Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Áo dài Việt Nam trên hành trình thể hiện cái đẹp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (725.19 KB, 26 trang )

Áo dài Việt Nam trên hành trình thể hiện cái đẹp
Bức tranh “ Thiếu nữ bên hoa huệ”
Tà áo em, bay bay bay bay trong gió nhẹ nhàng.
Tà áo em, bay bay bay bay trên phố dịu dàng.
Áo bay trên đường như mây xuống phố,
áo tung sân trường tựa cánh chim câụ
Ðẹp xiết bao, quê hương cho ta chiếc áo nhiệm màụ
Dù ở đâu, Paris, Luân Ðôn hay ở những miền xạ
Thoáng thấy áo dài bay trên đường phố,
sẽ thấy tâm hồn quê hương ở đó ... em ơi!
Tung bay tà áo tung bay, xôn xao một trời nắng đỏ.
Tung bay tà áo tung bay, áng mây trắng đầu ngọn gió.
Tung bay tà áo tung bay, tím biếc những chiều hoàng hôn,
Tung bay tà áo tung bay xanh xanh đồng cỏ quê hương.
Ta nghe từng bước chân em, xôn xao đường về phố nhỏ.
Tung bay tà áo thân quen, cánh chim vẫy chào ngọn gió.
Ta nghe từ trái tim em tiếng hát ngập tràn yêu thương.
Mai đây dù có đi xa trong tim là cả quê hương.
Thanh Tùng - Từ Huy
2
I. Lời giới thiệu

Tháng giêng em Áo Dài trang nhã
Tỉnh lỵ còn nguyên nét Việt Nam
Đài các chân ngà ai bước khẽ
Quyện theo tà lụa cả phương đông"
(Nguyễn Tất Nhiên)
Mỗi dân tộc trên thế giới đều có một loại y phục đặc biệt mà chỉ cần nhìn
vào chúng ta cũng có thể đoán được họ đến từ nơi nào. Phụ nữ Nhật Bản có bộ
Kimono, phụ nữ Hàn Quốc có Hanbok , người Trung Quốc tự hào về nét gợi cảm
trong bộ " xường sám " Thượng Hải…. Người Việt Nam chúng ta thường tự hào về


chiếc áo dài, thậm chí nó được nâng lên thành quốc phục, mang trong đó bản sắc
văn hoá, hương vị dân tộc thể hiện giá trị thẩm mỹ, cái đẹp được bảo lưu và đổi
mới theo suốt chiều dài lịch sử dân tộc.
3
Nhà văn Băng Sơn đã có cả một "Bài thơ áo dài" trên những nẻo đường Hà
Nội: "Đã có không ít người nước ngoài ngạc nhiên đến sững sờ trước vẻ đẹp kỳ
diệu của tấm áo dài Việt Nam, mặc dù ở nước họ, người phụ nữ cũng có những bộ
áo váy dân tộc thêu rua với nhiều vẻ đẹp. Một nét duyên dáng như mây thu mơ hồ
hay cái đẹp lộng lẫy của ngày hè chói chang hoa phượng có gió lộng xào xạc ngọn
đề. Khó mà nói được niềm bay nhè nhẹ của tà áo tím bên hồ hay vẻ lâng lâng của
màu áo trắng như tung đùa trong sắc xanh cây lá. Ngay giữa cái ồn ào tấp nập đua
chen, tà áo dài như hoa cũng mang lại sự thanh thản như sau một tiếng thở dài.
Dám đoán chắc không một cô gái Việt Nam nào lại không sung sướng được mặc
tấm áo dài trong ngày hội, ngày lễ, ngày tết và nhất là ngày bước xuống chuyến đò
hạnh phúc, khẽ cúi xuống nhìn tà áo dài mà mỉm cười e lệ và sung sướng hồi hộp
bên người yêu đã thành chú rể ngượng ngùng. Và cũng dám đoán chắc rằng không
một người đàn ông nào dù cực tả hay cực hữu, dù đang yêu hay trái tim đã rạn vỡ
bao lần, lại không ưa thích tà áo dài, không ngắm cái đẹp đang chập chờn phía
trước như cánh bướm trong giấc mộng Trang Chu, để về đến nhà bên người vợ
thủy chung vẫn còn bảng lảng bóng hình của câu thơ bất chợt ấy làm xao
xuyến."(1)
4
Cùng với sự phát triển của con người, sự thay đổi trong thị hiếu thẩm mỹ và
lý tưởng thẩm mỹ, áo dài Việt Nam cũng có nhiều nét cách tân và đổi mới. Nhưng
nó vẫn bảo lưu nhiều đặc trưng cơ bản nhất, những đặc điểm mà chỉ "Thoáng thấy
áo dài bay trên đường phố, đã thấy tâm hồn quê hương ở đó" như lời bài hát được
cất lên trong đêm tôn vinh hoa hậu Việt Nam. Áo dài thân thuộc với mỗi người
Việt Nam chúng ta trong cuộc sống hằng ngày, trong mổi trang thơ, trang văn,
trong âm nhạc, trong hội hoạ, trong điêu khắc… Và có thể thấy trong Mỹ học, điều
đó không có gì là khó hiểu bởi áo dài mang trong đó cái Đẹp, làm thăng hoa cái

Đẹp.
II. Bản chất của cái Đẹp
Cái Đẹp giữ vị trí trung tâm trong đời sống thẩm mỹ, vì vậy, nó là phạm trù
cơ bản của mỹ học.Phạm trù cái đẹp đựoc hình thành và phát triển cùng với sự hình
thành và phát triển tình cảm và ý thức của con người. Điều đó đồng nghĩa với việc
quan niệm về cái đẹp cũng là một qúa trình nhận thức, không ngừng vận động đi
5
lên.Cái đẹp vì thế là một sản phẩm của lịch sử của bản thân năng lực thẩm mỹ, vừa
sự phát triển tư tưởng thẩm mỹ của chính loài người.
Bao thế kỷ nay con người nói chung và các nhà mỹ học nói riêng đều cố
gắng tìm ra được một định nghĩa minh xác nhất về cái đẹp: "cái đẹp là gì và cái gì
là đẹp? ", " bản chất cái đẹp là gì?". Nhưng tất cả các định nghĩa đều mang tính
tương đối và đều mang tính lịch sử, gắn liền với lịch sử phát triển tư tưởng, quan
niệm về cái đẹp của loài người.
Triết học Mác Lênin tạo nên bước ngoặt vĩ đại trong nhận thức , nó cũng là
bước ngoặt lớn lao trong quan niệm về cái đẹp. Tiếp thu, kế thừa tinh hoa âc quan
điểm thẩm mỹ trong lịch sử tư tưởng với phương pháp duy vật biện chứng, cái đẹp
được các nhà duy vật macxit nhìng nhận một cách toàn diện từ các phía : Khách
quan - chủ quan, tự nhiên – xã hội, lịch sử - cụ thể, vận động – phát triển…
Cái đẹp có thể là một sự vật, một hiện tượng, một hành vi, một ý tưởng. một
thực thể đơn lẻ hay một quần thể phức hợp.
Từ góc độ bản thể luận, cái đẹp có đưọc trước hết là do các yếu tố kết cấu
khách quan của đối tượng (sự vật, hiên tượng …) có tính cân đối, mực thước, tỷ lệ
vừa phải… tính nhịp điệu, nhạc tính…đem lại. Các yếu tố đó chuyển động thăng
giáng theo những số lượng và chất lượng, kích thước hết sức linh hoạt theo những
điều kiện như khoảnh và khắc của không gian và thời gian, gam và nhịp của màu
sắc và âm thanh… Cái tạo nên một tỉ lệ vừa phải với thị giác, thính giác mà mỹ học
gọi là " độ" gây nên cảm xúc thẩm mỹ .Từ góc độ đó chúng ta phát hiện ra các quy
luật của cái đẹp.
Yếu tố tập trung quan trọng nhất tạo nên cái đẹp được thừa nhận từ xưa đến

nay là hài hoà. Tính cân đối, tỷ lệ, mức độ, nhịp nhàng là những yếu tố tạo nên
cảm giác hài hoà. Nhưng chỉ thế thì chưa đủ, cái đẹp còn là một chỉnh thể toàn vẹn,
nó mang tính thống nhất các đặc trưng về nội dung và hình thức.
Từ quan hệ chủ thể - khách thể, cái đẹp có tính khách quan của nó. Nhưng
con người lại là chủ thể thẩm định thẩm mỹ. Do đó cái đẹp được thể hên trong quan
6
hệ hai chiều: chủ quan – khách quan. Cái đẹp vừa mang tính chất tự nhiên, vừa
mang tính chất xã hội, vừa có tính lịch sử vừa có tính nhân loại.
"Phạm vi biểu hiện cái đẹp hết sức rộng lớn , phong phú và sinh động: cái
đẹp tự nhiên, cái đẹp sản xuất vật chất và tinh thần, cái đẹp xã hội và cái đẹp nghệ
thuật" . Cái đẹp nghệ thuật là hình thức sáng tạo độc đáo nhất cái đẹp tinh thần con
người. Không ở đâu , lý tưởng, khát vọng , ý chí vươn lên của con người lại được
tập trung cao đọ như trong cái đẹp nghệ thuật, nó mang tính chất là một tín hiệu
thẩm mỹ đặc biệt.
Trong cuốn Mỹ học đại cương, chúng ta có một định nghĩa vắn tắt về cái
đẹp: “Cái đẹp là một hiện tượng thẩm mỹ vô cùng đa dạng và phức tạp. Nó là lĩnh
vực vừa có tính bản thể vừa có tính định hướng. Có tính bản thể là vì cái đẹp có
theer là một hiện tượng, một sự vật hay một ý nghĩa, một hành vi, là tinh thần hay
vật chất... nó tồn tại như những chỉnh thể độc lập. Có tính định hướng là vì cái đẹp
còn là chuẩn mực do con người xác định lý tưởng sống sao cho đạt tới độ Chân -
Thiện - Mỹ.
- Đẹp là một lĩnh vực tinh thần, tình cảm. Dù có thể tồn tại dưới dạng vật
chất, cái đẹp cũng liên quan đến đời sống tinh thần, tình cảm. đồng thời cái
đẹp là giá trị: nó là sự đánh giá, thẩm định của con người về bản thân
mình. Trong sự cảm nhận, vì cái đẹp có yếu tố khách quan, nên sự đánh giá
cái đẹp mang tính vô tư chú không phải vô dịnh .
- Đẹp vừa có tính khách quan, vừa có tính chủ quan. Nó vừa được tạo thành
bởi các kết cấu hài hoà – toàn vẹn tự thân, vừa chịu sự đánh giá của chủ thể
thẩm mỹ.
- Cái đẹp trong nghệ thuật là cái đẹp của mọi cái đẹp ( của cả tự nhiên lẫn xã

hội ), mà chủ thể nghệ sĩ đã kết tinh lại bằng những sáng tạo độc đáo của
mình , đồng thời đêm cống hiến cho xã hội, cho sự hoàn thiện , hòn mỹ vô
tận của con người.
7
- Tiêu chí cơ bản để đánh giá , cảm thụ cái đẹp là Chân - Thiện - Mỹ, trong
biểu hiện phong phú của nó qua tính dân tộc, tính nhân dân, tính giai cấp và
tính nhân loại.”
Tóm lại, Cái đẹp là phạm trù cơ bản và trung tâm của mỹ học dùng để chỉ
thực tại thẩm mỹ khách quan. Thực tại này chúng ta biết được nhờ hệ thống cảm
nhận phổ biến có tính xã hội sâu sắc. Dưới ánh sáng của lý tưởng thẩm mỹ chân
chính, hệ thống cảm nhận thẩm mỹ phản ánh lại thực tại cái đẹp. Đặc trưng ngôn
ngữ của sự phản áh đó là hình thượng. Thành tựu cao nhất của sự phản ánh đó là
nghệ thuật. Cái đẹp bắt nguồn từ cái chân thật, và cái tốt; nó toả chiếu bằng những
xung động thẩm mỹ có sức cuốn hút, giúp cho con người định hướng đời sống theo
luật hoàn thiện, hoàn mỹ. Tác độn của cái đẹp mang tính thanh cao, hài hoà biện
chứng, ở tự thân bên trong tâm hồn con người , bên trong xã hội loài người.
III. Áo dài Việt Nam dưới cái nhìn Mỹ học
8
1. Lich sử áo dài
Dân tộc Việt Nam có một chiều dài lịch sử trên bốn ngàn năm theo như sử
sách đã ghi, trong đó có một ngàn năm bị Bắc thuộc, tám mươi hai năm bị Pháp đô
hộ, tiếp theo là cuộc kháng chiến kiến quốc lâu dài! Một dân tộc mà bị dân tộc
khác đô hộ trên ngàn năm quả là quá lâu. Bao nhiêu tài sản của quốc gia, sử sách
quí giá, tài liệu về lịch-sử v.v... đã cướp đi hoặc tiêu hủy hết. Mục đích của kẻ
thống thị là triệt tiêu nền văn hóa của ta để đồng hóa. Mặc dầu bị ngoại xâm, chiến
tranh li ên mi ên nh ưng ch úng ta vẫn trường tồn. Sử gia Ðào Duy Anh chép: "Theo
sách Sử-ký chép thì người Văn Lang xưa, tức là tổ tiên ta, mặc áo dài về bên tả (tả
nhiệm). Sử lại chép rằng ở thế kỷ thứ nhất, Nhâm Ðiên dạy cho dân quận Cửu
Chân dùng kiểu quần áo theo người Tàu. Theo những lời sách chép đó thì ta có thể
đoán rằng trước hồi Bắc thuộc thì dân ta gài áo về tay trái, mà sau bắt chước người

Trung Quốc mới mặc áo gài về tay phải." (Việt Nam Văn-Hóa Sử, Ðào Duy Anh,
trang 172). Mặc dầu cuộc sống chung đụng và bắt chước theo người ngoại quốc,
nhưng tổ tiên ta vẫn khôn khéo duy trì nét đặc thù của nền văn hóa, không đánh
mất bản sắc dân tộc.
Không ai biết rõ chiếc áo dài nguyên thủy ra đời từ lúc nào và hình dáng ra
sao, vì thiếu tài liệu kiểm chứng. Mới đây, nhân đọc cuốn kể chuyện "Chín Chúa ,
Mười Ba Vua Triều Nguyễn" của ông Tôn Thất Bình, (Nhà Xuất Bản Ðà Nẵng,
1997) có bài "Những Trang Ðầu của Lịch-Sử Áo Dài" tác-giả chép như sau:
"Chiếc áo dài tha-thướt xinh đẹp hiện nay phải qua một quá-trình phát-triển.
Nó được hình-thành từ đời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Nguyên chúa Nguyễn Phúc
Khoát nghe người Nghệ-an truyền câu sấm: "Bát đại thời hoàn trung nguyên" (tám
đời trở về trung nguyên), thấy từ Ðoan Quốc Công đến nay vừa đúng tám đời bèn
xưng hiệu lấy thể-chế áo mũ trong Tam tài đồ hội làm kiểu... lại hạ lệnh cho trai gái
hai xứ đổi dùng áo quần Bắc quốc để tỏ sự biến đổi, khiến phụ-nữ bận áo ngắn hẹp
tay như áo đàn ông thì Bắc quốc không có thế.
9
Thế là do tinh-thần độc-lập, muốn dân chúng trong địa-phận mình cai-tri.
mang y-phục riêng để phân-biệt với miền Bắc, Nguyễn Phúc Khoát hiểu dụ:
"Y-phục bản quốc vốn có chế độ, địa-phương này từ trước cũng chỉ tuân theo
quốc-tục, nay kính vâng thượng đức, dẹp yên cõi biên, trong ngoài như nhau,
chính-tri. và phong-tu.c cũng nên thống-nhất. Nếu còn có người mặc quần áo kiểu
người khách ( Người Hoa) thì nên đổi theo thể chế của nước nhà. Ðổi may y phục
thì theo tục nước mà thông dụng vải, lụa, duy có quan chức thì mới cho dùng xen
the, là, trừu, đoạn, còn gấm vóc và các thứ hoa rồng phượng thì nhất thiết không
được quen thói cũ dùng càn. Thường ph ục thì đàn ông, đàn bà dùng áo cổ đứng
ngắn tay, cửa ống tay hoặc rộng hoặc hẹp tùy-tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống
phải khâu kín liền không cho xẻ mớ. Duy đàn ông không muốn mặc áo cổ tròn và
hẹp tay cho tiện làm việc thì cũng được. Lễ phục thì dùng áo cổ đứng tay dài, vải
xanh chàm hoặc vải đen, hay vải trắng tùy nghi. Còn các bức viền cổ và kết lót thì
đều theo như điều hiểu dụ năm trước mà chế dùng."

Như vậy từ thế kỷ XVIII, chiếc áo dài đã được ra đời, dù ban đầu còn thô-sơ,
nhưng kín đáo. Nó là sản-phẩm mang màu sắc dung-hòa Bắc Nam. Cũng ở thời
Nguyễn Phúc Khoát, phụ-nữ đã biết trang điểm, thêu-thùa hoa lá quanh cổ áo để
tăng vẻ đẹp, hàng vải khá tốt và tinh xảo. Các loại áo đoạn hoa bát ty, sa, lương,
địa, the là hàng hoa được mặc vào ngày thường, áo vải, áo mộc bị chê là vải xấu.
Chúa Nguyễn Phúc Khoát đã viết những trang lịch-sử đầu cho chiếc áo dài
vậy." (Theo Lê Quý Ðôn-Phủ biên tạp lục, trong cuốn "Kể chuyện Chín Chúa -
Mười Ba Vua Triều Nguyễn, của Tôn Thất Bình, trang 29.)
Chúa Nguyễn Phúc Khoát hùng cứ ở xứ Ðàng Trong, sau khi chiếm trọn
nước Chiêm thành, mở mang bờ cõi về phương Nam, theo Lê Quý Ðôn, đã có được
thời kỳ thịnh vượng bình yên. Chúa Nguyễn Phúc Khoát xưng vương hiệu là Vũ
Vương, có triều nghi xây hai điện Kim Hoa, Quang Hoa, có các nhà Tụ Lạc, Chính
Quang, Trung Hoà, Di Nhiên, đài Sướng Xuân, các Dao Trì, các Triều Ðương, các
Quan Thiên, đình Thụy Vân, hiên Ðồng Lạc, an Nội Viên, đình Giáng Hương, điện
10

×