Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC MÔN ĐẠO ĐỨC LỚP 5B TRƯỜNG TIỂU HỌC MỸ PHƯỚC D

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.01 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
ĐỀ TÀI: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC
MÔN ĐẠO ĐỨC LỚP 5B TRƯỜNG TIỂU HỌC MỸ PHƯỚC D.
A. MỞ ĐẦU Trang 2
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN Trang 4
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ Trang 8
CHƯƠNG 3
NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỀ RA NHẰM NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY MÔN ĐẠO ĐỨC LỚP 5 Trang 9
C. KẾT LUẬN – ĐỀ XUẤT Trang 19

Trang 1

ĐỀ TÀI: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC
MÔN ĐẠO ĐỨC LỚP 5B TRƯỜNG TIỂU HỌC MỸ PHƯỚC D.

A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Đất nước ta đang dần tiến lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa, để phát triển
mọi mặt. Trong đó, ngành giáo dục là một trong những ngành chủ chốt, nhằm
đào tạo đội ngũ cán bộ của đất nước vừa có tri thức và có phẩm chất đạo đức tốt.
Do đó việc đầu tư vào ngành giáo dục là quốc sách hàng đầu không thể thiếu
được, qua mọi thời đại. Ở bậc tiểu học, tất cả các môn học thì môn nào cũng
quan trọng, nhưng riêng đối với môn Đạo đức là môn học hết sức cần thiết đối
với lứa tuổi học sinh tiểu học. Vì đạo đức là “ Cái gốc ” của con người. Môn đạo
đức góp phần làm cho học sinh thành con người có nhân cách phát triển toàn
diện như: Hình thành và rèn luyện nề nếp ngay tuổi còn nhỏ, phong cách và tác
phong làm việc khoa học, giáo dục ý chí những đức tính tốt. Nhằm xây dựng ý
thức đạo đức ( có tri thức đạo đức và niềm tin đạo đức ) … Để các em có những
phẩm chất đạo đức quan trọng của công dân Việt Nam. Tôi thấy nội dung giáo


dục môn Đạo đức được lập đi, lập lại từ lớp dưới lên lớp trên, nhưng yêu cầu của
các chuẩn mực đạo đức ngày cần được nâng cao hơn.
Mặc dù hiện nay đạo đức học sinh nói chung đã có phần sa sút về đạo đức,
không ít học sinh thiếu tôn trọng và vô lễ đối với thầy cô giáo, ông bà, cha mẹ và
mọi người xung quanh. Phần lớn là do tác động của cuộc sống ảnh hưởng từ môi
trường xã hội, ảnh hưởng của sách báo và nhất là phim ảnh, nạn ma túy tràn lan
vào học đường.
Vì thế, nếu như người giáo viên chủ nhiệm không có kế hoạch và biện
pháp tốt để giáo dục thì các em đó sẽ ra sao? Để khắc phục những thiếu yếu trên,
tôi xin nêu ra một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Đạo đức
lớp 5 mà tôi trực tiếp giảng dạy mấy năm qua.
2. Mục đích nghiên cứu:
Môn Đạo đức ở trường Tiểu học nhằm giúp học sinh:
- Có hiểu biết ban đầu về một số chuẩn mực hành vi đạo đức và pháp luật
cơ bản, phù hợp với lứa tuổi trong mối quan hệ giữa các em với bản thân, gia
đình, nhà trường, cộng đồng, xã hội. Môi trường tự nhiên và ý nghĩa của việc
thực hiện theo các chuẩn mực đó.

Trang 2

- Từng bước hình thành kỹ năng nhận xét, đánh giá hành vi của bản thân
và những người xung quanh theo chuẩn mực đã học; kỹ năng lựa chọn và thực
hiện các hành vi ứng xử phù hợp chuẩn mực trong các mối quan hệ và tình
huống đơn giản, cụ thể của cuộc sống; biết nhắc nhở bạn bè cùng thực hiện.
- Từng bước hình thành thái độ tự trọng, tự tin và khả năng của bản thân,
có trách nhiệm với hành động của mình; yêu thương tôn trọng con người; yêu cái
thiện, cái đúng, cái tốt; không đồng tình với cái ác, cái sai, cái xấu.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn đạo đức lớp 5A.
Học sinh có thái độ chủ động sáng tạo các hoạt động trong lớp nói riêng

và học sinh trong trường Tiểu học nói chung, tham gia các hoạt động của Đội để
xứng đáng là Đội viên thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh.
4. Khách thể và phạm vi nghiên cứu:
4.1. Khách thể: Tập thể học sinh lớp 5B

gồm 20 học sinh được rải đều
trên 2 ấp (Phước Thọ B và Phước Thọ A) , vài học sinh ở khác xã, nên môi
trường tiếp xúc của các em rất rộng lớn. Từ đó các chuẩn mực hành vi đạo đức
nói chung không đều. Đó là vấn đề giáo viên phải hết sức quan tâm để khắc phục
những hành vi đạo đức không lành mạnh để làm hành trang cho các em bước vào
đời.
4.2. Phạm vi: Nội dung giáo dục môn Đạo đức là để các em có một nếp
sống lành mạnh, có hành vi ứng xử trong giao tiếp đối với thầy cô, bạn bè và mọi
người xung quanh.
Giúp học sinh nhận thức được học môn Đạo đức là cần thiết để các em có
thái độ học tập tốt, để vận dụng những kiến thức đã học áp dụng vào cuộc sống
thực tế, tạo thói quen thường xuyên trong giao tiếp.
5. Các phương pháp nghiên cứu:
5.1. Phương pháp đọc sách và tài liệu:
Đọc sách và tài liệu là một phương pháp không thể thiếu được của việc
nghiên cứu, nó được sử dụng ngay từ khi chọn đề tài, xây dựng đề cương nghiên
cứu và trong suốt cả quá trình nghiên cứu.
Thực chất phương pháp này là giúp ta tìm hiểu, tham khảo, nắm bắt những
gì có liên quan đến vấn đề nghiên cứu của ta, vấn đề đó được giải quyết đến đâu,
giúp ta xác định được vị trí “ cái mới ” của đề tài mà chúng ta sẽ chọn. Nó giúp
ta có tài liệu để viết phần tổng quát về vấn đề nghiên cứu, các khái niệm cơ bản
của đề tài, các phương pháp có liên quan đến nhiệm vụ của đề tài, các luận chứng
để lý giải các kết quả, các ứng dụng của chúng,…
5.2. Phương pháp trò chuyện:


Trang 3

Là phương pháp thu thập các sự kiện về các hiện tượng được nghiên cứu
trong quá trình giao tiếp cá nhân theo một chương trình đã được chuẩn bị đặc
biệt, nghĩa là đặt ra những câu hỏi đã chuẩn bị từ trước cho người đối thoại và
dựa vào câu trả lời của họ mà trao đổi, hỏi thêm nhằm thu thập những thông tin
liên quan đến đề tài.
5.3. Phương pháp quan sát khách quan:
Quan sát khách quan là phương pháp nghiên cứu có mục đích, dựa trên sự
tri giác của các cử chỉ, hành động của người được nghiên cứu trong các tình
huống tự nhiên khác nhau.
5.4. Phương pháp thăm dò:
Là phương pháp nghiên cứu, trong đó người nghiên cứu dùng một số câu
hỏi nhất loạt, đặt ra cho một số người nhằm thu thập ý kiến chủ quan của họ về
đối tượng cần nghiên cứu.
5.5. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục:
Là phương pháp nghiên cứu dùng lí luận để phân tích thực tiễn giáo dục,
rồi từ phân tích thực tiển giáo dục mà rút ra lí luận thực tiễn.
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN
Môn Đạo đức có tác dụng giúp học sinh phát triển những hành vi cơ bản như
nội dung ý nghĩa một số chuẩn mực hành vi đạo đức và pháp luật phù hợp với
lứa tuổi học sinh lớp 5 trong quan hệ của các em với quê hương đất nước, tổ tiên;
với phụ nữ, cụ già, em nhỏ; với bạn bè và những người xung quanh; với hành vi
việc làm của bản thân; với tài nguyên thiên nhiên.
- Biết nhận xét, đánh giá các ý kiến, quan niệm, hành vi, việc làm có liên
quan đến các chuẩn mực đã học; biết lựa chọn cách ứng xử phù hợp trong các
tình huống và biết thực hiện các chuẩn mực đã học trong cuộc sống hằng ngày.
- Biết yêu quê hương, đất nước; biết ơn tổ tiên; kính trọng người già, yêu

thương em nhỏ, tôn trọng phụ nữ; đoàn kết hợp tác với bạn bè và những người
xung quanh; có ý thức vượt khó, vượt lên trong cuộc sống; có trách nhiệm về
hành động của mình; yêu hòa bình, có ý thức bảo vệ tài nguyên thiên nhiên,…
- Thông qua việc dạy - học môn Đạo đức các giá trị, chuẩn mực đạo đức
của xã hội được chuyển thành niềm tin, tình cảm, hành vi đạo đức của học sinh;
tạo cho học sinh được thực hành bài học trong thực tiễn cuộc sống.

Trang 4

Mục đích của môn Đạo đức là hình thành phẩm chất đạo đức cho học sinh. Một
phẩm chất đạo đức bao giờ cũng có 3 khía cạnh là: ý thức, thái độ, tình cảm và
hành vi, thói quen. Do đó, để đạt được mục đích đặt ra, day – học môn Đạo đức
phải giải quyết 3 nhiệm vụ tương ứng: hình thành ý thức, hình thành thái độ, tình
cảm và hình thành hành vi, thói quen.
- Giáo dục ý thức đạo đức:
Môn Đạo đức cung cấp cho học sinh hệ thống tri thức đạo đức sơ đẳng,
trên cơ sở đó bước đầu hình thành niềm tin đạo đức, hình thành năng lực, định
hướng các giá trị đạo đức cho học sinh tiểu học. Điều đó giúp các em phân biệt
được đúng – sai, tốt – xấu, thiện - ác … để từ đó theo cái đúng, cái tốt, tránh
cái sai, đấu tranh với những biểu hiện sai trái, xấu xa, độc ác.
- Giáo dục thái độ, tình cảm đạo đức:
Giúp học sinh có thái độ rõ ràng đối với các chuẩn mực đạo đức nói riêng,
hình thành và bồi dưỡng cho các em cảm xúc đạo đức, biến những chuẩn mực
đạo đức sơ giản thành động cơ bên trong thôi thúc các em hành động theo những
chuẩn mực đạo đức đã được quy định, trên cơ sở đó hình thành tình cảm đạo đức
trong sáng.
- Giáo dục hành vi, thói quen:
Hình thành ở học sinh các hành vi tương ứng với ý thức thái độ tình cảm
và từ đó giúp các em có thói quen đạo đức bền vững.
Ba nhiệm vụ này của môn Đạo đức có mối quan hệ khăng khít với nhau.

Giải quyết được ba nhiệm vụ này là đạt được mục đích của môn học đặt ra.
Tóm lại, các em thực hiện các hành vi chuẩn mực của môn Đạo đức lớp 5
nói riêng và toàn bậc tiểu học nói chung được cô đọng trong 5 điều Bác Hồ dạy
đối với thiếu niên nhi đồng:
- Học tập tốt, lao động tốt.
- Yêu tổ quốc, yêu đồng bào.
- Đoàn kết tốt, kỉ luật tốt.
- Giữ gìn vệ sinh thật tốt.
- Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm.
1. Khái niệm về vị trí, yêu cầu của môn Đạo đức lớp 5:
Môn đạo đức có tác dụng trao đổi hành vi đạo đức, bồi dưỡng tâm hồn các
em trong sáng về xúc cảm và tình cảm đạo đức, khắc sâu những hành vi chuẩn
mực đạo đức… Quan trọng nhất là học sinh cần đạt được những hành vi đạo đức

Trang 5

tốt, biết cử xử trong quan hệ. Chẳng hạn như đầu năm học mối quan hệ giữa bạn
bè còn chưa tốt, thường hay chửi thề, đánh nhau, nhưng từ khi các em học được
các bài Đạo đức của chương trình lớp 5, có tác dụng giáo dục về hành vi giúp đỡ
nhau trong học tập, biết vâng lời và biết ơn thầy cô giáo…Từ đó, đã gây được
cho các em những xúc cảm, thẫm mỹ trước những hành vi tốt của các nhân vật
đã nêu gương. Các em biến những hành vi đẹp của các nhân vật thành xúc cảm
đạo đức của bản thân.
2. Yêu cầu sau khi học xong chương trình Đạo đức lớp 5:
Sau khi học xong chương trình môn Đạo đức lớp 5, học sinh cần biết thực
hiện tốt các chuẩn mực hành vi đạo đức, biết cách cư xử dùng lời lẽ đúng trong
mọi tình huống đối với các mối quan hệ với bản thân, gia đình, nhà trường, cộng
đồng và môi trường tự nhiên.
3. Nội dung chương trình môn Đạo đức và mối quan hệ giữa môn Đạo đức
với các môn học khác:

- Chương trình môn Đạo đức bao gồm một hệ thống chuẩn mực hành vi
đạo đức và pháp luật cần thiết nhất, phù hợp với lứa tuổi học sinh tiểu học, được
trình bày theo 5 mối quan hệ từ lớp 1 đến lớp 5. Cụ thể ở lớp 5:
1 tiết / tuần
×
35 tuần = 35 tiết.
* Quan hệ với bản thân:
- Tự ý thức được về mình; biết phát huy những điểm mạnh, khắc phục
những điểm yếu của bản thân.
- Ham học hỏi, có ý thức vượt khó, vươn lên.
- Biết bảo vệ lẽ phải.
* Quan hệ với gia đình:
- Biết ơn tổ tiên, nhớ về cội nguồn của mình.
- Yêu quý những người thân trong gia đình. Lễ phép, vâng lời người trên,
nhường nhịn em nhỏ.
- Có trách nhiệm với những người thân trong gia đình.
- Hiếu thảo với ông bà, cha mẹ.
* Quan hệ với nhà trường:
Biết tin cậy và xây dựng tình bạn, tôn trọng, hòa hợp với bạn khác giới.
* Quan hệ với cộng đồng xã hội:
- Sống hòa hợp và biết hợp tác với mọi người trong công việc chung. Kính
già, yêu trẻ, tôn trọng phụ nữ.
- Yêu mến, tự hào về truyền thống quê hương đất nước.
- Tích cực tham gia các hoạt động phù hợp với khả năng để xây dựng và
bảo vệ quê hương.
- Tôn trọng các cơ quan chính quyền địa phương và ủng hộ các nhà chức
trách thi hành công vụ.

Trang 6


- Yêu hòa bình. Tôn trọng nền văn hóa và con người của các quốc gia
khác.
- Có hiểu biết về tổ chức Liên Hợp Quốc.
* Quan hệ với môi trường tự nhiên:
Có ý thức bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.
- Môn Đạo đức có mối quan hệ chặt chẽ với các môn học khác ở tiểu học,
đặc biệt là các môn: Tiếng Việt, Tự nhiên – Xã hội và Nghệ thuật. Đó là mối
quan hệ hai chiều, thể hiện ở:
+ Các môn học khác cũng có khả năng giáo dục đạo đức, cũng tham gia
vào quá trình giáo dục đạo đức, hỗ trợ đắc lực cho môn đạo đức trong việc hình
thành ở học sinh những biểu tượng đạo đức, bồi dưỡng xúc cảm, tình cảm đạo
đức, củng cố, khắc sâu những hành vi chuẩn mực đạo đức,…Ngược lại, môn
giáo dục đạo đức một mặt định hướng cho các môn học khác trong công tác giáo
dục đạo đức, mặt khác còn hỗ trợ đắc lực cho các môn học khác như: Giúp học
sinh rèn luyện kĩ năng rèn luyện sử dụng Tiếng Việt trong giao tiếp, giúp học
sinh mở rộng kiến thức về môi trường tự nhiên và xã hội; giáo dục học sinh ý
thức và hành vi tuân thủ những quy định chung của đời sống xã hội, giữ gìn vệ
sinh cá nhân, bảo vệ sức khỏe, giữ gìn vệ sinh môi trường; củng cố và phát triển
khả năng cảm thụ và sáng tạo nghệ thuật ( nghe nhạc, hát, đọc thơ, vẽ tranh,…)
Ngoài ra vẫn còn một số hành vi chuẩn mực đạo đức khác cũng không kém
phần quan trọng, phân môn Đạo đức được sắp xếp theo một thứ tự hợp lý và hình
thành biểu tượng đến vận dụng thực hành.
4. Vận dụng thực hành kiến thức kĩ năng học tập và sinh hoạt hằng ngày:
- Thông qua các bài đạo đức, nhằm từng bước hình thành cho học sinh một
số kĩ năng sống cơ bản như: Kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng
xác định giá trị; kỹ năng ra quyết định; kỹ năng kiên định; kỹ năng đặt mục tiêu.
- Hằng ngày các em có thói quen học tập tốt, biết giữ im lặng khi nghe thầy
cô giảng bài, biết giúp bạn bè trong học tập,…Áp dụng các bài học làm vốn kiến
thức hiểu biết để cư xử đúng, tôn trọng, lịch sự trong giao tiếp, áp dụng tốt các
hành vi chuẩn mực của lứa tuổi học sinh tiểu học.

5. Một số vấn đề có liên quan về tâm lí học, giáo dục học:
* Tâm lý học: Bản thân học sinh ngay từ nhỏ như một tờ giấy trắng, các em rất
hiếu động, thích bắt chước các hành vi mà chính bản thân các em không nhận
thức được là đúng hay sai, là phù hợp hay không. Các em như búp măng tre.
Muốn thân tre ngày sau mọc thẳng hay cong thì người trồng phải biết chăm sóc
suốt quá trình phát triển của măng cũng như lúc còn nhỏ các em sống trong môi
trường gia đình, các em chịu sự quản lý giáo dục của cha mẹ và người thân. Khi
các em đến tuổi đi học các em lại được giáo dục trong một môi trường rộng hơn,
có bạn, có thầy cô và nhất là được sự giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học, có
ảnh hưởng rất lớn đối với việc hình thành nhân cách cho học sinh sau này.

Trang 7

* Giáo dục học: Sau các bài đạo đức trong chương trình lớp 5, đều có một nội
dung bài học mang tính giáo dục cao. Từ nội dung bài học các em có nhận thức
đúng các hành vi chuẩn mực đạo đức tốt trong quan hệ và giao tiếp khi học hết
lớp 5. Các em được học tiếp môn Đạo đức dưới dạng Giáo dục công dân, nội
dung cũng mang tính giáo dục hình thành nhân cách các em trong giai đoạn
trưởng thành.
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ
- Học sinh đa số là con em của gia đình nông dân, đời sống còn nhiều khó
khăn. Họ phải lao động vất vả để tạo điều kiện sinh sống, nên ít thời gian quan
tâm đến việc học tập và thói quen sinh hoạt của các em. Một số học sinh phải ở
nhờ nhà người thân để tiếp tục đi học, còn cha mẹ bỏ quê đi làm mướn, làm thuê.
Không có sự quản lý của cha mẹ. Nên các em thường đi học sớm, về muộn, la cà
ở các quán bi da, xem phim không lành mạnh, bạo lực,…dẫn đến tình trạng đạo
đức của các em dần dần bị sa sút.
- Các tồn tại của học sinh hiện nay: Khi phát ngôn hay chửi thề, nói tục
trong giao tiếp. Trong giờ học chưa thật sự nghiêm túc. Tôn trọng thầy cô còn

miễn cưỡng. Trong quan hệ với bạn bè thiếu tôn trọng sự bình đẳng, chưa thật sự
đoàn kết. Thiếu tinh thần trách nhiệm trong học tập và việc làm của mình.
+ Thiếu lễ độ, chào hỏi khi gặp người lớn.
+ Học sinh chưa thực hiện tốt quyền và bổn phận của trẻ em.
- Việc dạy đạo đức trước đây chưa đạt hiểu quả cao là do những nguyên nhân
sau:
+ Theo quan niệm trước đây: học là quá trình tiếp thu và lĩnh hội. trong
dạy học, giáo viên sử dụng phương pháp kể chuyện, vấn đáp, diễn giảng là chủ
yếu. Truyền thụ kiến thức một chiều, GV đối diện với cả lớp, không có sự tương
tác giữa học sinh, học sinh thụ động ghi nhớ máy móc, tiết học diễn ra trong
không khí khô khang, gò bó, áp đặt, buồn tẻ, nặng nề…
+ Trong dạy học, GV ít sử dụng đồ dùng dạy học, không gây hứng thú học tập
của HS, dẫn đến hiệu quả tiết dạy không cao.
+Học sinh thiếu thực hành, nên việc vận dụng những chuẩn mực hành vi đạo
đức trong cuộc sống thực tiễn chưa cao.
+ Nguồn cung cấp kiến thức chủ yếu là SGK và GV.
+ Học sinh học chủ yếu là để đối phó với thi cử, sau khi học xong những điều
đã học thường bị bỏ quên hoặc ít dùng đến.

Trang 8

- Nội dung và phương pháp dạy học bao giờ cũng gắn bó với nhau. Mỗi nội dung
bài dạy đòi hỏi một phương pháp thích hợp. các kĩ năng giao tiếp không thể hình
thành và phát triển bằng con đường truyền giảng thụ động. muốn phát triển được
kĩ năng này, học sinh phải được hoạt động trong môi trường giao tiếp dưới sự
hướng dẫn của giáo viên, học sinh chỉ làm chủ được kiến thức khi các em chiếm
lĩnh chúng bằng những hoạt động có ý thức của mình.
CHƯƠNG 3
NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỀ RA NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG
DẠY MÔN ĐẠO ĐỨC LỚP 5

1. Giáo dục học sinh bằng sự gương mẫu của giáo viên:
Người giáo viên cần mẫu mực, thận trọng trong giao tiếp, trong quan hệ,
không những ở trên lớp mà còn ngay ở gia đình, hàng xóm, láng giềng xung
quanh,…Cần thể hiện tốt các hành vi chuẩn mực đạo đức của người giáo viên vì
nhân cách của giáo viên có ảnh hưởng rất lớn đến nhận thức hành vi chuẩn mực
của học sinh dù nhiều hay ít. Những cử chỉ, thái độ của thầy cô sẽ để lại ấn tượng
tốt hay xấu cho học sinh về sau. Bởi thế, có câu: “ Mỗi thầy cô là một tấm gương
sáng cho học sinh noi theo ”.
- Trong quan hệ gia đình người giáo viên cần hòa thuận, thương yêu con
cháu. Trong quan hệ xã hội, giáo viên cần cân nhắc trong cư xử và giao tiếp. Ở
trường người giáo viên cần lên lớp đúng giờ. Hứa gì với học sinh cần đúng hẹn.
Giao tiếp với các bạn bè đồng nghiệp trước mặt học sinh phải lịch sự, nhã
nhặn… để các em có biểu tượng tốt về người thầy, của mình.
2. Một số yếu tố cơ bản khi soạn giáo án:
Việc soạn giáo án cũng không kém phần quan trọng cho một bài đạo đức.
Nếu bạn không kĩ, ít đầu tư thì sẽ thiếu những yếu tố cơ bản cần truyền thụ cho
học sinh. Vậy người giáo viên cần những yếu tố cơ bản sau:
+ Giáo viên phải xác định 3 mục tiêu của bài đạo đức: Về tri thức, thái độ
và kỹ năng, hành vi đạo đức. Từ đó xác định nội dung, phương pháp, hình thức
tổ chức dạy học có hiệu quả hơn.
+ Tính chất của chuẩn mực hành vi đạo đức: Chuẩn mực liên quan đến một
hay một nhóm đối tượng cụ thể và nó sẽ quyết định lựa chọn nội dung, phương
pháp, hình thức tổ chức dạy học.
+ Trình độ, khả năng, nhu cầu cuộc sống của học sinh: Căn cứ này cũng
giúp giáo viên lựa chọn nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù
hợp. Không nên đưa ra những hành vi, tình huống đơn điệu hay xa lạ với đời
sống hằng ngày của học sinh.
+ Các yếu tố môi trường học tập và xung quanh: Môi trường học tập ở lớp (
điều kiện cơ sở vật chất, các yếu tố vệ sinh học đường, mối quan hệ trong lớp…)


Trang 9

và môi trường xung quanh ( điều kiện kinh tế, xã hội ở địa phương, các yếu tố tự
nhiên ).
+ Lô gic của bài đạo đức: Cần xây dựng, thiết kế bài đạo đức theo lô gic
sau:
R C R
R: Cái riêng C: Cái chung R: Cái riêng
( Nội dung truyện kể, tình
huống, thông tin, tư
liệu…)
Kết luận về chuẩn mực
hành vi.
Nhận xét hành vi.
Xử lý tình huống.
Bày tỏ thái độ.
Thực hiện trò chơi.
Liên hệ thực tế.
Điều tra.
Rèn luyện.
- Mỗi bài đạo đức được dạy trong 2 tiết, giáo viên cần chú trọng các tiết thực
hành, để dẫn đến nhận thức đúng. Từ đó làm cơ sở hình thành hành vi, thái độ
tích cực cho các em sau này. Vì dạy học đạo đức không chỉ là truyền thụ cho các
em bài học về kiến thức mà còn dạy học sinh cách sống và ứng xử trong các mối
quan hệ gần gũi, quen thuộc hằng ngày, phải gắn bó chặt chẽ với thực tiễn cuộc
sống của các em như: Qua các câu chuyện các tấm gương người tốt, việc tốt. Các
tranh ảnh băng hình, các tình huống,… được sử dụng để dạy đạo đức gắn liền với
cuộc sống thực tiễn của các em; phản ánh những mối quan hệ, những tình huống
ứng xử cụ thể, quen thuộc với các em. Sau mỗi bài học, giáo viên phải tạo điều
kiện cho học sinh liên hệ, tự liên hệ, phân tích đánh giá hành vi của bản thân và

người khác đối chiếu với các chuẩn mực hành vi đã học.
Ví dụ: Khi dạy bài “ Tôn trọng phụ nữ ” đến tiết 2.
Học sinh liên hệ bản thân: Học sinh tự kể một việc làm nào đó thể hiện
mình đã tôn trọng các bạn nữ trong lớp hoặc tôn trọng mẹ và chị mình,…
Hoặc cho các em kể về hành vi nào đó mà các em đã chứng kiến hoặc
được nghe về một người đã xúc phạm danh dự, hành hung phụ nữ.
- Từ những hành vi trên, giáo viên tạo điều kiện cho các em tập xử lý các
tình huống cụ thể, phổ biến trong cuộc sống.
- Bước đầu tạo điều kiện cho học sinh tập điều tra tìm hiểu, phân tích
những vấn đề trong cuộc sống ở lớp, ở trường, ở địa phương có liên quan đến
chủ đề bài học.
Ví dụ: Dạy bài “ Kính già, yêu trẻ ”, giáo viên cho học sinh theo dõi nhau
như: Bạn mình có lễ phép, chào hỏi người lớn tuổi không, có biết giúp đỡ người
già và em nhỏ khi gặp khó khăn không,…

Trang 10

Để đến tiết 2 các em báo cáo về bản thân và đối chiếu với các hành vi đã
học.
- Bước đầu cho học sinh lập kế hoạch thực hành bài học và thực hành theo
kế hoạch đã lập.
3. Phối hợp sử dụng tốt các phương pháp giáo dục trong một tiết dạy học:
3.1. Giáo viên chú trọng phương pháp đàm thoại để các em rèn luyện phẩm
chất hành vi đạo đức. Nhưng giáo viên cần lưu ý ở những điểm sau: Các câu
hỏi phải được sắp xếp một cách hợp lý, có hệ thống. Tập trung khai thác mặt đạo
đức của hành vi; câu hỏi phải cụ thể, rõ ràng, ngắn gọn, rõ ý, hỏi phù hợp với
trình độ học sinh tiểu học. Giáo viên phải có thái độ ân cần, động viên, khích lệ
học sinh tích cực suy nghĩ, phát huy vốn kinh nghiệm đạo đức bản thân và mạnh
dạn bộc lộ ý kiến của mình một cách chân thành, tự tin của học sinh.
Ví dụ: Dạy bài “ Em tìm hiểu về Liên Hợp Quốc ”.

Giáo viên không nên hỏi: “ Vì sao chúng ta cần phải tìm hiểu về Liên Hợp
Quốc? ” vì là câu hỏi cao so với học sinh tiểu học.
- Đàm thoại được sử dụng trong trường hợp nào?
+ Tái hiện, ôn lại kiến thức cũ ( đặc biệt là đối với những bài đạo đức có
tính đồng tâm ).
+ Phân tích truyện kể và rút ra kết luận về chuẩn mực và hành vi.
+ Phát hiện ra bản chất của chuẩn mực hành vi – sự cần thiết và cách thực
hiện.
+ Vận dụng tri thức đạo đức để luyện tập thực hành.
+ Tự kiểm tra và đánh giá kết quả học tập môn Đạo đức.
3.2. Đàm thoại phải đảm bảo tính lô gic:
Truyện kể
Hệ thống câu hỏi
Bài học đạo đức
* Cụ thể:
+ Yêu cầu chuẩn mực hành vi đạo đức ( tương ứng với câu hỏi “ Qua câu
chuyện trên, các em rút ra bài học gì? ” ).
+ Sự cần thiết: Ý nghĩa, tác dụng của việc thực hiện và tác hại của việc
làm trái với chuẩn mực hành vi đạo đức đó ( tương ứng với câu hỏi “ Vì sao ? ” ).
+ Cách thực hiện các chuẩn mực hành vi: Những việc cần làm và những
việc cần tránh theo chuẩn mực hành vi quy định
( tương ứng với câu hỏi “ … như thế nào ? ” ).
* Đây cũng chính là nội dung đầy đủ của bài học đạo đức.

Trang 11

3.3. Để tạo hứng thú cho cả lớp, giáo viên nên gọi những học sinh nào khi
đặt câu hỏi đàm thoại ?
Khi yêu cầu học sinh trả lời câu hỏi, giáo viên có thể hỏi một học sinh nào
đó mà không nên phân biệt em đó có giơ tay xin phát biểu hay không. Sai lầm

của nhiều giáo viên là: Chỉ hỏi những em xung phong, ( khi đó, giáo viên chỉ biết
được nhận thức của một số em khá giỏi mà thôi và quan trọng là không tạo điều
kiện cho những em nhút nhát sự tự tin cần thiết ) mà giáo viên cần phải lựa chọn
được câu hỏi phù hợp cho từng em học sinh.
3.4. Giáo viên cần làm gì khi học sinh không trả lời được câu hỏi ?
Khi học sinh không trả lời được câu hỏi, giáo viên nên nêu những câu hỏi
gợi ý mà không được trả lời thay cho các em. Trong thực tiễn dạy học môn Đạo
đức, những câu hỏi mà học sinh gặp khó khăn khi trả lời thường là hai câu hỏi “
Tại sao ” và “ như thế nào ”.
Ví dụ: Câu hỏi: “ Tại sao chúng ta phải tôn trọng phụ nữ ? ”. Giáo viên
có thể gợi ý như sau: “ Trong gia đình người phụ nữ thường làm những việc gì ?
– Ngoài xã hội người phụ nữ giữ những chức vụ gì ? – Vậy chúng ta cần tỏ thái
độ như thế nào đối với phụ nữ ?
+ Giáo viên tránh những biểu hiện như chê bai, chế diễu, quát nạt, dọa
dẫm học sinh.
- Giáo viên cần phối hợp giũa đàm thoại với những phương pháp nào ?
+ Đàm thoại có thể phối hợp với nhiều phương pháp khác nhau, để hình
thành tri thức mới, hay tổ chức luyện tập để rèn kỹ năng hành vi.
Ví dụ: Nếu giáo viên sử dụng phương pháp đàm thoại để phân tích truyện
kể ( qua đó hình thành tri thức mới – yêu cầu của chuẩn mực hành vi ) thì nó đi
sau phương pháp kể chuyện và sau nó thường là thảo luận nhóm. Nếu đàm thoại
dừng lại ở câu hỏi rút ra nội dung bài học thì giáo viên dùng một phương pháp
nào đó để học sinh luyện tập như tổ chức trò chơi, thảo luận nhóm, …
+ Giáo viên tránh hiện tượng sử dụng phương pháp đàm thoại suốt cả tiết
học gây nhàm chán, làm giảm hiệu quả giáo dục.
3.5. Giáo viên nên sử dụng phương pháp kể chuyện trong dạy học môn Đạo
đức ra sao ?
- Phương pháp kể chuyện rất phù hợp với học sinh tiểu học, giúp cho bài
học đạo đức đến với trẻ một cách tự nhiên, nhẹ nhàng, sống động.
- Truyện kể đạo đức phải đảm bảo những yêu cầu sau:

+ Nội dung truyện: Truyện phải sát với chủ đề bài học, kể về cách ứng xử
của một nhân vật ( Có thể là danh nhân, là người lớn, là bạn cùng lứa tuổi, hoặc
là loài vật đã được nhân cách hóa ) trong một tình huống đạo đức cụ thể. Truyện
không những mô tả và khẳng định cách ứng xử của nhân vật như thế là đúng, là
đẹp ( hoặc là sai, là xấu ) mà còn làm cho học sinh thể nghiệm được niềm vui
sướng, hạnh phúc ( hoặc khó chịu, đau khổ ) của người được ứng xử đúng ( hoặc
sai ).

Trang 12

Giáo viên có thể chọn truyện Việt Nam hoặc nước ngoài. Truyện có thể kể
một tấm gương tốt để học sinh cần noi theo hoặc về một tấm gương xấu để học
sinh cần tránh, hoặc có thể về đồng thời cả gương tốt lẫn gương xấu để học sinh
có thể so sánh, đối chiếu, phê phán, đánh giá. Độ dài của truyện nên vừa phải,
phù hợp với sức bền chú ý của học sinh tiểu học.
+ Ngôn ngữ trong truyện: Phải trong sáng, dễ hiểu, giàu hình ảnh gợi cảm;
hạn chế dùng từ trừu tượng. Tránh diễn đạt bằng những câu quá dài, quá khó.
Tránh diễn đạt khô khan mà nên sử dụng những lời nói quen thuộc hằng ngày
sao cho câu chuyện dí dỏm, gây xúc cảm. Để cung cấp đầy đủ các hành vi chuẩn
mực đạo đức thuộc phạm vi bài học, giúp học sinh dùng các biểu tượng để vạn
dụng vào thực hành.
3.6. Giáo viên sử dụng phương pháp đóng vai trong dạy học đạo đức để làm
gì ?
* Phương pháp này có lợi ở chỗ:
- Học sinh được rèn luyện, thực hành những kỹ năng ứng xử và bày tỏ thái
độ trong môi trường an toàn trước khi thực hành trong thực tiễn.
- Gây hứng thú và chú ý cho học sinh.
- Tạo điều kiện làm nảy sinh óc sáng tạo của học sinh.
- Khích lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của học sinh theo chuẩn mực hành
vi đạo đức.

- Có thể thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói hoặc việc làm của các
vai diễn.
* Cách tiến hành:
- Giáo viên chia nhóm, giao nhiệm vụ đóng vai cho từng nhóm và quy
định thời gian chuẩn bị.
- Các nhóm thảo luận chuẩn bị đóng vai 3 phút – 5 phút.
- Các nhóm lên đóng vai 5 phút – 10 phút.
- Lớp thảo luận, nhận xét:
+ Cách ứng xử của các vai diễn phù hợp hay chưa phù hợp ? Chưa phù
hợp ở chỗ nào ?
+ Cảm xúc của học sinh khi thực hiện cách ứng xử ? Khi nhận được cách
ứng xử ( đúng hoặc sai ) ?
- Giáo viên kết luận về cách ứng xử cần thiết trong tình huống.
Ví dụ: Dạy bài: “ Có trách nhiệm về việc làm của mình ”.
Giáo viên tổ chức đóng vai thảo luận nhóm. Truyện “ Chuyện của bạn Đức ”.
Mỗi nhóm cử 3 bạn đóng vai bà Doan, bạn Đức và bạn Hợp.
- Các nhóm khác nhận xét.
- Giáo viên uốn nắn, sửa chữa kịp thời, nêu những hành vi tốt cho học sinh
noi theo và không nên trốn tránh trách nhiệm khi mình làm điều gì sai trái.
3.7. Nên tổ chức các loại trò chơi trong tiết đạo đức.

Trang 13

- Trò chơi để dạy học đạo đức rất phong phú, đa dạng, nhằm giúp học sinh
học mà chơi – chơi mà học phù hợp với nội dung bài học.
+ Những trò chơi vận động. Ví dụ như trò chơi “ Đèn hiệu ”, “ Ai đi đúng
luật ”; “ Đèn xanh, đèn đỏ ”; “ Vòng tròn chào hỏi ”; “ Văn minh, lịch sự ”…
+ Những trò chơi đố vui: Ví dụ như trò chơi
“ Nếu thì ”; “ Đón hành động không lời ”; “ Hái hoa dân chủ ”; “ Đón xem
con gì ? ”; “ Xem hình đón tên ”…

+ Những trò chơi tiếp sức: Ví dụ như tiếp sức viết tên các di tích lịch sử và
văn hóa; các danh lam thắng cảnh; các danh nhân Việt Nam,… giữa các nhóm.
+ Các trò chơi khác như trò chơi: “ Tặng hoa bạn tốt ”;
“ Tặng lời khen cho bạn ”; “ Vòng tròn giới thiệu tên ” …
Ví dụ: Dạy bài “ Tôn trọng phụ nữ ”. Tổ chức thảo luận nhóm và chơi trò
chơi tiếp sức.
- Các nhóm hãy tiếp sức nhau lên viết tên các phụ nữ Việt Nam thành đạt
trong xã hội mà em biết.
Ví dụ: Dạy bài “ Em yêu tổ quốc Việt Nam ” tổ chức cho các nhóm đố
vui: Tìm những hình ảnh về Việt Nam trong các tranh ảnh ở bài tập 2 trang 36.
Ví dụ: Dạy bài “ Em là học sinh lớp 5 ” tổ chức chơi trò chơi “ Vòng tròn
giới thiệu tên ” để các em biết tên nhau cho dễ xưng hô vào đầu năm học.
- Mục đích tổ chức trò chơi có thể là để khởi động, giới thiệu bài; có thể là
để học sinh tìm hiểu, phát hiện nội dung bài có thể để rèn luyện thái độ, kỹ năng
ứng xử cho học sinh; có thể để củng cố, khắc sâu kiến thức cho học sinh.
3.8. Giáo viên cần có những loại phương tiện nào để nâng cao hiệu quả dạy
học môn Đạo đức?
Ngày nay các phương tiện kỹ thuật hiện đại đang được đưa vào dạy học ở
tiểu học nói chung và dạy học môn Đạo đức nói riêng. Phương tiện gồm các loại
sau:
+ Phương tiện in vẽ: Các loại tranh, ảnh, hình vẽ… minh họa cho các tình
tiết, tình huống, hành vi của truyện kể đạo đức ( để học sinh rút ra bài học đạo
đức ), hoặc được đưa ra để học sinh đánh giá, xử lý trong quá trình thực hành.
+ Các phương tiện là đồ vật, mô hình: Ví dụ để sắm vai cụ già cần có cây
gậy, kính, mũ nón, …
+ Các phương tiện nghe nhìn như Video, đầu đĩa …
Ví dụ: Video cho học sinh xem phim có nội dung: Trật tự an toàn giao
thông; 15 phút ở bệnh viện Chợ Rẫy; Tác hại của tiêm chích ma túy; phong cảnh
của Tổ quốc Việt, …
3.9. Trong dạy học môn Đạo đức giáo viên nên sử dụng những hình thức tổ

chức nào ?
Dạy môn Đạo đức có thể phân biệt rõ tiết 1 và tiết 2. Ngoài hình thức bài
lên lớp, giáo viên có thể vận dụng những hình thức tổ chức sau:

Trang 14

+ Dạy học tại hiện trường: Ví dụ tiến hành dạy bài “ Kính già, yêu trẻ ”
các em biết giúp đỡ các em lớp 1, lớp 2 như xếp hàng khi chào cờ, tập thể dục
giữa giờ, …
+ Tham quan: Khi dạy bài “ Nhớ ơn tổ tiên ” Ngoài việc giáo dục các em
viếng mộ ông bà, giáo viên còn tổ chức cho các em viếng thăm bà mẹ Việt Nam
anh hùng, thăm khu căn cứ Tỉnh Ủy rừng tràm Mỹ Phước, … Tham quan Ủy ban
nhân dân xã khi dạy bài “ Ủy ban nhân dân xã ( phường ) em ”.
+ Dạy học theo nhóm: Ví dụ thảo luận theo nhóm, điều tra theo nhóm.
Ví dụ: Tổ chức cho học sinh điều tra theo nhóm để tìm hiểu về các hoạt
động bảo vệ hòa bình, chống chiến tranh gặp các cụ chiến binh ở địa phương.
Khi dạy bài “ Em yêu hòa bình ”.
+ Dạy học cá nhân: Tổ chức cho từng em học sinh làm bài tập đạo đức
theo phiếu học tập cá nhân, làm bài tập trong vở bài tập.
+ Tổ chức cho học sinh tự học ( học sinh tự trả lời những câu hỏi, tự thực
hiện những hành vi đạo đức …).
3.10. Giáo viên cần kết hợp dạy học theo lớp, theo nhóm, cá nhân thế nào?
- Hình thức cá nhân được áp dụng chủ yếu khi tổ chức cho học sinh làm
bài tập đạo đức theo phiếu học tập hoặc theo sách giáo khoa.
- Dạy học theo nhóm có thể vận dụng khi tổ chức cho học sinh thảo luận
nhóm, tham gia trò chơi…
- Dạy học toàn lớp thường được sử dụng khi giáo viên kiểm tra bài cũ, giới
thiệu bài mới, giao nhiệm vụ cho nhóm hay cá nhân, tổ chức cho học sinh trình
bày kết quả hoạt động trước lớp, tiến hành một số phương pháp kể chuyện, nêu
gương…

* Giáo viên cần ưu tiên vận dụng hình thức nhóm – Tạo điều kiện cho học sinh
được trao đổi với nhau, giúp đỡ nhau, hợp tác với nhau, bổ sung cho nhau…
trong quá trình học tập môn Đạo đức.
3.11. Ngoài việc học trên lớp giáo viên cần tổ chức cho học sinh tự học ở nhà.
Học ở nhà, học sinh không những củng cố tri thức đạo đức mà quan trọng
hơn là biến chúng thành hành vi, thói quen tốt hằng ngày, định hướng cho thái độ
tình cảm của các em. Nói cách khác, việc tự học ở nhà góp phần tạo nên sự thống
nhất hợp kim giữa ý thức, thái độ, hành vi ở trẻ em.
Tự học bao gồm những việc sau:
- Học bài đạo đức các hành vi, trong đó, có thể trả lời miệng các câu hỏi có
liên quan như “ Tại sao ”; “ như thế nào ”.
- Thực hiện tốt các hành vi, công việc khác nhau do chuẩn mực đạo đức
quy định.
- Hoàn thành các phiếu thực hành, các sản phẩm, vật mẫu liên quan đến
sưu tầm, điều tra hoạt động ngoại khóa.
- Chuẩn bị cho bài lên lớp như những dụng cụ đồ vật dùng để đóng vai
diễn, hoạt cảnh, trò chơi…

Trang 15

- Giáo viên tăng cường hoạt động thực hành thay cho việc đọc, ghi nhớ
máy móc…
- Để học sinh thực hiện tốt việc tự học, giáo viên cần đưa nội dung tự học
vừa sức, tích cực, giúp các em hiểu rõ nhiều công việc cần làm và cách thực hiện,
phối hợp với gia đình tạo điều kiện thuận lợi cho việc tự học của các em. Đặc
biệt là đối với những công việc điều tra sưu tầm, tham gia hoạt động ngoại
khóa…
Ví dụ: Theo bài “ Nhớ ơn tổ tiên ”, học sinh có thể:
- Tự trả lời những câu hỏi như: Các em cần làm làm gì để tỏ lòng nhớ ơn
tổ tiên ?

- Học sinh ghi lại những việc đã làm vào phiếu rèn luyện, thực hành.
- Chuẩn bị những dụng cụ, đồ vật cho trò chơi sắm vai theo yêu cầu của
giáo viên.
3.12. Trong dạy học môn Đạo đức có 3 tiết dành cho địa phương, giáo viên
có thể tổ chức thành các hoạt động ngoại khóa:
Để vận dụng được hình thức này, giáo viên cần lưu ý: Tính chất bài đạo
đức phù hợp với hoạt động; hoạt động vừa sức với khả năng, hứng thú của học
sinh.
Ví dụ: Với những bài sau, có thể vận dụng hình thức này: Bài “ Tình bạn ”
– Học sinh học giỏi giúp đỡ học sinh yếu, bênh vực bạn có sức khỏe yếu.
Bài “ Tôn trọng phụ nữ ”, học sinh nam không lấn lướt, coi thường các bạn
nữ trong lớp.
Bài: “ Em yêu hòa bình ” học sinh biết giúp đỡ những gia đình thương
binh liệt sĩ gặp khó khăn, quyên góp giúp đỡ những nạn nhân chiến tranh bị ảnh
hưởng chất độc màu da cam, tham gia phong trào “ Áo lụa tặng bà ”…
Sau khi hoạt động được tổ chức giáo viên nên tạo điều kiện cho học sinh
báo cáo kết quả, đánh giá những việc mình làm…
4. Kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh:
4.1. Trong dạy học môn Đạo đức, có thể kiểm tra - đánh giá tri thức đạo
đức ở học sinh bằng cách nào ?
Việc kiểm tra – đánh giá tri thức đạo đức có thể thực hiện bằng cách sau:
- Kiểm tra nói: Có thể yêu cầu học sinh nói lại phần ghi nhớ, bài học. Song
tốt hơn là yêu cầu các em trả lời những câu hỏi về sự cần thiết và cách thực hiện
hành vi.
Ví dụ: Đối với bài “ Ủy ban nhân dân xã ( phường ) em ” giáo viên có thể
nêu các câu hỏi để học sinh trả lời:
- Ủy ban nhân dân xã ( phường ) làm những việc gì ?
- Vậy chúng ta có thái độ như thế nào đối với Ủy ban nhân dân xã
( phường ) mình ?
* Cách kiểm tra này được vận dụng chủ yếu sau bài đạo đức.


Trang 16

+ Kiểm tra viết: Học sinh cần trả lời câu hỏi dạng tự luận hoặc trắc nghiệm
khách quan.
Tự luận là những câu hỏi về sự cần thiết, cách thực hiện các chuẩn mực
hành vi như “ tại sao…?”; “ …như thế nào ?”; “ có lợi gì ”; “ …có hại gì ?”…
Trắc nghiệm khách quan học sinh trả lời các câu hỏi dưới dạng sau:
Câu hỏi “ đúng…sai ”.
Ví dụ: Bài “ Kính già yêu trẻ ”.
Hãy ghi chữ Đ ( đúng ) hoặc S ( sai ) cào các ô trống sau:
 Chỉ cần giúp đỡ ông bà, em nhỏ trong gia đình là biết kính già yêu trẻ.
 Kính yêu, lễ phép, giúp đỡ người già và thương yêu giúp đỡ em nhỏ ở bất cứ
nơi nào là biết kính già yêu trẻ.
Câu hỏi nhiều lựa chọn:
Ví dụ: Bài “ Tình bạn ”.
- Hãy đánh dấu + vào 1 ô mà em cho là đúng nhất.
+ Nếu bạn bè không quan tâm giúp đỡ nhau thì:
 Cô giáo sẽ không hài lòng.
 Bạn bè sẽ không cho mình quà.
 Khó khăn không được chia sẻ, chậm tiến bộ, tình bạn không gắn bó.
4.2. Để kiểm tra thái độ, tình cảm đạo đức của học sinh thì giáo viên làm thế
nào ?
* Giáo viên kiểm tra, đánh giá thái độ tình cảm học sinh bằng những cách sau:
+ Kiểm tra nói: Giáo viên có thể đề nghị học sinh bày tỏ thái độ, tình cảm
của mình khi thực hiện những hành vi công việc theo chuẩn mực quy định qua
việc giải thích động cơ việc mình làm.Ví dụ: Bài “ Nhớ ơn tổ tiên ” sau khi học
sinh nêu một số việc mình đã làm để chăm sóc ông bà, cha mẹ trong thời gian
qua, giáo viên có thể hỏi học sinh: Vì sao em làm những công việc đó ?
Khi đó, học sinh sẽ nói lên động cơ là tình cảm của bản thân đối với những

người trong gia đình, trong dòng họ.
- Giáo viên có thể đưa ra một vài hành vi: “ Đôi bạn cùng nhau đi trong
rừng, bổng xuất hiện trước mắt họ một con gấu.
Một người lập tức bỏ chạy và leo tót lên cây ẩn nấp. Người kia đứng lại, anh liền
ngã lăn ra đất giả vờ chết. Gấu chỉ ngưởi vào mặt anh rồi bỏ đi ”.
Giáo viên hỏi: Các em có tán thành với thái độ của người bỏ chạy không ?
Vì sao ?
+ Trong trường hợp này, học sinh bày tỏ thái độ của mình cần đối xử tốt
với bạn bè gặp nguy hiểm,…
+ Kiểm tra viết: Giáo viên đưa ra một số câu dẫn hay phát biểu và yêu cầu
học sinh bày tỏ thái độ với các mức như đồng ý ( tán thành ), phân vân, không
đồng ý ( không tán thành )…
Ví dụ: Bài “ Em yêu quê hương ”.

Trang 17

- Hãy đánh dấu ( + ) vào những trường hợp thể hiện tình quê hương phù hợp với
thái độ của em.
STT Nội dung phát biểu Đồng ý Không đồng ý Phân vân
1
Nhớ về quê hương mỗi khi
đi xa.
2 Tham gia hoạt động tuyên
truyền phòng chống các tệ
nạn xã hội ở địa phương.
3
Giữ gìn và phát huy các
truyền thống tốt đẹp của quê
hương.
4

Quyên góp tiền của để tu bổ
di tích, xây dựng các công
trình công cộng ở quê.
5
Không về thăm quê
6
Tham gia trồng cây ở đường
làng, ngõ xóm.
7
Chỉ có người giàu mới cẩn
trách nhiệm đóng góp xây
dựng quê hương.
4.3. Làm thế nào để kiểm tra đánh giá hành vi của học sinh?
Giáo viên quan sát việc học sinh thể hiện hành vi, thực hiện công việc liên
quan bài học đạo đức và tình cảm của mình.
Những hành vi, công việc có thể được thực hiện một cách “ bình thường ”
trong cuộc sống của mình ở mọi lúc, mọi nơi.
Ví dụ như vệ sinh trường, lớp học, vệ sinh cá nhân,… Chào hỏi người lớn
có thể là đứng nghiêm, cất mũ, nón, tươi cười, nói lời phù hợp…
Có thể thông qua các hoạt động thường ngày của học sinh mà giáo viên
biết được hành vi của các em đối với thầy cô giáo, bạn bè, trường lớp …
* Mặc dù hành vi của các em lại chưa bền vững. Người giáo viên cần phải
kiên trì theo dõi, nhắc nhở thường xuyên, kịp thời.
Ngoài ra, việc kiểm tra đánh giá hành vi học sinh cũng có thể được thực
hiện thông qua bạn bè, gia đình học sinh, các tổ chức xã hội …Cần để đánh giá
thêm khách quan công bằng.
- Giáo viên nêu thêm một số hành vi đạo đức tốt có liên quan đến nội dung
từng bài học cho học sinh rút kinh nghiệm cho bản thân.

Trang 18


- Thường xuyên lồng trong bài học gương các danh nhân nổi tiếng về lòng
hiếu thảo, tính nhân hậu … để học sinh có biểu tượng về hành vi đạo đức.
- Chủ động phối hợp với Tổng phụ trách Đội sinh hoạt giáo dục đạo đức
học sinh theo 5 điều Bác Hồ dạy.
- Các em luôn liên hệ thực tế với nội dung bài học, để phân tích, phê phán
cái xấu, cái sai … Các sự việc xảy ra trong đời thường ở xung quanh mình.
- Đối với học sinh có thái độ không thật thà trong học tập, mỗi tiết kiểm tra
cho ngồi đối diện với giáo viên để nhắc nhở, động viên để các em học tập tốt
hơn.
- Nếu một học sinh chưa đủ những chứng cứ thì giáo viên tổ chức nhận xét
đánh giá học sinh đó cho đủ chứng cứ qua tiết thực hành giữa kì I, cuối kì I; thực
hành giữa kì II và cuối năm.
C. KẾT LUẬN – ĐỀ XUẤT
1. Kết luận:
Qua thực hiện những kinh nghiệm trên, tôi thấy:
- Học sinh hứng thú học tập khi học môn Đạo đức.
- Học sinh thích tìm tòi sách báo, ở Thư viện trường để đọc những truyện
kể áp dụng vào bài học đạo đức.
- Học sinh thích tham gia thực hiện các hành vi chuẩn mực đạo đức tốt.
- Học sinh thích nhận vai các nhân vật có hành vi đạo đức tốt khi liên hệ
thực hành.
- Đa số học sinh đã khắc phục được những hành vi sai trái mà đầu năm đã mắc
phải. Đến nay các em đã thực hiện khá tốt các hành vi chuẩn mực theo nội
dung các bài đã học thông qua các hoạt động mà tôi tổ chức cụ thể như:
+ Em Âu, em Đe thường hay mất trật tự, chửi thề, chưa có thái độ đúng
với thầy cô, bạn bè, … đến giờ đã giảm rất nhiều so với đầu năm.
+ Em Long Thạnh thường hay phá phách, đánh lộn với các bạn trong lớp,
và các em nhỏ ở lớp khác. Đến nay đã giảm nhiều so với đầu năm. Giờ đây em
biết tôn trọng tình bạn và yêu thương em nhỏ. Khi được giáo dục qua bài “ Tình

bạn ” và bài “ Kính già, yêu trẻ”.
+ Em Đô hay trêu chọc các bạn gái. Từ khi học bài “ Tôn trọng phụ nữ ”
thì các em không còn hành vi đó nữa.
Giờ đây các em rất đoàn kết với nhau khi tổ chức học nhóm và các hoạt
động ngoại khóa.
Nhờ sự tích cực học tập của học sinh; giáo viên cũng thấy hứng thú hơn
trong mỗi tiết dạy. Tiết học nào các em cũng đều phấn khởi, nên dẫn đến kết quả
cao trong học tập.

Trang 19

* Tóm lại: Tính cách con người của học sinh tiểu học dần dần được hình thành
qua các cử chỉ, thái độ, hành vi đạo đức là không thể thiếu, để các em tiến lên lớp
trên. Giúp các em có thói quen sử dụng tốt những hành vi chuẩn mực có hiệu quả
trong giao tiếp. Tôi nghĩ rằng việc giúp học sinh học tốt môn Đạo đức lớp 5,
ngoài việc phát triển các hành vi đạo đức cho các em cần có yêu cầu cao hơn, là
để học sinh trở thành các công dân tốt cho xã hội, là thành viên tốt trong gia
đình. Vì vậy không chỉ một mình giáo viên mà thực hiện tốt được mà người giáo
viên cần chủ động phối hợp tốt với bạn bè học sinh, thầy cô giáo trong trường,
phụ huynh học sinh và các tổ chức xa hội.
Mặc dù, số học sinh đã đạt ở mức hoàn thành, nhưng tôi nhận thấy mình
cần duy trì và phát huy hơn nữa. Bằng cách học hỏi ở đồng nghiệp, tìm tòi ở sách
báo để học hỏi những biện pháp giáo dục tích cực, nhằm phục vụ cho việc dạy
đạo đức có sức thuyết phục hơn nữa. Để cuối năm học sinh đạt ở mức độ hoàn
thành tốt 100%. Đó là ước mơ chân thành của tôi.
2. Đề xuất:
- Nhà trường cần giúp đỡ nhiều đến số học sinh nghèo, thiếu sách vở, đồ
dùng học tập bằng cách rà soát kỹ, cấp sách kịp thời, để các em yên tâm học tập.
- Hội khuyến học cần quan tâm đúng mức đến những học sinh có hoàn
cảnh quá khó khăn bằng vật chất để động viên các em tích cực học tập.

- Hội chữ thập đỏ trường học tận tình giúp đỡ các em trong và ngoài hội
lúc các em gặp khó khăn.
- Gia đình cần tạo điều kiện cho các em thực hiện tốt giờ học ở nhà cũng
như ở lớp. Dự họp phụ huynh đầy đủ khi có thư mời. Đảm bảo thông tin liên lạc
giữa gia đình và nhà trường.
- Các tổ chức xã hội kiểm tra các băng đĩa có nội dung không lành mạnh,
quy định giờ giấc kinh doanh của các quán, tiệm, … để học sinh không la cà, lêu
lỏng, … ảnh hưởng đến nhân cách đạo đức của các em.
Tôi mong rằng những đề xuất thiết thực này sẽ được nhà trường, gia đình
học sinh và các tổ chức xã hội đáp ứng kịp thời, nhằm phục vụ tích cực, để giáo
dục học sinh thành những con người hoàn thiện về tri thức và đạo đức trong
tương lai của đất nước.
Mỹ Phước D, ngày 19 tháng 11 năm 2009
Duyệt Người viết
Hiệu trưởng
Ngô Văn Liêm

Trang 20


Trang 21

×