảo
đảm thực thi quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là các quy định liên quan tới việc
thu thập chứng từ, các biện pháp tạm thời, các biện pháp tư nhân của toà án,
các khoản bồi thường thiệt hại và các biện pháp xử phạt khác. Hiệp định quy
định, trong một số điều kiện nhất định, toà án có quyền ra lệnh đưa ra khái hệ
thống phân phối hoặc tiêu thụ các loại hàng giả, hàng nhái. Các hành vi cố ý
làm giả, nhái nhãn mác hoặc thương hiệu trong kinh doanh, gây phương hại
tới quyền tác giả, phải bị coi là hành vi phạm tội hình sự. Chính phủ các nước
phải làm sao để người nắm giữ quyền sở hữu trí tụê được các cơ quan hải
quan hỗ trợ nhằm ngăn không cho hàng giả hoặc hàng nhái được nhập khẩu
11
vào lãnh thổ quốc gia.
12
KẾT LUẬN
Quyền sở hữu trí tuệ là một vấn đề quan trọng và phức tạp trong thương
mại quốc tế, nó liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau mang tính chất nhạy
cảm như: quyền tác giả, nhãn hiệu hàng hoá… Do đó, việc tìm hiểu và nghiên
cứu về các quy định cơ bản của Luật thương mại quốc tế liên quan đến quyền
sở hữu trí tuệ là hết sức cần thiết. Nó không những giúp chúng ta hiểu được
bản chất, nội dung, ý nghĩa của quyền sở hữu trí tuệ trong thương mại quốc tế
mà nó còn giúp chúng ta hiểu được sự giao lưu, quan hệ trong thương mại
quốc tế về cán vấn đề của quyền sở hữu trí tuệ.
Đề tài: "Các quy định cơ bản của Luật thương mại quốc tế liên quan đến
quyền sở hữu trí tuệ" được tác giả chọn làm nội dung nghiên cứu trong quá
trình nghiên cứu bé môn Luật thương mại quốc tế qua bài tập này được thể
hiện mang tính chất khái quát cao. Ngoài việc nêu và phân tích khái niệm
quyền sở hữu trí tuệ trong Luật thương mại quốc tế, tác giả cũng đã có sự tìm
tòi để tập hợp được một cách bao quát các quy định cơ bản về quyền sở hữu
trí tuệ trong Luật thương mại quốc tế như vấn đề quyền tác giả, bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ, nhãn hiệu hàng hoá…
Việc nghiên cứu về các luật quy định của Luật thương mại quốc tế liên
quan đến quyền sở hữu trí tuệ là một vấn đề quan trọng, đặc biệt trong thời
đại ngày nay, khi xu hướng các nước trên thế giới đều đẩy mạnh và coi trọng
hội nhập kinh tế quốc tế trên mọi lĩnh vực. Việc hiểu biết và nắm vững kiến
thức pháp lý của Luật thương mại quốc tế liên quan đến các quy định về
quyền sở hữu trí tuệ sẽ giúp cho việc giao lưu trong thương mại quá trình của
chúng ta dễ dàng và cởi mì hơn.
Hiện nay, Việt Nam đã tham gia ký kết nhiều văn bản pháp lý khác nhau
liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ trong thương mại quốc tế. Đây là một trong
những nội dung quan trọng và thể hiện hướng đi đúng đắn của Đảng và nhà
13
nước ta, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi nền kinh tế thị trường ở nước ta
đã đạt được những kết quả lớn lao, khi việc hội nhập đang được đẩy mạnh.
Điều quan trọng hơn, mới đây Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức
của tổ chức thương mại thế giới (WTO), việc tìm hiểu, nghiên cứu còng như
mạnh dạn tham gia ký kết, cam kết các quy định liên quan đến quyền sở hữu
trí tuệ trong thương mại quốc tế sẽ càng có ỹ nghĩa quan trọng hơn bao giê
hết. Có thể nói đây là những vấn đề mang tính tất yếu và hoàn toàn phù hợp
với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay.
14