Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

luận văn kinh tế luật Tìm hiểu cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.19 KB, 18 trang )

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TIỂU LUẬN
THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
Đề tài:
TÌM HIỂU CƠ BẢN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG WTO
Sinh viên thực hiện : LÝ CÔNG BÌNH
Năm sinh : 19/8/1958
SBD : 13
Líp : LUẬT K3B
Cơ sở đào tạo : TTGDTX HÀ TÂY
Hà Tây - 2007
LỜI NÓI ĐẦU
Việt Nam chóng ta đã tiến hành đổi mới kinh tế được hai mươi năm.
Trong khoảng thời gian đó, kinh tế nước ta đã gặt hái được nhiều thành công
đáng khích lệ. Chúng ta đã từng bước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng và
từng bước phát triển. Để có được những thành quả đó là do Đảng và Nhà
nước đã có những chính sách đúng đắn trong phát triển kinh tế. Một trong
những chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước ta là: "Chúng ta hội nhập
kinh tế quốc tế".
Trong những năm gần đây, cùng với quá trình toàn cầu hóa kinh tế thế
giới, chúng ta cũng đã có những bước chuẩn bị nhất định cho quá trình hội
nhập này. Chúng ta đã từng bước xây dựng hệ thống pháp luật cho phù hợp
với pháp luật và thông lệ thế giới. Và ngày 07/11/2006 vừa qua, Việt Nam đã
được tổ chức thương mại thế giới, chúng ta có được nhiều cơ hội hơn để phát
triển kinh tế nhưng chúng ta cũng phải đối mặt với rất nhiều thành thức. Vì
vậy, vấn đề đặt ra hiện nay đối với chúng ta là phải tìm hiểu những quy định
của tổ chức này để chúng ta có thể tận dụng được tốt nhất những cơ hội mà tổ
chức này mang lại để phát triển nền kinh tế.
Trong phạm vi bài tiểu luận, tôi đã lùa chọn đề tài "Tìm hiểu cơ chế giải
quyết tranh chấp của WTO" làm đề tài tiểu luận cho mình. Pháp luật quốc tế


nói chung và những quy định của to về giải quyết tranh chấp nói chung và
quy định của WTO về giải quyết tranh chấp nói riêng là những vấn đề khó. Vì
vậy, trong bài viết này tác giả bài viết khó có thể tránh khỏi những thiếu sót,
do đó, tôi rất mong nhận được sự thông cảm của các thầy cô giáo. Tôi xin
chân thàm cảm ơn!
2
I. Khái quát về giải quyết tranh chấp thương mại của WTO
Cơ chế của tổ chức thương mại thế giới (WTO) về giải quyết tranh chấp
thương mại (sau đây gọi tắt là DSM) với tư cách là một thiết kế của WTO
mới chỉ tồn tại hơn 10 năm kể từ ngày 1 tháng 1 băn 1995 tới nay.
Tuy nhiên, cơ chế trước đó - cơ chế giải quyết tranh chấp theo Hiệp định
chung về thuế quan và thương mại (GATT) đã tồn tại từ năm 1948 tới năm
1994. Mặc dù cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT, chủ yếu là các quy
định của hai Điều XXII và XXIII của GATT, có nhiều điểm bất cập, như việc
vận hành theo nguyên tắc đồng thuận (tức là phải có ý kiến đồng ý của cả
nước bị kiện) để ra các quyết định, chế tài đối với vi phạm yếu, kém minh
bạch, cơ chế mang nặng tính ngoại giao… nhưng trong hơn 40 năm tồn tại thì
GATT cũng đã đem lại những kết quả đáng khích lệ, nhất là so với các cơ chế
giải quyết tranh chấp quốc tế khác.
Vòng đàm phán đa phương Urugoay được đánh giá là thành công nhất
trong các vòng đàm phán trong khuôn khổ GATT về nhiều phương diện, như
phạm vi điều chỉnh, số lượng mức tham gia, thành lập được thiết chế quản lý
các vấn đề thương mại quốc tế - Tổ chức thương mại thế giới (WTO)… tuy
nhiên kết quả của vòng đàm Urugoay về cơ chế giải quyết tranh chấp thương
mại quốc tế là một sự tiến bộ có ý nghĩa đặc biệt, đem lại luồng không phí
mới cho thể chế thương mại đa phương, nhất là niềm tin của các nước Thành
viên vào việc các quy định trong WTO sẽ được thực hiện và bất kỳ vi phạm
nào cũng sẽ được điều chỉnh lại thông qua việc áp dụng các quy định về giải
quyết tranh chấp của tổ chức này. Cơ chế giải quyết tranh chấp (DSM) mới
trong WTO được xây dựng dùa trên các kinh nghiệm và quy định tồn tại trên

40 năm của GATT, nhưng với những sự cải thiện đáng kể về các quy định cụ
thể, nhất là về trình tố tụng, khẳng định nguyên tắc quan trọng là WTO, việc
các quốc gia thành viên dù lớn hay nhỏ, giàu hay nghèo, phát triển hay đang
phát triển đều có nghĩa vụ bình đẳng trong việc bảo đảm thể chế pháp luật của
3
mình thống nhất với WTO và phải tuân thủ theo cơ chế giải quyết các tranh
chấp thương mại liên quan tới các hiệp định WTO.
Một điều quan trọng nữa là cơ chế đã đem lại một sự rõ ràng và lường
trước được kết quả giải quyết vụ kiện khi các phán quyết được cơ quan giải
quyết tranh chấp WTO thông qua ngày càng có sự nhất quán, thống nhất cao,
nhất là đối với các báo cáo của Cơ quan phóc thẩm. Chính vì vậy mà tỷ lệ các
vụ kiện được hòa giải rất cao (hơn 50%) mà không cần đi hết tố tụng và có
khoảng trên 60% các vụ kiện đã được kháng cáo sau khi được xem xét ở cấp
Ban hội thẩm (panel). Điều đáng mừng nữa là hầu hết các phán quyết đã được
các nước thua kiện tự nguyện thi hành và chỉ có khoảng dưới 10 vô trong 9
năm tồn tại WTO là cần đến các biện pháp trả đũa để gây sức Ðp cho nước
thua kiện phải thi hành phán quyết.
II. Cơ chế giải quyết tranh chấp trong GATT
Hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO là kết quả của hơn 40 năm kinh
nghiệm và tiến triển của cơ chế giải quyết tranh chấp theo Hiệp định chung về
thương mại và Thuế quan 1947 (gọi tắt là GATT 1947).
GATT tránh đưa ra thuật ngữ "tranh chấp". Tuy nhiên các nhà soạn thảo
GATT đã tiên lượng trước được các vấn đề có thể nảy sinh do việc kiện tụng
hoặc không kiện tụng của các quốc gia thành viên đối với các vấn đề thuộc
phạm vi mà GATT điều chỉnh. Cơ chế mang tính nguyên tắc để giải quyết các
vấn đề này là tham vấn ngoại giao. Trong GATT 1947 có 19 điều khoản về
tham vấn và một trong những điều khoản đó là điều XXII, mét quy định
chung kêu gọi các bên "xem xét thông cảm" và "tham vấn" đối với các vấn đề
gây ảnh hưởng đến Hiệp định.
Điều XXIII của GATT đã tạo ra một cơ chế riêng nhằm hạn chế sự vô

hiệu hóa hoặc suy yếu hiệu lực của GATT. Sự vô hiệu hóa hay suy hếu hiệu
lực có thể xảy ra vì bất cứ một trong ba lý do sau:
- Sù thất bại của một bên trong việc thực hiện nghĩa vụ theo GATT.
4
- Mét bên áp dụng một biện pháp nào đó mà không tính đến khả năng
biện pháp đó có xung đột với các quy định của GATT.
- Sù thồn tại của bất cứ một "tình huống" gây ra vấn đề.
Do đó, việc giải quyết tranh chấp sẽ được quan tâm nhiều hơn so với
việc xem xét vi phạm các quy định của GATT.
Điều XXIII quy định một loạt các bước giải quyết sự vô hiệu hóa hoặc
kém hiệu lực có thể xảy ra. Các bước giải quyết được nâng dần lên nếu nh các
nỗ lực giải quyết vấn đề trước đó không hiệu quả:
- Các bên liên quan phải trình bày hoặc nêu ra các đề xuất với các bên ký
kết Hiệp định khắc hoặc với các bên liên quan bằng văn bản trong đó phải đề
ra một sự "xem xét thông cảm" cho các đề xuất này.
- Vấn đề có thể được chuyển tới các bên ký kết Hiệp định để các thành
viên này nhanh chóng tiến hành điều tra và đưa ra các khuyến nghị phù hợp
với bên liên quan. Một phương án khác là hình thức quyết định dùa trên vấn
đề. Trong quá trình điều tra, các bên ký kết Hiệp định có thể tham vấn lẫnh
nhau, tham vấn với bất kỳ tổ chức liên chính phủ liên quan nào hoặc Hội đồng
kinh tế xã hội của Liên Hợp Quốc.
- Các bên ký kết Hiệp định có thể ủy quyền cho một bên hoặc các bên
khác tạm thời đình chỉ việc áp dụng các nhượng bộ hoặc các nghĩa vụ theo
GATT như là một biện pháp đối kháng nếu như "hoàn cảnh chấp nhận được".
Thành viên phản đối hành động này có thể trực tiếp rút khỏi GATT sau khi
thông báo trước 60 ngày.
Điều XXIII và cơ chế giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ GATT
1947 được xây dùng trên cơ sở thực tiễn của các quốc gia. Đầu tiên, đàm phán
ngoại giao là biện pháp duy nhất để giải quyết tranh chấp. Sau đó, ban công
tác sẽ được thiết lập để điều tra và đưa ra các khuyến nghị. Ban công tác

thông thường bao gồm đại diện của các quốc gia khác nhau chịu sự chỉ đạo
của Chính phủ. Năm 1955, các bên ký kết Hiệp định GATT bắt đầu đưa các
5
tranh chấp ra "Ban hội thẩm" gồm nhóm các chuyên gia đặc biệt làm việc với
tư cách trung gian mà không phải là đại diện của các Chính phủ. Các quyết
định của Ban hội thẩm là không chính thức và không có hiệu lực ràng buộc
nhưng sẽ được chuyển đến Hội đồng của GATT để đưa ra các khuyến nghị
phù hợp. Hội đồng của GATT được thành lập năm 1960. bao gồm đại diện
của tất cả các bên ký kết Hiệp định GATT mong muốn gánh vác trách nhiệm
thành viên, và tổ chức họp mỗi tháng một lần.
Quy trình ra quyết định để giải quyết tranh chấp của Ban hội thẩm trong
khuôn khổ GATT đã thành công. Do quy trình này đã được áp dụng thường
xuyên nên các thủ tục của Ban hội thẩm cũng cần được chính thức hóa. Điều
này đã dẫn đến một loạt các hiệp định và văn bản về giải quyết tranh chấp
nhằm bổ sung cho Điều XXIII. Cùng với thời gian, Các Ban hội thẩm bắt đầu
áp dụng biện pháp thiên về quy định pháp lý đối với việc giải quyết tranh
chấp. Các bên đã viện dẫn Điều XXIII để làm sáng tỏ các quyền pháp lý theo
quy định của GATT. Các khuyến nghị của Ban hội thẩm đã dùa trên cơ sở
pháp lý hơn là ngoại giao thuần tuý. Đến một mức độ nào đó, các quyết định
do Ban hội thẩm của GATT đưa ra đã được Hội đồng GATT vì sự đe dọa
ngừng nhượng bộ mà chính là sự tuân thủ các nguyên tắc. Bên thua kiện
không thể không tuân thủ một quyết định dùa trên các nguyên tắc pháp lý.
Làm nh vậy có thể sẽ đe doạ toàn bộ trật tự pháp lý của hệ thống GATT và
bên thua kiện có thể sẽ lại cần đến trật tự pháp lý này trong các vụ kiện khác
(và có thể sẽ lại là bên thắng kiện).
Mặc dù quy trình giải quyết tranh chấp của Ban hội thẩm của GATT
đem lại thành công nhưng một loạt các thiếu sót đã hạn chế tính hiệu quả của
nó. Các thiếu sót đó bao gồm việc trì hoãn trong quá trình thành lập Ban hội
thẩm, trì hoãn trong quá trình giải quyết của ban hội thẩm, việc cản trở thông
qua các báo cáo của Ban hội thẩm tại Hội đồng GATT và trì hoãn trong việc

thực thi các khuyến nghị của hội đồng GATT.
6
III. Giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ WTO
1. Các vấn đề xem xét chung
Hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO được xây dựng trên hệ thống
đã tồn tại trước đó của GATT. Văn bản thiết lập hệ thống mới này là Bản ghi
nhớ của vòng đàm phán Urugoay về các Quy tắc và Thủ tục về giải quyết
tranh chấp (DSU). Điều 3.1 của DSU đã xác nhận việc áp dụng Điều XXII và
XXIII của Hiệp định GATT 1947. Ngoài ra, Các hiệp định của WTO còng
quy định rằng ngoại trừ các quy định khác theo Hiệp định này và các Hiệp
định thương mại đa biên, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO sẽ được điều
chỉnh bởi các quyết định, thủ tục và các thông lệ mà các bên ký kết hiệp định
GATT 1947 cam kết tuân thủ…".
2. Cơ cấu thể chế
Hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO do ba cơ quan phụ trách. Cơ
quan giải quyết tranh chấp (DSB0 là cơ quan thành lập nên Ban hội thẩm và
thông qua các báo cáo của Ban hội thẩm cũng như của Cơ quan Phóc thẩm;
giám sát việc thực thi các khuyến nghị và các quyết định đồng thời có quyền
áp đặt cấm vận nếu không tuân thủ các quyết định giải quyết tranh chấp
nhưng DSB có chủ tịch và tuân theo các thủ tục riêng biệt so với Đại hội đồng
của WTO.
Cơ quan phóc thẩm được thành lập theo DSU để rà soát các quyết định
của Ban hội thẩm. Cơ quan phóc thẩm là một cơ quan thường trực bao gồm
07 thành viên do DSB bổ nhiệm thoe nhiệm kỳ 4 năm. Các thành viên trong
Cơ quan phóc thẩm phải là các chuyên gia rất am hiểu về luật và thương mại
quốc tế mà không là thành viên của đại diện rộng rãi trong WTO. Các thành
viên của Cơ quan phóc thẩm này nghe các vụ khiếu kiện theo nhóm 3 người,
nhưng mỗi thành viên đều phải tham gia nh nhau trong các hoạt động giải
quyết tranh chấp của WTO.
Hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO là sự tiếp nối của hệ thống giải

7
quyết tranh chấp của GATT 1947. Các Ban hội thẩm bao gồm 03 thành viên
(trường hợp ngoại lệ có 05 thành viên) là các chuyên gia có trình độ sâu rộng
thuộc các tổ chức Chính phủ hoặc phi chính phủ được lùa chọn theo sự phân
công do các thành viên WTO đề xuất. Các thành viên của Ban hội thẩm là
việc với tư cách cá nhân và không là đại diện cho các thành viên của WTO.
3. Phạm vi áp dụng
Thẩm quyền của Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO được công
nghiệp êu ra trong Điều 1 của DSU. Bất cứ tranh chấp nào nảy sinh từ các
Hiệp định đa phương của WTO sẽ được giải quyết htoe các quy định và thủ
tục của DSU. Các hiệp định này được đề cập chung là "các Hiệp định điều
chỉnh" nh liệt kê trong Phụ lục I của DSU. Một số các Hiệp định của WTO có
đề cập đến các quy định và thủ tục bổ sung đặc biệt và DSU còng bao gồm
các quy định và thủ tục này. Trong trường hợp xung đột, các quy định và thủ
tục bổ sung đặc biệt này sẽ được áp dông.
Trong việc diễn giải các "Hiệp định điều chỉnh", Ban hội thẩm và Cơ
quan phóc thẩm sẽ căn cứ vào "các thông lệ diễn giải của Công pháp quốc tế".
tham chiếu đến Công ước Vienne về luật các Điều ước quốc tế. Tuy nhiên,
việc diễn giải các Hiệp định của WTO của Ban hội thẩm và Cơ quan Phóc
thẩm không phải là cuối cùng. Chỉ có Hội nghị Bộ trưởng và Đại hội đồng có
thẩm quyền thông qua những diễn giải cuối cùng.
Để tránh một quyết định không triệt để mà không giải quyết được tranh
chấp, người ta cho rằng các cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO phải có
thẩm quyền xem xét tất cả các khía cạnh của một vụ tranh chấp, bao gồm cả
các khía cạnh liên quan đến vấn đề pháp lý không hoàn toàn pháp sinh trong
phạm vi của Hiệp định điều chỉnh.
4. Hiệu lực pháp lý các báo cáo của cơ quan phóc thẩm và Ban hội
thẩm
Các báo cáo của cơ quan phóc thẩm và của Ban hội thẩm của WTO là
8

ràng buộc đối với các bên tranh chấp một khi cơ quan giải quyết tranh chấp đã
thông qua. Tuy nhiên, các báo cáo này không ràng buộc việc diễn giải các
hiệp định của WTO và không có hiệu lực pháp lý đối với các thành viên khác
của WTO. Các báo cáo này cũng không phải là tiền lệ ràng buộc pháp lý đối
với các vụ kiện sau. Tuy nhiên, các báo cáo đó có chứa đựng những bằng
chứng thực tiễn của hiệp định mà Ban hội thẩm còng nh Cơ quan phóc thẩm
của các vụ kiện sau có thể trích dẫn và lấy đó làm cơ sở lý luận. Trong chõng
mực cơ sở lý luận đó là thuyết phục thì ngay cả các báo cáo chưa được thông
qua cũng có thể được trích dẫn và làm cơ sở cho Ban hội thẩm và Ban hội
thẩm phải kiểm tra rất chặt chẽ các tiền lệ khi giải quyết một tranh chấp và cố
gắng không làm sai lệch cách diễn giải của những tiền lệ trước.
5. Thủ tục giải quyết tranh chấp
5.1. Mục tiêu
Còng nh dưới thời gian GATT, hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO
dùa trên tư tưởng chính là nhằm bảo vệ các quyền và nghĩa vụ của các thành
viên đối với các hiệp định WTO. Để bảo vệ các quyền và nghĩa vụ này, việc
xử lý nhanh chóng các "tình huống" khi một thành viên cho là quyền lợi của
mình bị phương hại là rất "cần thiết để WTO hoạt động hiệu quả. Do vậy,
mục tiêu của giải quyết tranh chấp trong WTO là nhằm rút bỏ bất kỳ biện
pháp nào không phù hợp với các hiệp định hoặc tìm giải pháp cùng chấp nhận
được và phù hợp với các hiệp định WTO. Mọi cách giải quyết và giải pháp
đều phải phù hợp với các hiệp định được điều chỉnh.
5.2. Khởi đầu: Yêu cầu tham vấn
DSU đòi hỏi các thành vên WTO phải cân nhác khi sử dụng thủ tục giải
quyết tranh chấp. Họ phải suy xét xem hành động này có "đem lại tác dụng"
và sẽ là "một cách xử lý tích cực đối với tranh chấp". Bước đầu tiên là yêu
cầu tham vấn với một hoặc nhiều thành viên khác. Chỉ sau giai đoạn tham vấn
này, các bên mới có quyền đề nghị lập ban hội thẩm.
9
Khi có yêu cầu tham vấn, thành viên có liên quan phải trả lời trong vòng

10 ngày và phải bắt đầu tham vấn trong vòng 30 ngày sau khi nhận được yêu
cầu.
5.3. Quyền được khiếu nại.
Lời văn của Điều XXIII: của Hiệp định GATT 1994 và của Điều 3.7 của
DSU cho thấy một thành viên hoàn toàn có thể tự quyết định hành động nào
là "hữu Ých". Cả điều 3.3 của DSU cũng như các điều khoản khác của DSU
đều không yêu cầu một thành viên phải có quyền lợi hợp pháp mới được đề
nghị lập ban hội thẩm. Đây thực chất là sự công nhận một "hành động phổ
biến" vì mọi thành viên WTO sẽ được coi là có quyền lợi mỗi khi có một hiệp
định nào trong phạm vi điều chỉnh của DSU bị vi phạm. Quan điểm rộng rãi
này là khá mới và gây tranh cãi vừa chưa từng có những khiếu nại kiểu này
dưới thời GATT.
Ngoài ra, bất kỳ thành viên WTO nào không liên quan đến tranh chấp
ban đầu cũng có thể tham gia bằng cách này hay cách khác. Trước hết, thành
viên đó "có quyền lợi cơ bản trong vụ việc đang được ban hội thẩm xem xét"
có cơ hội được trình bày bằng miệng và bằng văn bản. Thứ hai, "bên thứ ba"
đọc thể đưa ra một khiếu nại mới theo thủ tục giải quyết tranh cấp thông
thường. Mỗi khi "có thể", một ban hội thẩm sẽ xử lý cả hai (hoặc tất cả) các
khiếu nại liên quan đến một vấn đền.
5.4. Trung gian, hòa giải
DSU quy định các bên tranh chấp có thể tự nguyện sử dông trung gian,
hòa giải như một phương cách giải quyết. Việc này có thể bắt đầu hoặc chấm
dứt bất kỳ lúc nào. Tuy vậy, thỏa thuận sử dụng trung gian, hòa giải không
ngăn cản việc thành lập ban hội thẩm giải quyết tranh chấp. Bên khiếu nại
phải dành thời gian 60 ngày sau khi yêu cầu tham vấn trước khi yêu cầu lập
ban hội thẩm. Nếu các bên nhất trí, thủ tục trung gian, hòa giải có thể tiến
hành ngay cả sau khi đã lập ban hội thẩm.
10
Thông thường, Tổng Giám đốc WTO, với khả năng và thẩm quyền của
mình, sẽ đứng ra làm trung gian, hòa giải. Các thủ tục này tương tự nhau ở

chỗ một bên trung lập thứ ba sẽ tham gia giúp đỡ quá trình giải quyết tranh
chấp. Một người giúp đỡ chỉ đơn thuần là một kênh liên lạc chứ chưa phải là
một người tham gia tích cực vào giải quyết tranh chấp. Một người hòa giải
nghiên cứu vụ tranh chấp một cách độc lập và đưa ra đề xuất giải quyết bằng
văn bản. Một người trung gian là người tham gia tích cực vào quá trình giải
quyết tranh chấp, đưa các bên ngồi lại với nhau và thống nhất cách giải quyết
và kết thúc tranh chấp. Thực tế,ba thủ tục này có xu hướng lẫn với nhau. Các
thủ tục này có Ých không chỉ trong việc giải quyết các vấn đề pháp lý và thực
tiễn và cả các vấn đề không mang tính pháp lý mà quá trình xét xử không thể
giải quyết được.
5.5. Trọng tài
Các thành viên WTO có thể thỏa thuận sử dụng trọng tài như một
phương thức thay thế để giải quyết tranh chấp. Trong trường hợp đó, các bên
tranh chấp có thể xác định vấn đề và thủ tục cần tuân thủ. Mọi phán quyết
trọng tài khi đó đều có hiệu lực thông qua WTO. DSB và ché tài WTO có thể
được áp dụng nếu có bên không tuân thủ phán quyết.
6. Quá trình hội thẩm
Nếu tham vấn không giải quyết được tranh chấp trong vòng 60 ngày (20
ngày "trong những trường hợp gấp"), bên khiếu nại có thể yêu cầu lập ban hội
thẩm. Ban hội thẩm phải được thành lập tại phiên họp tiếp theo của DSB trừ
khi có quyết định đồng thuận không lập ban hội thẩm. Ban hội thẩm gồm 3
(đôi khi có 5) người là viên chức chính phủ hoặc phi chính phủ có trình độ và
được chọn từ một danh sách của Ban Thư ký. Các bên tranh chấp có 20 ngày
để thống nhất lùa chọn hội thẩm viên; nếu họ không nhất trí, Tổng Giám đốc
sẽ chỉ định hội thẩm viên. Các bên tranh chấp cũng có trường chung) không
được làm hội thẩm viên. Các bên tranh chấp cũng có 20 ngày kể từ khi thành
11
lập ban hội thẩm để thống nhất "quy chế làm việc" của ban hội thẩm; nếu
không, quy chế làm việc chuẩn sẽ được áp dụng.
Thông thường, có nhiều thành viên cùng đề nghị lập ban hội thẩm và

một vụ tranh chấp liên quan đến quyền lợi của nhiều thành viên. Trong những
trường hợp đó, một ban hội thẩm có thể xem xét tranh chấp của nhiều bên
khiếu nại, và các bên thứ ba có quyền lợi cũng có quyền được trình bày với
ban hội thẩm.
Chức năng của ban hội thẩm là giúp DSB giải quyết tranh chấp. Ban hội
thẩm làm việc theo một thời gian biểu thông thường không quá 6 tháng (3
tháng trong trường hợp gấp). Công tác của ban hội thẩm bao gồm: (1) các giải
trình bằng văn bản của các bên tranh chấp và các bên thứ ba và (2) họp (hoặc
nghe trình bày miệng) với các bên và các bên thứ ba.
Ban hội thẩm có thể tìm kiếm thông tin và tư vấn kỹ thuật từ các nguồn
thích hợp. Ngoài ra, ban hội thẩm sẽ dự thảo báo cáo cho các bên tranh chấp.
Sau khi ccs bên có ý kiến, ban hội thẩm chuẩn bị một báo cáo tạm thời gồm
có các số liệu, trích dẫn điều luật. Báo cáo tạm thời được gửi cho các bên và
các bên có thể yêu cầu triệu tập cuộc họp với ban hội thẩm để thảo luận các
vấn đề nêu ra. Tại giai đoạn cuối cùng của quá trình rà soát tạm thời, ban hội
thẩm soạn ra một báo cáo cối cùng và gửi đến DSB.
DSB có thể xem xét báo cáo 20 ngày sau khi báo cáo được gửi đến các
thành viên. Nếu có điểm không đồng tình, các bên phải nêu ra Ýt nhất 10
ngày trước khi DSB họp. Trong vòng 60 ngày sau khi trình báo cáo, DSB
phải thông qua trừ khi có sự đồng thuận không thông qua. Nếu một bên thông
báo quyết định kháng nghị, DSB có thể không xem báo cáo cho đến khi chấm
dứt kháng nghị.
7. Quá trình kháng nghị
Các bên tranh chấp (không tính các bên thứ ba) có thể kháng nghị báo
cáo của ban hội thẩm lên một Cơ quan Phóc thẩm gồm 7 thành viên được lập
12
ra để tiếp nhận kháng nghị. Cơ quan Phóc thẩm chia thành nhóm 3 người.
Các thành viên Cơ quan Phóc thẩm được bổ nhiệm với nhiệm kỳ 4 năm và
không được liên quan tới bất kỳ chính phủ nào. Cơ quan Phóc thẩm có quyền
ủng hộ, sửa đổi hoặc bác bỏ những diễn giải pháp lý của ban hội thẩm. Nói

chung, quá trình kháng nghị phải hoàn thành trong vòng 60 ngày nhưng trong
trường hợp nào cũng không vượt quá 90 ngày. Trong vòng 30 ngày sau khi
báo cáo của Cơ quan Phóc thẩm được gửi đi, báo cáo này phải được DSB
thông qua và "được các bên tranh chấp chấp nhận không điều kiện", trừ khi
DSB đồn thuận không thông qua báo cáo.
8. Thực hiện
Bên thua kiện phải thông báo cho DSB về ý định "thực hiện khuyến nghị
và phần của DSB" trong vòng 30 ngày kể từ ngày thông qua báo cáo của ban
hội thẩm hoặc Cơ quan Phóc thẩm.
8.1. Thời gian hợp lý cho việc thực hiện
Bên thua kiện có nghĩa vụ tuân thủ các khuyến nghị và phán xử của DSB
trong một khoảng "thời gian hợp lý".
Thế nào là khoảng thời gian hợp lý được xác định tại Điều 21.3. của
DSU theo mét trong ba phương pháp sau:
- Khoảng thời gian do DSB định ra theo đề nghị của thành viên có liên
quan;
- Khoảng thời thang do các bên tranh chấp thống nhất.
- Khoảng thời gian do trọng tài xác định trong vòng 90 ngày sau khi
thông qua báo cáo. Trong trường hợp này, thời gian đề xuất sẽ không quá 15
tháng kể từ ngày thông qua báo cáo nhưng có thể ngắn hơn dài hơn tùy theo
hoàn cảnh.
8.2. Tuân thủ và vấn đề "trình tự:
Một vấn đề phát sinh khi thực hiện khuyến nghị và phán xử giải quyết
13
tranh chấp WTO là việc thiếu hướng dẫn bên thua kiện cần phải làm cụ thể
những gì. Xu hướng là biên thua kiện thường chỉ có hành động tối thiểu và
tuyên bố là đã tuân thủ đầy đủ. Bên thắng kiện thường không đồng tình. Một
giải phá là đưa vấn đề lên ban hội thẩm tuân theo Điều 21.5 của DSU.
Sự rắc rối giữa các quy định của các Điều 21 và 22 DSU là vấn đề "trình
tự".

Vấn đề này nảy sinh do thiếu sự gắn kết giữa hai Điều. Trước hết, Điều
21.5 quy định thủ tục tuân thủ:
Khi có sự không nhất trí do tính nhất quán giữa hiệp định được điều
chỉnh với biện pháp được tiến hành để tuân thủ khuyến nghị và phán xử, tranh
chấp đó phải được quyết định qua 3 thủ tục giải quyết tranh chấp, kể cả việc
dùa vào ban hội thẩm ban đầu. Ban hội thẩm sẽ gửi báo cáo trong vòng 90
ngày sau khi vấn để được đưa ra. Khi ban hội thẩm cho rằng họ không thể ra
báo cáo trong thời hạn này, họ sẽ thông báo cho DBS bằng văn bản về lý do
chậm trễ cùng với dự kiến thời gian họ sẽ trình báo cáo.
Tuy vậy, Điều 22.2 quy định nếu bên thua kiện không thể khắc phục
biện pháp vi phạm trong vòng 20 ngày sau khi thời gian hợp lý nêu tại Điều
21.3 cho phép, bên thắng kiện có thể yêu cầu DSB cho phép trả đũa bằng việc
ngừng ưu đãi. Việc triệu tập một ban hội thẩm tuân thủ theo điều 21.5 không
được nêu ra. Thay vào đó, Điều 22.6 chỉ ra rằng DSB phải cho phép ngừng ưu
đãi trong vòng 30 ngày sau khi hết thời hạn hợp lý hoặc đưa vấn đề ra trọng
tài và phán quyết của trọng tài sẽ là chung cuộc.
9. Bồi thường cho việc không tuân thủ và vấn đề trả đũa
Nếu các khuyến nghị và phán xử của DSB không được thực hiện trong
khoảng thời gian hợp lý, có hai chế tài có thể áp dụng: bồi thường và trả đũa
(hay ngừng ưu đãi). Cả hai lệnh trừng phạt đều tạm thời. Không có trừng phạt
nào được coi là sự thay thế cho việc thực thi một khuyến nghị hay mét quy
định của các hiệp định WTO.
14
Sự lùa chọn trừng phạt thứ nhất là bồi thường. Bồi thường bao gồm
những ưu đãi thương mại bổ sung do bên thua áp dụng, thông thường trong
các lĩnh vực kinh tế liên quan tới tranh chấp, được bên thắng chấp nhận như
thay thế cho việc duy trì các rào cản thương mại đang tra.
15
KẾT LUẬN
Như đã phân tích ở trên, quá trình phát triển thương mại thế giới sẽ gắn

liền với việc nảy sinh những tranh chấp trong thương mại. Qua các số liệu
thực tế cho thấy, các vụ tranh chấp thương mại có xu hướng ngày càng tăng.
Vì vậy, việc có một cơ chế giải quyết cá tranh chấp thương mạ để thương mại
thế giới phát triển một cách lành mạnh là hết sức cần thiết. Qua bài viết chúng
ta đã có một cái nhìn khái quát về cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại từ
khi có hiệp định GATT năm 1947. Và chúng ta cũng đã có cái nhìn khái quát
về cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại theo những quy định của tổ chức
thương mại thế giới.
Khi Việt Nam tham gia tổ chức thương mại thế giới, một trong những
cái được của chúng ta là chúng ta có thể sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp
của WTO để có thể tham gia các vụ kiện thương mại quốc tế. Với việc chúng
ta chuẩn bị tốt cho quá trình hội nhập, việc nghiên cứu kỹ lưỡng các quy định
của WTO, tất cả chúng ta đều tin tưởng rằng Việt Nam sẽ hội nhập kinh tế
quốc tế thành công, chúng ta sẽ thu được nhiều lơi Ých từ sân chơi chung
này.

16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật thương mại quốc tế -Trường đại học luật Hà Nội - 2006.
2. Giáo trình Quan hệ kinh tế quốc tế - Trường đại học luật Hà Nội - 2004.
3. Hiệp định chung về thuế quan và thương mại - GATT.
4. Thỏa thuận về các quy tắc và Thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp
- DSU.
17
MỤC LỤC
TI U LU NỂ Ậ 1
TH NG M I QU C TƯƠ Ạ Ố Ế 1
t i:Đề à 1
18

×