LỜI MỞ ĐẦU
Hoạt động bảo hộ bằng sáng chế đã có trên thế giới từ lâu và được thực
hiện thông qua Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền
sở hữu trí tuệ (TRIPS) của WTO, song ở Việt Nam hoạt động này còn khá mới
mẻ và chưa được thực hiện một cách có hệ thống, còn nhiều vi phạm xảy ra mà
không có cách giải quyết triệt để. Do đó, cùng với xu thế toàn cầu hoá mạnh mẽ
như hiện nay, để nhanh chóng hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là nhằm mục
tiêu gia nhập tổ chức Thương mại thế giới WTO, Việt Nam đã và đang có những
biện pháp hết sức tích cực để đưa ra một chương trình tổng thể cho hoạt động
bảo hộ bằng sáng chế. Mục đích của chương trình này là nhằm bảo vệ quyền lợi
cho các nhà sáng chế, khuyến khích họ không ngừng phát huy sáng tạo, đồng
thời trên cơ sở đó, tạo một nền tảng pháp lý vững chắc cho các sản phẩm của
Việt Nam trên thị trường trong và ngoài nước, nâng cao vị thế của các doanh
nghiệp Việt Nam khi gia nhập WTO vào năm 2006 tới.
Tiểu luận được thực hiện thông qua việc kết hợp phương pháp duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử với phương pháp so sánh, thống kê phân tích để từ đó
đưa ra được nhận định về thực trạng, những khó khăn, thách thức cũng như tìm
ra hướng đi cho vấn đề bảo hộ bằng sáng chế của Việt Nam trong thời gian tới.
Tiểu luận được chia làm 3 chương, cụ thể là:
Chương I: Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền
sở hữu trí tuệ của WTO và vấn đề bảo hộ bằng sáng chế
Chương II: Những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam
Chương III: Một số đề xuất và kiến nghị
1
CHƯƠNG I: HIỆP ĐỊNH VỀ CÁC KHÍA CẠNH LIÊN QUAN
ĐẾN THƯƠNG MẠI CỦA QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ (TRIPS)
CỦA WTO VÀ VẤN ĐỀ BẢO HỘ BẰNG SÁNG CHẾ
1. Hiệp định TRIPS
1.1. Hiệp định TRIPS trong phạm vi WTO
Sở hữu trí tuệ là một vấn đề xuất hiện từ rất sớm, ngay từ năm đầu thế kỷ
19 đã tồn tại nhiều điều ước đa phương về sở hữư trí tuệ nh Công ước Paris,
Công ước Berne (1886), Công ước Rome (1961)… Từ những năm 1980 trở lại
đây, sở hữu trí tuệ trở thành mối quan tâm thường xuyên và là điều kiện để tham
gia các thể chế thương mại quốc tế. Sở hữu trí tuệ trở thành một tư duy mới trên
góc độ thương mại. Hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ của các quốc gia được xem
xét, đánh giá lại và bị đòi hỏi phải tuân thủ theo các tiêu chuẩn quốc tế thống
nhất. Ngày 15/4/1994, trong khuôn khổ WTO, một điều ước quốc tế về sở hữu
trí tuệ ra đời đó là Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của các
quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPS). Hiệp định này có hiệu lực từ 1/1/1995,
cùng lúc với GATT chính thức trở thành WTO, và nhanh chóng trở thành một
trong những hoạt động chính của WTO và được bên ngoài nhắc đến nhiều nhất.
Mỗi địa hạt đều bị chi phối bởi những điều lệ cơ bản của WTO (quy chế tối huệ
quốc và quy chế công dân thương mại) và ba quy tắc quan trọng:
Qui tắc chuẩn: TRIPS đặt ra những chuẩn tối thiểu mà các nước phải áp
dụng, và định nghĩa những yếu tố của sự bảo vệ, nh nội dung cần bảo vệ, các
quyền lợi đi kèm và ngoại lệ, và thời gian tối thiểu của sự bảo vệ. Hiệp ước cũng
khẳng định là ba văn kiện chính của WIPO - các công ước Paris, Berne và Rome
- bắt buộc phải được áp dụng trong khuôn khổ TRIPS, lấy lại các điều lệ chính
của công ước và bổ sung những điểm thiếu sót. TRIPS do đó có khi còn được
gọi là hiệp ước “Berne and Paris-plus” .
Qui tắc cưỡng bức thi hành (Enforcement): TRIPS Ên định các nguyên tắc
chung cho các thủ tục nội địa và phương pháp bổ cứu (remedies) nhằm làm tôn
2
trọng các quyền sở hữu, quy định một cách khá chi tiết các thủ tục tố tụng hành
chính, hình sự và dân sự, các biện pháp tạm thời và biện pháp áp dụng tại các
biên giới quốc gia.
Qui tắc giải quyết tranh chấp: Những tranh chấp giữa các thành viên liên
quan đến những quy định về TRIPS đều phải giải quyết qua hệ thống giải quyết
tranh chấp của WTO. Cho tới nay, có khoảng 10% các vụ kiện trước WTO liên
quan đến TRIPS.
Hai nguyên tắc chủ yếu của TRIPS:
Đãi tối huệ quốc đối với việc bảo hộ sở hữu trí tuệ, bất kỳ một sự ưu tiên,
chiếu cố, đặc quyền, hoặc sự miễn trừ nào được một thành viên dành cho công
dân của bất kỳ một thành viên nào khác cũng phải được lập tức và vô điều kiện
dành cho công dân tất cả các thành viên khác.
Đãi ngộ quốc gia mỗi thành viên chấp nhận cho công dân của các thành
viên khác sự đối xử không kém thuận lợi hơn so với sự đối xử mà thành viên đó
dành cho công dân của mình trong việc bảo hộ quyền sở hưu trí tuệ. Tuy nhiên,
các nguyên tắc này cũng còn ngoại lệ, theo đó các thành viên có thể dùa vào để
miễn trừ các nghĩa vụ tuân thủ hiệp định TRIPS. Cụ thể các nước phát triển
được phép trì hoãn thực hiện hiệp định trong vòng 1 năm kể từ ngày hiệp định
có hiệu lực. Thời gian này đối với các nước đang phát triển là 5 năm và các
nước kém phát triển là 11 năm.
1.2. Nguyên nhân ra đời của Hiệp định TRIPS
Mỗi hiệp định khi ra đời đều có lÝ do và đều nhằm điều chỉnh một lĩnh vực
của đời sống kinh tế thế giới. Đối với lĩnh vực sở hữu trí tuệ, hiệp định TRIPS ra
đời đã đánh dấu một bước ngoặt lớn, và được hình thành trên cơ sở các đòi hỏi
sau:
Một là, do hàm lượng trí tuệ ngày càng tăng cao hơn so với hàm lượng tài
nguyên và lao động trong giá trị sản phẩm và dịch vụ, thậm chí nhiều ngành mới
như công nghệ thông tin chỉ chủ yếu dùa trên khai thác trí tuệ.
3
Hai là, cuộc đua nhằm giành giật và giữ thị trường chủ yếu dùa trên cơ sở
đua tranh đầu tư cho sáng tạo trí tuệ.
Ba là, tài sản trí tuệ được xem là thành quả của đầu tư và trở thành một bộ
phận của hoạt động thương mại. Bên cạnh đó, hoạt động đánh cắp các tài sản trí
tuệ ngày càng phổ biến và trầm trọng.
Bốn là, việc sao chép và bán các sản phẩm hàng nhái, hàng giả đã trở thành
vấn nạn quốc tế.
1.3. Mục đích của Hiệp định TRIPS
Thứ nhất, nhằm mục đích bảo hộ sở hữu trí tuệ.
Thứ hai, ngăn chặn một cách hữu hiệu nguy cơ xâm hại tài sản trí tuệ mang
tầm quốc tế.
2. Vấn đề bảo hộ bằng sáng chế
Bảo hộ bằng sáng chế là việc dành cho chủ sở hữu độc quyền sử dụng đối
tượng sở hữu bằng sáng chế đã được bảo hộ nhằm mục đích kinh doanh và khai
thác đối tượng sáng tạo của mình cũng như các hoạt động khác.
Để được bảo hộ độc quyền sáng chế, giải pháp kỹ thuật phải đáp ứng các
điều kiện sau:
Một là, giải pháp kỹ thuật có thể là cơ cấu (chi tiết, cụm chi tiết, máy, thiết
bị, hệ thống điện và điện tử, sản phẩm phục vụ đời sống và sản xuất), chất (vật
liệu, vật chất thu được bằng các phương pháp bất kỳ) và phương pháp (phương
pháp khai thác, xử lý, chế biến, bảo quản, qui trình công nghệ).
Hai là, giải pháp kỹ thuật phải đạt được mục tiêu cụ thể (đạt được một
chức năng kỹ thuật hoặc giải quyết được một vấn đề do nhu cầu con người đặt
ra).
Ba là, giảp pháp kỹ thuật phải đáp ứng các tiêu chuẩn về tính mới, tính
sáng tạo và có khả năng đáp ứng công nghiệp. Việc đánh giá tính mới và trình
độ sáng tạo của một giải pháp kỹ thuật liên quan chặt chẽ tới khái niệm “ngày
ưu tiên”.
4
Bốn là, giải pháp kỹ thuật được coi là mới so với trình độ kỹ thuật của thế
giới nếu trước ngày ưu tiên giải pháp kỹ thuật đó chưa được bộc lé công khai
dưới bất kỳ hình thức nào và bất kỳ nơi nào trên thế giới.
Năm là, giải pháp kỹ thuật được coi là có trình độ sáng tạo, nghĩa là giải
pháp kỹ thuật đó phải là kết quả của hoạt động sáng tạo và không được coi là
nảy sinh một cách hiển nhiên tại ngày ưu tiên đối với người có trình độ trung
bình trong lĩnh vực kỹ thuật tương ứng.
Sáu là, giải pháp kỹ thuật được công nhận là có khả năng áp dụng nếu căn
cứ vào bản chất của giải pháp được mô tả trong đơn yêu cầu cấp bằng độc quyền
sáng chế, giải pháp hữu Ých, có thể thực hiện được giải pháp đó trong điều kiện
kỹ thuật hiện tại và tương lai và thu được kết quả như được mô tả trong đơn yêu
cầu cấp bằng độc quyền.
Tiêu chuẩn bảo hộ về tính mới, tính sáng tạo của giải pháp kỹ thuật được
bảo hộ theo luật sở hữu công nghiệp hiện hành của Việt Nam hoàn toàn tương
ứng tự luật sở hữu công nghiệp của các nước trên thế giới. Các tiêu chuẩn này là
để mỗi sáng chế được bảo hộ sẽ bổ sung cho nền công nghệ của thế giới một
tiến bộ kỹ thuật mới, khác với sáng chế đã được bảo hộ trong cùng một lĩnh vực
công nghệ.
3. Nội dung những quy định của WTO về bảo hộ bằng sáng chế
Bảo hộ bằng sáng chế là một lĩnh vực rất được quan tâm trong các hiệp
định kí kết của WTO, do đó, những qui định áp dụng cho vấn đề này đựơc đề ra
hết sức nghiêm túc và chặt chẽ, đòi hỏi các nước thành viên khi tham gia kí kết
phải nghiêm chỉnh thực hiện. Nội dung của WTO về bảo hộ bằng sáng chế bao
gồm một số điểm cơ bản sau:
3.1. Đối tượng được cấp văn bằng phát minh sáng chế
WTO qui định văn bằng phát minh sáng chế được cấp cho bất kỳ một sáng
chế nào, dù là sản phẩm hoặc quy trình, thuộc mọi lĩnh vực cộng nghệ với điều
kiện sáng chế đó phải mới, có trình độ sáng tạo và có khả năng áp dụng công
5
nghiệp, không phân biệt nơi tạo ra sáng chế, lĩnh vực công nghệ và là sản phẩm
nhập khẩu hoặc được sản xuất trong nước.
Các thành viên có thể không cấp văn bằng cho những sáng chế cần phải bị
cấm khai thác nhằm mục đích thương mại trong lãnh thổ của mình để bảo vệ trật
tự công cộng hoặc đạo đức xã hội, bao gồm cả việc bảo vệ cuộc sống, sức khoẻ
của người và động vật hoặc thực vật hoặc để tránh gây tổn hại nghiêm trọng cho
môi trường, với điều kiện lÝ do cấm không được căn cứ vào lÝ do duy nhất là
việc khai thác các sáng chế này bị pháp luật của nước mình ngăn cấm.
3.2. Các quyền được hưởng
Văn bằng phải xác nhận các độc quyền sau đây của chủ sở hữu văn bằng:
Thứ nhất, nếu đối tượng của văn bằng là một sản phẩm, trong trường hợp
không được chủ sở hữu văn bằng chấp thuận, cấm các bên thứ ba thực hiện các
hành vi sau: chế tạo, sử dụng, chào bán, bán hoặc nhập khẩu sản phẩm để thực
hiện các mục đích trên.
Thứ hai, nếu đối tượng của văn bằng là một quy trình, trong trường hợp
không được chủ sở hữu văn bằng chấp thuận, cấm các bên thứ ba thực hiện
hành vi sử dụng quy trình đó và các hành vi sau đây: sử dụng, chào bán, bán
hoặc nhập khẩu nhằm các mục đích trên Ýt nhất đối với các sản phẩm đã được
tạo ra trực tiếp bằng quy trình đó.
Chủ sở hữu văn bằng có quyền sang nhượng, thừa kế văn bằng và kí kết
hợp đồng li-xăng.
3.3. Điều kiện đối với người nép đơn xin cấp văn bằng
Các thành viên yêu cầu người nép đơn xin cấp văn bằng trình bày sáng chế
một cách rõ ràng và đầy đủ đến mức căn cứ vào đó một chyên gia trong lĩnh
vực kỹ thuật tương ứng có thể thực hiện sáng chế và có thể yêu cầu người nép
đơn chỉ ra cách thức tối ưu trong số cách thức thực hiện sáng chế mà tác giả
sáng chế biết đến tính từ ngày nép đơn, hoặc tính đến ngày ưu tiên của đơn nếu
có yêu cầu hưởng quyền ưu tiên.
3.4. Ngoại lệ đối với các quyền được hưởng
6
Các thành viên có thể quy định một số ngoại lệ nhất định đối với các đặc
quyền được hưởng trên cơ sở văn bằng với điều kiện là các ngoại lệ đó không
mâu thuẫn với việc khai thác bình thường văn bằng này và không làm tổn hại
một cách bất hợp lí tới lợi Ých hợp pháp của chủ sở hữu văn bằng, có tính đến
lợi Ých hợp pháp của bên thứ ba.
3.5. Hình thức sử dụng khác không được phép của người giữ quyền
Trường hợp pháp luật của một thành viên cho phép việc sử dụng đối tượng
văn bằng dưới hình thức khác khi không được phép của người giữ quyền, bao
gồm cả việc chính phủ hoặc bên thứ ba được chính phủ cho phép sử dụng, các
quy định sau đây phải được tuân thủ:
Thứ nhất, việc cho phép sử dụng phải căn cứ vào lợi Ých cụ thể.
Thứ hai, việc sử dụng này chỉ được phép nếu, trước khi sử dụng, người đề
nghị đã cố gắng xin phép người giữ quyền cùng với các điều khoản và điều kiện
thương mại hợp lí nhưng sau một thời gian nhất định, những cố gắng này vẫn
không đem lại kết quả. Yêu cầu này có thể được một thành viên bỏ qua trong
tình trạng khẩn cấp quốc gia hoặc các trường hợp đặc biệt hoặc cấp bách khác
hoặc trong các trường hợp sử dụng vào mục đích công cộng, không nhằm mục
đích thương mại.
Thứ ba, phạm vi và thời hạn sử dụng được giới hạn trong nội dung mục
đích cho phép sử dụng mục đích với công nghệ bán dẫn, chỉ được cấp phép sử
dụng vào mục đích công cộng, không nhằm mục đích thương mại hoặc nhằm
khắc phục hành vi mà cơ quan tư pháp hoặc cơ quan hành chính coi là phản
cạnh tranh.
Thứ tư, việc sử dụng này không thuộc đặc quyền sử dụng.
Thứ năm, việc sử dụng này không được chuyển nhượng, trừ trường hợp
chuyển nhượng cùng với bộ phận của doanh nghiệp hoặc cơ sở kinh doanh được
hưởng quyền sử dụng đó.
Thứ sáu, việc cho phép sử dụng chủ yếu nhằm cung cấp cho thị trường nội
địa của thành viên cho phép.
7
Thứ bảy, việc cho phép sử dụng bị chấm dứt khi các điều kiện dẫn cấp
phép không còn tồn tại và không còn khả năng tái hiện nhưng cũng phải bảo vệ
một cách thoả đáng lợi Ých hợp pháp của những người sử dụng. Khi được yêu
cầu cơ quan có thẩm quyền có quyền xem xét lại sự tiếp tục tồn tại của các điều
kiện này.
Thứ tám, hiệu lực pháp lí liên quan đến quyết định cho phép sử dụng là đối
tượng được xem xét lại theo thủ tục tư pháp hoặc thủ tục độc lập khác tại cơ
quan cấp cao hơn tại thành viên đó.
Thứ chín, quyết định liên quan đến đoạn khoản đền bù cho việc sử dụng sẽ
là đối tượng được xem xét lại theo các rà soát tư pháp hoặc các rà soát độc lập
khác tại cơ quan cấp cao hơn tại thành viên.
Thứ mười, các thành viên không có nghĩa vụ phải áp dụng các điều kiện
quy định tại các đoạn 2 và 6 của điều này trong trường hợp cho phép sử dụng để
khắc phục những hành vi bị cơ quan tư pháp hoặc hành chính coi là phản cạnh
tranh.
Mười mét, trường hợp cho phép sử dụng văn bằng (được coi nh cấp văn
bằng thứ hai) chắc chắn sẽ gây hại đến văn bằng thứ nhất, các điều kiện bổ sung
sau đây sẽ được áp dụng:
Sáng chế thuộc văn bằng thứ hai phải là một bước tiến bộ kĩ thuật quan
trọng có ý nghĩa kinh tế đáng kể so với sáng chế thuộc văn bằng thứ nhất.
Người giữ quyền thứ nhất phải được cấp giấy phép đầy đủ với những điều
kiện hợp lí để sử dụng sáng chế thuộc văn bằng thứ hai.
3.6. Huỷ bỏ, đình chỉ
Thành viên phải tạo cơ hội để mọi quyết định huỷ bỏ hoặc đình chỉ hiệu lực
văn bằng đều có thể được xem xét lại theo thủ tục tư pháp.
3.7. Thời hạn bảo hộ
Thời hạn bảo hộ theo quy định là 20 năm tính từ ngày nép đơn.
3.8. Sáng chế quy trình: nghĩa vụ chứng minh
8
Nếu đối tượng của văn bằng là quy trình chế tạo một loại sản phẩm, các cơ
quan tư pháp có quyền yêu cầu bị đơn chứng minh rằng quy trình được áp dụng
để sản xuất loại sản phẩm giống hệt này không phải là quy trình đã được cấp văn
bằng vì vậy, Ýt nhất một trong số các trường hợp nêu dưới đây, các thành viên
phải quy định rằng bất kỳ một sản phẩm giống hệt nào nói trên được sản xuất
mà không có sự đồng ý của người giữ quyền đều được coi là sản phẩm từ quy
trình đã được cấp văn bằng trừ trường hợp chứng minh ngược lại.
9
CHƯƠNG II: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆT Nam
1. Những tồn tại và thách thức trong việc thực hiện bảo hộ bằng sáng
chế của Việt Nam hiện nay
Hiện nay, quá trình quốc tế hoá diễn ra ngày càng nhanh, trong khi đó hệ
thống bảo hộ bằng sáng chế của Việt Nam mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng lại
đạt kết quả không như mong muốn, nếu như không nói là còn quá yếu kém.
Tình hình này đã đặt việc thực hiện của Việt Nam theo hiệp định TRIPS vào thế
khó khăn. Trước mục tiêu phấn đấu gia nhập WTO vào năm 2005, Việt Nam
phải vượt qua nhiều vòng đàm phán quan trọng, trong đó, việc được công nhận
các chính sách, pháp luật về bảo hộ bằng sáng chế theo các điều kiện của WTO
là những thách thức không dễ vượt qua.
Việt Nam đã nép đơn xin gia nhập tổ chức WTO từ năm 1995, khi đó hệ
thống bảo hộ bằng sáng chế vận hành chủ yếu trên cơ sở các văn bản dưới luật
nh: Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Vào thời kì đó, biện pháp xử lí
các xâm phạm bảo hộ sáng chế chủ yếu là biện pháp hành chính. Mặc dù về mặt
nguyên tắc, toà án sẵn sàng xét xử các tranh chấp và các vụ kiện về bằng sáng
chế nhưng do các qui định pháp luật chưa phải là luật, toà án lại chưa có kinh
nghiệm trong xét xử các vụ án kiểu này, vì vậy việc tham gia xét xử của toà án
trên các văn bản pháp luật đã ban hành còn rất hạn chế. Theo đánh giá của Bộ
Khoa học và công nghệ, vào thời điểm nép đơn xin gia nhập WTO, hệ thống
pháp luật về bảo hộ bằng sáng chế còng nh sở hữu trí tuệ còn nhiều điểm chưa
phù hợp. Một loạt các đối tượng được đề cập đến trong hiệp định TRIPS chưa
được bảo hộ tại Việt Nam nh: thông tin bí mật, chỉ dẫn địa lí, thiết kế bố trí
mạch tích hợp, quyền chống cạnh tranh không lành mạnh… Ngay cả những đối
tượng đã được pháp luật bảo hộ như sáng chế cũng có những vấn đề bất cập, ví
dụ: thời gian bảo hộ sáng chế của Việt Nam là 15 năm, trong khi WTO qui định
là 20 năm. Để phù hợp với các qui định của TRIPS, Việt Nam còn rất nhiều việc
phải làm đối với hệ thống bảo hộ bằng sáng chế đề có thể sớm hội đủ các điều
kiện gia nhập WTO. Khởi động cho kế hoạch này, Việt Nam đã xây dựng
10
chương trình hành động về sở hữu trí tuệ. Mục tiêu tổng quát của chương trình
này là phấn đấu để thiết lập hệ thống sở hữu trí tuệ của Việt Nam phù hợp với
TRIPS vào ngày 1/1/2000. Bước khởi đầu quan trọng là việc ban hành Bộ luật
dân sự năm 1995 gồm 61 điều về sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, Bộ luật dân sự mới
chỉ đề cập đến những đối tượng đã nêu trong hai pháp lệnh là pháp lệnh bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp ở trên và pháp lệnh bảo hộ quyền tác giả (ban hành
năm 1994), còn các đối tượng khác trong qui định của TRIPS chỉ đựơc nêu
chung chung trong cụm từ “những đối tượng khác”. Từ đó ta có thể thấy, dù đã
nỗ lực để cải thiện hệ thống luật pháp cho phù hợp với qui định của WTO, song
ngay từ khi ban hành các văn bản pháp luật, Việt Nam đã thể hiện sự thiếu triệt
để trong việc tiếp cận và nội dung thực hiện hiệp định.
Một văn bản cũng đề cập đến vấn đề thực thi quyền bảo hộ sáng chế là
Luật Hải quan. Với những nỗ lực trong xây dựng chính sách, quá trình đàm
phán về nội dung sở hữu trí tuệ nhằm đưa Việt Nam gia nhập WTO đã vượt qua
được giai đoạn quan trọng là “minh bạch hoá chính sách”. Trong nhiều phiên
đàm phán mới nhất, một số thành viên của Mỹ, Australia, Thuỵ Sĩ, EU đã nhận
xét: “Việt Nam đã ban hành được nhiều văn bản về sở hữu trí tụê, nhưng thách
thức lớn nhất của Việt Nam hiện nay là thực thi các văn bản pháp luật đó thế nào
cho có hiệu quả”. Theo Bé Khoa học và công nghệ, hệ thống văn bản pháp lý
Việt Nam về sở hữu trí tuệ và bảo hộ sáng chế còn chưa đáp ứng đựơc những
đòi hỏi của các qui tắc mang tính quốc tế. Đơn cử nh việc bảo hộ patent còn
thiếu tính qui định về việc bên bị coi là xâm phạm quyền patent đối với qui
trình phải chứng minh được qui trình của mình khác với qui định thuộc patent.
Cho đến nay, Việt Nam vẫn áp dụng cơ chế hai giá về phí và lệ phí, nh vậy
là duy trì chế độ phân biệt đối xử trong chính sách về giá sở hữu công nghiệp
giữa công dân Việt Nam với công dân nước ngoài.
Chóng ta cùng còn phải kể đến tình trạng do không đăng kí bảo hộ sáng
chế về nhãn hiệu hàng hoá mà trong thời gian qua, một số nhãn hiệu, thương
hiệu hàng hoá của các doanh nghiệp Việt Nam đã bị một số doanh nghiệp nước
11
ngoài đăng kí với cơ quan sở hữu trí tuệ trước khi doanh nghiệp Việt Nam tìm
đến thị trường nước đó. Trường hợp nhãn hiệu Vinataba của Việt Nam là một ví
dụ. Mặc dù thương hiệu của Vinataba đã xuất xứ từ lâu và đã đăng kí bảo hộ tại
Việt Nam từ năm 1995 nhưng lại bị công ty P.T Rutrabat Industry của Indonesia
đăng kí ở 12 nước, trong đó có 9 nước thuộc khu vực ASEAN. Thương hiệu cà
phê Trung Nguyên khi chuẩn bị vào làm ăn ở Mỹ thì cũng bị công ty Rice Field
Corp của Mỹ đã đăng kí nhãn hiệu Trung Nguyên. Gần đây, sản phẩm của công
ty nước mắm Phú Quốc Hưng Thành xuất sang Pháp, Mỹ cũng gặp nước mắm
nhãn hiệu “Phú Quốc” của Thái Lan đựơc bày bán rất nhiều. Hoặc như, trước
khi Vifon Việt Nam sang Mỹ, một công ty của Nhật Bản là Acecook Kabushiki
Kaisha nép đơn đăng kí hai nhãn hiệu “Vifon” và “Vifon Acecook” tại Mỹ và cơ
quan Sáng chế Nhãn hiệu hàng hoá của Mỹ (USPTO) đã cấp các văn bằng độc
quyền cho hai nhãn hiệu này. Vì thế, khi công ty Vifon của Việt Nam nép đơn
đăng kí nhãn hiệu của mình tại USPTO thì đã bị từ chối vì đệ đơn chậm…
2. Nguyên nhân những tồn tại trong việc thực hiện bảo hộ bằng sáng
chế
Sở dĩ trong quá trình thực hiện các văn bản pháp luật về sở hữu trí tuệ cũng
như bảo hộ bằng sáng chế của Việt Nam còn gặp nhiều vướng mắc là do các lÝ
do cơ bản sau:
Thứ nhất, chế độ bảo hộ bằng sáng chế ở Việt Nam mới hình thành và phát
triển trong khoảng 20 năm gần đây nên còn rất mới mẻ đối với các doanh nghiệp
cũng như các nhà sáng tạo Việt Nam. Nhiều nhà sáng chế thậm chí còn không
biết là đã có những văn bản bảo hộ sáng chế của họ, đảm bảo lợi Ých cho họ
nên chưa khuyến khích được họ tăng cường hoạt động nghiên cứu khoa học
công nghệ. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng chưa nhận thức đựơc ảnh
hưởng của bảo hộ bằng sáng chế đến tính cạnh tranh cho sản phẩm của mình
trên thị trường trong nước cũng như nước ngoài. Sự yếu kém còn thể hiện ở số
lượt người khai thác thông tin rất thấp (khoảng một nghìn lượt người một năm
trong phạm vi cả nước).
12
Thứ hai, sự hiểu biết của toàn xã hội về bảo hộ sở hữu trí tuệ và bảo hộ
bằng sáng chế còn hạn chế, các chủ thể sở hữu chưa thực hiện việc bảo vệ quyền
và tài sản của mình, trong nhận thức của nhiều người vẫn còn tồn tại quan niệm
sở hữu nhà nước, sử dụng khai thác tập thể, miễn phí, mang nặng tâm lí trông
chờ, ỷ lại vào nhà nước, vì thế chưa có ý thức bảo vệ và khai thác có hiệu quả
các sản phẩm sáng tạo của mình như một tài sản thuộc quyền sở hữu cá nhân.
Thứ ba, quan hệ giữa các viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp
thiếu chặt chẽ trong hoạt động nghiên cứu, ứng dụng do còn nặng tính bao cấp
của nhà nước. Nhiều công trình nghiên cứu tốn kém, chi phí lớn, hiệu quả thấp,
đôi khi còn nghiên cứu lại những giải pháp mà thế giới đã làm từ lâu.
Thứ tư, hệ thống tư liệu sáng chế của Việt Nam mới được cập nhật bổ sung
nhưng hầu hết là bằng tiếng nước ngoài, việc truy cập thông tin để khai thác
thương mại như ở trung tâm thông tin khoa học công nghệ thành phố Hồ Chí
Minh còn hạn chế, thiếu các công cụ tra cứu tương thích.
Thứ năm, Việt Nam còn thiếu những tổ chức có đủ năng lực làm đầu mối
kết hợp giữa các viện nghiên cứu, các trường đại học và các doanh nghiệp cũng
như sự hạn chế các tổ chức có khả năng thực hiện việc xác định giá trị các tài
sản sở hữu trí tuệ nhằm giúp các doanh nghiệp và các nhà sáng tạo thuận lợi hơn
trong đàm phán với nhau cũng như đàm phán và ký kết hợp đồng với các đối tác
nước ngoài.
Thứ sáu, mặc dù các quy phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ mà chúng ta đã
ban hành và ký với các nước về cơ bản là đầy đủ và phù hợp các chuẩn mực
quốc tế, nhưng trong thực tế việc vi phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ và xâm
phạm tài sản trí tuệ có những biểu hiện đáng lo ngại. Nói cách khác là nước ta
chưa có một cuộc điều tra tổng hợp nào về tình hình vi phạm xâm phạm sở hữu
trí tuệ cũng như bảo hộ bằng sáng chế. Cơ chế bảo đảm thực thi quyền sở hữu trí
tuệ chưa được hoàn thiện và chưa phát huy đúng mức. Mặc dù hiện nay trong
các văn bản pháp luật của nước ta đã có đầy đủ ba biện pháp chế tài: dân sự,
hành chính, hình sự, nhưng trong các văn bản còn thiếu những quy định cụ thể
13
để áp dụng các biện pháp đó. Vai trò chủ đạo của biện pháp chế tài dân sự chưa
được phát huy mà chỉ mới thực hiện biện pháp hành chính, khiến cho cơ chế
thực thi chưa phát huy hết tác dụng, cho tới nay, số vụ việc đựơc giải quyết
trước toà còn rất Ýt.
Chương III: một số đề xuất và kiến nghị
Trên cơ sở phân tích những khó khăn, tồn tại kể trên, thiết nghĩ Chính phủ
Việt Nam và bản thân các doanh nghiệp cần phải có cách nhìn đúng đắn hơn
trong việc ban hành và thực thi các văn bản pháp luật có liên quan đến quyền sở
hữu trí tuệ. Để làm được điều này và chuẩn bị cho bước gia nhập WTO năm
2006, đòi hỏi sự nỗ lực cố gắng không chỉ từ phía Chính phủ mà còn từ phía các
doanh nghiệp Việt Nam, cô thể là:
1. Giải pháp từ phía nhà nước
Nhằm giúp thực hiện bảo hộ bằng sáng chế, nhà nước cần thực hiện một số
giải pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện các quy phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ.
Việc đầu tiên cần làm là hoàn chỉnh các quy phạm về chế tài bảo đảm thực thi
theo hướng lấy trình tự dân sự làm biện pháp chủ yếu trong việc điều chỉnh quan
hệ về sở hữu trí tuệ nói chung và bảo hộ bằng sáng chế nói riêng. Chế tài hành
chính chỉ được áp dụng như là một biện pháp bổ sung cho chế tài dân sự khi mà
sự xâm phạm sở hữu trí tuệ vượt quá mức dân sự chẳng hạn gây thiệt hại cho
trật tự xã hội, lợi Ých của người tiêu dùng, có yếu tố vi phạm pháp luật. Xây
dựng các giáo trình đào tạo về quyền sở hữu trí tuệ trong các trường đại học, cao
đẳng. Mở các líp huấn nghiệp vụ cho cán bộ thuộc các ngành có liên quan.
Thứ hai, sắp xếp lại và tăng cường năng lực của các cơ quan thực thi bảo
hộ bằng sáng chế. Cụ thể là toà án nhân dân có chức năng giải quyết các vụ kiện
dân sự về sở hữu trí tuệ theo trình tự tố tụng dân sự. Các cơ quan bảo đảm thực
thi trong nội địa như thanh tra (nhà nước và chuyên ngành), Uỷ ban nhân dân
các cấp, cơ quan quản lý thị trường, cảnh sát kinh tế, có chức năng áp dụng các
14
biện pháp hành chính để xử lý các xâm phạm, vi phạm về sở hữu trí tuệ khi có
đủ điều kiện để áp dụng các biện pháp đó. Trong đó đặc biệt chú trọng đến việc
khắc phục tình trạng chồng chéo như hiện nay. Các cơ quan có trách nhiệm cần
xem xét để phân công lại chức năng, quyền hạn của các đơn vị theo hướng bố trí
một cơ quan làm đầu mối.
Thứ ba, tăng cường các hoạt động dịch vụ, thông tin vê sở hữu trí tuệ, nâng
cao nhận thức xã hội về sở hữu trí tuệ. Các tổ chức xã hội, nghề nghiệp, hội
quần chúng, các doanh nghiệp cần tham gia tích cực vào việc quảng bá về các
đối tượng đã được bảo hộ, giá trị của các đối tượng đó. Thiết lập sự phối hợp
chặt chẽ giữa cơ quan quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ với các cơ quan thông
tin đại chúng trong việc tuyên truyền phổ biến kiến thức, pháp luật cho xã hội và
thông tin hướng dẫn nhận thức xã hội đối với việc cụ thể trong hoạt động thực
thi quyền sở hữu trí tuệ.
Thứ tư, tăng cường cho phép hình thành các công ty tư vấn về sở hữu trí
tuệ, hoạt động dịch vụ tư vấn là rất cần thiết và có tác động quan trọng đối với
việc hình thành, khai thác và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của doanh nghiệp.
Hiện nay Việt Nam có khoảng gần 20 công ty, tổ chức được phép làm dịch vụ
liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ. Các công ty này khi làm dịch vụ đều phải thi
cử và đạt trình độ chuyên môn, nghiệp vụ về loại “tài sản vô hình” này, nhằm
bảo vệ quyền lợi cho khách hàng, đảm bảo cạnh tranh lành mạnh và giảm tối đa
các rủi ro nghề nghiệp có thể xảy ra, đồng thời đem lại hiệu quả cao cho công ty.
Thực tế các công ty này đã đóng góp không nhỏ vào kết quả hoạt động sở hữu
trí tuệ Việt Nam trong vòng 10 năm qua.
Thứ năm, thóc đẩy hoạt động sáng tạo của các viện nghiên cứu và trường
đại học, đồng thời gắn liền các nghiên cứu khoa học với sản xuất để tăng tính
thực tiễn của sản phẩm.
Thứ sáu, tăng cường hoạt động của các hiệp hội. Hiệp hội nghề nghiệp là
dạng tổ chức phi chính phủ có thể quy tụ các doanh nghiệp, cá nhân có chung
hoạt động kinh doanh, nghề nghiệp như Hội công thương. Liên hiệp các hội
15
khoa học và kỹ thuật vào mục đích hợp tác, liên kết thực hiện các công việc vừa
có lợi cho từng thành viên, vừa đem lại lợi Ých chung cho nghề nghiệp, ngành
nghề. Đặc biệt trong điều kiện Việt Nam vốn Ýt, điều kiện hoạt động còn nhiều
hạn chế thì việc hỗ trợ nương tựa nhau cùng phát triển là rất cần thiết.
Thứ bảy, xây dựng mối quan hệ có tính chất cân bằng cùng có lợi giữa chủ
sở hữu và người tiêu dùng, thúc đẩy cộng tác từ chính những người nắm quyền
sở hữu trí tuệ với người sử dụng nhằm giảm giá bán hàng hoá, tăng lượng hàng
cung cấp cho xã hội.
Thứ tám, ban hành các chính sách tạo thuận lợi cho việc thực thi bảo hộ
bằng sáng chế như chính sách về phạm vi và miễn trừ (qui định rõ hơn về phạm
vi được phép cấp bằng sáng chế), qui định về giá (đảm bảo cạnh tranh bình đẳng
cho doanh nghiệp trong và ngoài nước), luật cạnh tranh…
2. Giải pháp từ phía doanh nghiệp
Trong các hoạt động kinh tế, người phải chịu ảnh hưởng trực tiếp suy cho
cùng không ai khác chính là các doanh nghiệp, do đó dù muốn hay không, bản
thân các doanh nghiệp cũng phải tự lực cánh sinh tìm hướng đi riêng cho mình.
Làm đựơc điều này, các doanh nghiệp sẽ tạo được cho sản phẩm của mình tính
cạnh tranh cao và công ty của mình có chỗ đứng ở thị trường trong và ngoài
nước. Đặc biệt, đối với vấn đề bảo hộ bằng sáng chế, để đáp ứng đựơc yêu cầu
của quá trình CNH - HĐH, các doanh nghiệp nên thực hiện một số giải pháp
sau:
Một là, bản thân các doanh nghiệp phải tự trang bị cho mình các kiến thức
về luật sở hữu trí tuệ trong nước và thông lệ quốc tế để hiểu đựơc mình sẽ có
nghĩa vụ và quyền lợi gì khi thực hiện qui định pháp luật bảo hộ sáng chế.
Hai là, phải đăng kí sáng chế nhãn hiệu hàng hoá ngay không chỉ ở thị
trường trong nước mà còn ở các Cục sáng chế nhãn hiệu ở các thị trường mà
mình định hướng tới cũng như các tổ chức có uy tín phụ trách về vấn đề sở hữu
trí tuệ.
16
Ba là, các doanh nghiệp trong nước có sự liên kết, hợp tác chặt chẽ với
nhau nhằm nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm với địch thủ nước ngoài,
đồng thời nên có sự liên kết với các viện nghiên cứu, trường đại học để có cơ
hội tiếp cận với trình độ công nghệ mới áp dụng vào sản xuất.
Bốn là, tổ chức các giải thưởng, các cuộc đua tăng gia sản xuất, phát huy
sáng kiến nhằm tạo mối quan hệ gắn bó giữa các thành viên trong doanh nghiệp
cũng như khuyến khích họ sáng tạo, đưa ra những giải pháp thực sự hữu dụng.
Năm là, tranh thủ sự hỗ trợ của nhà nước trong các chính sách thương mại
có liên quan đến bảo hộ bằng sáng chế.
KẾT LUẬN
Nh vậy, từ những sự phân tích, đánh giá ở trên, ta có thể thấy, hoạt động sở
hữu trí tuệ nói chung và bảo hộ bằng sáng chế nói riêng ở Việt Nam đang có
những bước chuyển mình đáng kể. Nhìn lại tất cả những gì Việt Nam đã thực
hiện trong thời gian vừa qua có liên quan đến bằng sáng chế như hoàn thiện hệ
thống pháp luật, ban hành các chính sách hợp lý,… chóng ta có thể tin tưởng
rằng Việt Nam sẽ thực hiện tốt mục tiêu đã đề ra là phấn đấu gia nhập tổ chức
thương mại thế giới WTO và hội nhập vào nền kinh tế thế giới một cách nhanh
chóng hơn, mạnh mẽ hơn.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu bước đầu đã đạt được, việc thực thi
hiệp định TRIPS và bảo hộ bằng sáng chế ở Việt Nam còn gặp nhiều bất cập,
khó khăn và thách thức, đòi hỏi không chỉ Nhà nước phải đưa ra các biện pháp
hữu hiệu để khắc phục tình trạng trên, mà bản thân từ phía các doanh nghiệp
cũng phải có sự năng động, không có thái độ trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước. Có
nh vậy, hệ thống luật pháp về sở hữu trí tuệ của Việt Nam mới được trong sạch,
minh bạch, rõ ràng, vấn đề bảo hộ bằng sáng chế mới được thực hiện một cách
triệt để và có hiệu quả.
17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Những vấn đề cơ bản về thể chế hội nhập kinh tế quốc tế
PGS - TS. NguyÔn Nh Bình (Nhà xuất bản Tư pháp Hà Nội 2005)
2. Những vấn đề đặt ra cho quá trình hội nhập kinh tế quốc của Việt Nam
TS. Võ Đại Lược (NXB Chính trị quốc gia - Viện kinh tế thế giới)
3. Thời báo kinh tế số 75 (Bài: Những quy định về bảo hộ bằng sáng chế ở Việt
Nam) - Bùi Lan Hương
4. Việt Nam và các tổ chức kinh tế quốc tế (NXB Chính trị quốc gia - 2000)
5. Hội nhập kinh tế quốc tế với việc điều chỉnh về vấn đề bảo hé bằng sáng
chế liên quan đến thương mại của WTO - (Tạp chí Kinh tế và dự báo - sè
5/2002)
6. WTO - future organization. Bộ Thương mại
18
MỤC LỤC
Ch ng III: m t s đ xu t v ki n nghươ ộ ố ề ấ à ế ị 14
19