TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
------
NGUYỄN THANH LAM
TÌM HIỂU TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN VÀ THỰC TRẠNG
XÂY DỰNG Ý THỨC BẢO VỆ TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
CHO THANH, THIẾU NIÊN TỈNH AN GIANG
TỪ NĂM 2006 ĐẾN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Khóa học: 2006 - 2010
An Giang, 2010
TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
------
NGUYỄN THANH LAM
LỚP DH7CT
TÌM HIỂU TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN VÀ THỰC TRẠNG
XÂY DỰNG Ý THỨC BẢO VỆ TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
CHO THANH, THIẾU NIÊN TỈNH AN GIANG
TỪ NĂM 2006 ĐẾN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Khóa học: 2006 - 2010
Ngành học: Sư phạm Giáo dục chính trị
GVHD: TH.S BÙI THU HẰNG
An Giang, 2010
LỜI CẢM ƠN
Bốn năm Đại học không phải là thời gian ngắn ngủi để gia đình dõi theo
từng bước chân của con, cháu mới chập chững bước vào đời, nhưng đó cũng
không phải là thời gian dài cho chúng ta tiếp thu và học hỏi nhiều điều, vì thế
mà bên cạnh những giờ học chính khóa còn đòi hỏi người sinh viên phải
không ngừng tự học, tự nghiên cứu để tích lũy cho mình nhiều hơn những
kiến thức đã được học. Điều đó tạo điều kiện thuận lợi hơn cho em khi làm
khóa luận tốt nghiệp cuối khóa, nó được xem như là “cuộc tổng diễn tập”, mà
cuộc tổng diễn tập này cũng cần có người chỉ huy, điều hành; mật trận này
người điều hành không ai khác đó là cô hướng dẫn của em, Thạc sĩ Bùi Thu
Hằng.
Để hoàn thành được khóa luận em đã nhận được sự quan tâm, chỉ dẫn
và giúp đỡ nhiệt tình của cô Hằng, em xin chân thành cảm ơn cô. Ngoài ra,
em xin chân thành gửi lời cảm ơn tới Ban Giám Hiệu, Ban Chủ nhiệm khoa
đã tạo điều kiện cho chúng em được nghiên cứu, viết đề tài tốt nghiệp, cảm
ơn các cơ quan: Bộ chỉ huy quân sự tỉnh An Giang, Tỉnh Đoàn An Giang,
Ban tuyên giáo tỉnh An Giang, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh An Giang,…
đã tạo điều kiện cho em thu thập tài liệu, cảm ơn các bạn bè và người thân đã
động viên em trong suốt thời gian em làm khóa luận tốt nghiệp.
Xin trân trọng kính chào!
Nguyễn Thanh Lam
MỤC LỤC
Trang
Phần mở đầu................................................................................................01
1. Lí do chọn đề tài........................................................................................01
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu................................................................02
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu..........................................03
4. Phương pháp nghiên cứu...........................................................................03
5. Đóng góp của khóa luận............................................................................03
6. Dàn ý của khóa luận..................................................................................03
Phần nội dung..............................................................................................05
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN
1.1. Khái niệm quốc phòng toàn dân ............................................................05
1.2. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc phòng toàn dân........06
1.2.1. Truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc...........07
1.2.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quốc phòng toàn dân.....11
1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc phòng toàn dân ...................................13
1.3.1. Phạm trù “dân” trong tư tưởng Hồ Chí Minh ..................................13
1.3.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc phòng toàn dân qua các thời kỳ....17
1.3.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc phòng toàn dân
thời kỳ 1945 - 1946..................................................................................17
1.3.2.1.1. Mục đích, tính chất của nền quốc phòng toàn dân ...............18
1.3.2.1.2. Xây dựng tiềm lực và thế trận quốc phòng toàn dân
chuẩn bị kháng chiến chống thực dân Pháp..........................................20
1.3.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc phòng toàn dân
thời kỳ 1946 - 1954..................................................................................28
1.3.2.2.1. Xây dựng tiềm lực quốc phòng trực tiếp phục vụ
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược ........................................28
1.3.2.2.2. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân đáp ứng yêu cầu
chiến tranh nhân dân chống thực dân Pháp...........................................34
1.3.2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc phòng toàn dân
thời kỳ 1954 - 1975..................................................................................36
1.3.2.3.1. Nêu cao cảnh giác, ra sức xây dựng, củng cố nền
quốc phòng toàn dân, toàn diện, hiện đại .............................................36
1.3.2.3.2. Xây dựng tiềm lực và thế trận quốc phòng toàn dân
đáp ứng yêu cầu bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước ..............................................................................40
1.3.2.3.3. Xây dựng lực lượng quốc phòng, lực lượng vũ trang
nhân dân làm nồng cốt của nền quốc phòng toàn dân ..................................44
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XÂY DỰNG Ý THỨC
BẢO VỆ TỔ QUỐC XHCN CHO THANH, THIẾU NIÊN
TỈNH AN GIANG TỪ NĂM 2006 ĐẾN NAY
2.1. Vị trí chiến lược về quốc phòng - an ninh của tỉnh An Giang...............48
2.2. Vị trí và vai trò của thanh, thiếu niên trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc XHCN..................................................................................55
2.3. Thực trạng xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc XHCN cho thanh,
thiếu niên tỉnh An Giang từ năm 2006 đến nay ............................................58
2.3.1. Thành tựu .........................................................................................60
2.3.2. Hạn chế.............................................................................................71
2.4. Một số giải pháp cho quá trình xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc XHCN
cho thanh, thiếu niên tỉnh An Giang trong những năm tiếp theo..................74
Phần kết luận.........................................................................................................82
Danh sách tài liệu tham khảo.....................................................................84
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ANCT :An ninh chính trị
CLB :Câu lạc bộ
CNXH :Chủ nghĩa xã hội
DQTV :Dân quân tự vệ
LHTN :Liên hiệp thanh niên
LLVT :Lực lượng vũ trang
QP :Quốc phòng
QPTD :Quốc phòng toàn dân
TNXH :Tệ nạn xã hội
TTN :Thanh, thiếu niên
TTATXH :Trật tự an toàn xã hội
UBND :Ủy ban nhân dân
XHCN :Xã hội chủ nghĩa
Trang 1
PHẦN MỞ ĐẦU
TÌM HIỂU TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN VÀ THỰC TRẠNG
XÂY DỰNG Ý THỨC BẢO VỆ TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
CHO THANH, THIẾU NIÊN TỈNH AN GIANG
TỪ NĂM 2006 ĐẾN NAY
Chuyên ngành: Giáo dục chính trị
1. Lí do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh người sáng lập và rèn luyện Đảng cộng sản Việt
Nam. Từ khi Đảng Cộng sản được thành lập đến nay, gắn liền với quá trình
phát triển của cách mạng, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành tài sản tinh
thần vô giá của Đảng và dân tộc ta. Mỗi bước đi của cách mạng Việt Nam
gắn bó chặt chẽ với sự nghiệp và sự phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống các quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, trong đó tư tưởng QPTD đã
trở thành tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt để tập hợp toàn dân và các hình thức
mặt trận, phát huy cao độ khả năng của nhân dân trong cuộc kháng chiến
toàn dân toàn diện, trường kỳ, là nguồn gốc thắng lợi của cuộc kháng chiến
cứu nước thần thánh của nhân dân ta chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
xâm lược.
Hiện nay, tình hình chính trị thế giới và trong nước đang có nhiều diễn
biến phức tạp. Trên thế giới, các cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân
tộc vẫn tiếp tục diễn ra gay gắt và quyết liệt, nguy cơ chiến tranh thế giới bị
đẩy lùi nhưng những cuộc xung đột vũ trang và nội chiến vẫn xảy ra và kéo
dài ở nhiều nơi, những mâu thuẫn gay gắt về dân tộc, tôn giáo, lãnh thổ
đang tiếp diễn. Trong bối cảnh đó, các nước XHCN còn lại tiếp tục phấn
đấu xây dựng đất nước theo con đường XHCN phù hợp với đặc điểm từng
nước. Việt Nam đã và đang nằm trong tầm ngắm của các thế lực phản động
và đế quốc, chúng lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, sắc
tộc để can thiệp vào công việc nội bộ của ta nhằm thực hiện diễn biến hòa
bình, bạo loạn lật đổ, gây bạo loạn chính trị, tình hình đó đã đặt ra những
yêu cầu mới cho nhiệm vụ QP - an ninh trong thời kỳ mới, nhiệm vụ QP
không chỉ của riêng Đảng và Nhà nước mà là của toàn thể nhân dân. Vì thế,
cần thiết phải học tập, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về QPTD trong bối
GVHD: Bùi Thu Hằng SVTH: Nguyễn Thanh Lam
Trang 2
cảnh hiện nay để phát huy tổng hợp sức mạnh toàn dân, của hệ thống chính
trị, từng bước nâng cao tiềm lực QP- an ninh của đất nước để bảo vệ vững
chắc độc lập, an ninh, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo vệ
nhân dân, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ XHCN làm thất bại mọi âm mưu
chống phá nhà nước XHCN của các thế lực thù địch.
Mặt khác, đứng trước sự nghiệp đổi mới, quá trình xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc XHCN đã đặt ra nhiều vấn đề cấp bách, phức tạp không thể không
giải quyết, đặt biệt trước sự biến đổi nhanh chóng, khó lường của cuộc
khủng hoảng và suy thoái kinh tế thế giới, của hàng loạt vấn đề toàn cầu
hóa, phát triển kinh tế tri thức và hội nhập kinh tế quốc tế. Sự tiếp thu thiếu
chọn lọc các nền văn hóa trên thế giới của bộ phận TTN đã làm mất đi bản
sắc văn hóa dân tộc, một khi an ninh văn hóa bị khủng hoảng thì ý thức dân
tộc cũng dần phai mờ đi từ đó ảnh hưởng đến ý thức bảo vệ Tổ quốc.
Nếu không làm tốt công tác xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc, không
thực hiện tốt việc giáo dục tuyên truyền cho đồng bào Việt Nam đặt biệt đối
với TTN - là người chủ tương lai của đất nước và là lớp người dễ chịu tác
động bên ngoài, về những vấn đề liên quan đến sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc,
thì không những không phát huy được vai trò của họ đối với sự nghiệp bảo
vệ Tổ quốc, mà họ còn bị các thế lực thù địch lợi dụng, chia rẽ gây mất
đoàn kết và có thể trở thành lực lượng đối lập, chống đối lại dân tộc và đất
nước. Âm mưu, thủ đoạn đó chỉ có thể thất bại trước sức mạnh tổng hợp
của nước ta được nâng cao, khi chúng ta thực hiện tốt việc xây dựng ý thức
bảo vệ Tổ quốc XHCN cho mọi người dân.
An Giang là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về phát triển kinh tế
và QP - an ninh, có đường biên giới tiếp giáp với nước bạn Campuchia nên
việc ý thức bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia là vô cùng quan
trọng, nhất là trong tình hình hiện nay. Hơn nữa, việc học tập tư tưởng Hồ
Chí Minh đã trở thành cuộc vận động lớn trong cả nước, vì vậy, để vận
dụng tư tưởng của Hồ Chí Minh vào quá trình xây dựng ý thức bảo vệ Tổ
quốc XHCN cho TTN trên địa bàn tỉnh An Giang là vô cùng cần thiết.
Chính vì những lý do trên nên tôi quyết định chọn đề tài: “Tìm hiểu tư
tưởng Hồ Chí Minh về quốc phòng toàn dân và thực trạng xây dựng ý thức
bảo vệ Tổ quốc XHCN cho thanh, thiếu niên tỉnh An Giang từ năm 2006
đến nay” làm khóa luận tốt nghiệp.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về
QPTD.
GVHD: Bùi Thu Hằng SVTH: Nguyễn Thanh Lam
Trang 3
- Tìm hiểu thực trạng xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc XHCN cho TTN
tỉnh An Giang từ năm 2006 đến nay.
- Vận dụng những quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh về QPTD vào quá
trình xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc XHCN cho TTN tỉnh An Giang hiện
nay.
- Đề suất những giải pháp nhằm góp phần phát huy hơn nữa hiệu quả
công tác giáo dục, xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc XHCN cho TTN trên
địa bàn tỉnh An Giang.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về QPTD.
- Quá trình xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc XHCN cho TTN trên địa
bàn tỉnh An Giang (Tân Châu, Châu Đốc, Tịnh Biên, Long Xuyên, Châu
Thành), từ năm 2006 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài có sử dụng các phương pháp chuyên ngành làm cơ sở cho quá
trình nghiên cứu như: Phương pháp luận duy vật biện chứng, phương pháp
lịch sử và logic, phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Ngoài ra khóa luận còn sử dụng một số phương pháp khác: phương
pháp thống kê, phương pháp điều tra.
5. Đóng góp của khóa luận
- Hệ thống hóa tư tưởng QPTD của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
- Vạch ra những thành tựu, hạn chế và đề suất những giải pháp góp phần
nâng cao ý thức bảo vệ Tổ quốc của mỗi người, đặt biệt là đối với TTN tỉnh
An Giang trong thời gian tới.
6. Dàn ý của khóa luận
Phần mở đầu
Phần nội dung
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN
1.1. Khái niệm quốc phòng toàn dân
1.2. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc phòng toàn dân
1.2.1. Truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc
1.2.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quốc phòng toàn dân
1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc phòng toàn dân
1.3.1. Phạm trù “dân” trong tư tưởng Hồ Chí Minh
1.3.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc phòng toàn dân qua các thời kỳ
GVHD: Bùi Thu Hằng SVTH: Nguyễn Thanh Lam
Trang 4
1.3.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc phòng toàn dân thời kỳ 1945
- 1946
1.3.2.1.1. Mục đích, tính chất của nền quốc phòng toàn dân
1.3.2.1.2. Xây dựng tiềm lực và thế trận quốc phòng toàn dân
chuẩn bị kháng chiến chống thực dân Pháp
1.3.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc phòng toàn dân thời kỳ 1946
- 1954
1.3.2.2.1. Xây dựng tiềm lực quốc phòng trực tiếp phục vụ kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược
1.3.2.2.2. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân đáp ứng yêu cầu
chiến tranh nhân dân chống thực dân Pháp
1.3.2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc phòng toàn dân thời kỳ 1954
- 1975
1.3.2.3.1. Nêu cao cảnh giác, ra sức xây dựng, củng cố nền quốc
phòng toàn dân, toàn diện, hiện đại
1.3.2.3.2. Xây dựng tiềm lực và thế trận quốc phòng toàn dân đáp
ứng yêu cầu bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất
đất nước
1.3.2.3.3. Xây dựng lực lượng quốc phòng, lực lượng vũ trang nhân
dân làm nồng cốt của nền quốc phòng toàn dân
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XÂY DỰNG Ý THỨC
BẢO VỆ TỔ QUỐC XHCN CHO THANH, THIẾU NIÊN
TỈNH AN GIANG TỪ NĂM 2006 ĐẾN NAY
2.1. Vị trí chiến lược về quốc phòng - an ninh của tỉnh An Giang
2.2. Vị trí và vai trò của thanh, thiếu niên trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc XHCN
2.3. Thực trạng xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc XHCN cho thanh, thiếu
niên tỉnh An Giang từ năm 2006 đến nay
2.3.1. Thành tựu
2.3.2. Hạn chế
2.4. Một số giải pháp cho quá trình xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc
XHCN cho thanh, thiếu niên tỉnh An Giang trong những năm tiếp theo
Phần kết luận
GVHD: Bùi Thu Hằng SVTH: Nguyễn Thanh Lam
Trang 5
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN
1.1. Khái niệm quốc phòng toàn dân
Chủ tịch Hồ Chí Minh, người thầy vĩ đại, vị lãnh tụ thiên tài của cách
mạng Việt Nam. Người đã được cả thế giới tôn vinh “là một biểu tượng kiệt
xuất về quyết tâm của cả một dân tộc đã cống hiến trọn đời mình cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc của Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh
chung của các dân tộc vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội”[39, tr.21].
Sinh ra và lớn lên trong bối cảnh đất nước bị xâm lấn. Người đã chứng
kiến cuộc sống khổ cực của nhân dân, biết bao cuộc nổi dậy của nhân dân
bị dìm trong máu lửa. Mang theo nỗi đau của dân tộc, Người đã ra đi tìm
con đường cứu nước và phải phóng dân tộc. Kiên trì với con đường đã
chọn, Người đã cùng với Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo thắng lợi hai
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, mở ra thời kỳ sụp
đổ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân cũ và làm thất bại một bước
chủ nghĩa thực dân mới, góp phần tác động sâu xa vào tiến trình lịch sử thế
giới trong thế kỷ XX. Chính vì vậy, mỗi bước đi của cách mạng Việt Nam
đều gắn bó với tư tưởng của Người, với tầm quan trọng đó tại Đại hội Đảng
lần thứ VII xác định tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho mọi hành động. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm
toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng XHCN; là kết quả của
sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta,
đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người[12, tr.8].
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là nhà chiến lược thiên tài, là người cha thân
yêu của các LLVT nhân dân. Người nói quân đội ta “từ nhân dân mà ra, vì
nhân dân mà chiến đấu”, từ đó đã bồi dưỡng cho họ tinh thần quyết chiến,
quyết thắng, làm nên những chiến công vang dội, được cả loài người khâm
phục và ca ngợi. Những tư tưởng của Người về cách mạng Việt Nam vẫn
còn có giá trị to lớn cho đến ngày nay, trong đó có tư tưởng về chiến tranh
nhân dân và QPTD.
GVHD: Bùi Thu Hằng SVTH: Nguyễn Thanh Lam
Trang 6
QP là công cuộc giữ nước của một quốc gia gồm tổng thể các hoạt động
đối nội, đối ngoại cả về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học - công
nghệ,... của Nhà nước và nhân dân để phòng thủ đất nước, tạo sức mạnh
toàn diện, cân đối, trong đó sức mạnh quân sự là đặc trưng nhằm giữ vững
hòa bình, đẩy lùi, ngăn chặn các hoạt động gây chiến của kẻ thù, sẵn sàng
đánh thắng chiến tranh xâm lược dưới mọi hình thức, mọi quy mô. QPTD là
nền QP được xây dựng theo phương thức toàn dân, toàn diện.
Như vậy, hiểu QP, xây dựng nền QPTD là hoạt động của cả nước, trên
mọi lĩnh vực, lấy LLVT là lực lượng nòng cốt. QP không đồng nghĩa với
quân sự, với chiến tranh, nó được thực hiện trong thời bình nhằm mục đích
tự vệ, phòng thủ đất nước, nhưng không thụ động mà phải chủ động ngăn
chặn, đẩy lùi, làm thất bại mọi âm mưu của kẻ thù và sẵn sàng đánh thắng
khi chiến tranh xảy ra. Chiến lược QP tối ưu là chiến lược giữ nước mà
không phải tiến hành chiến tranh, là chiến lược giải quyết hợp lý các mối
quan hệ giữa kinh tế với QP và các mặt hoạt động khác của xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, nền QPTD là nền QP mang tính chất của dân, do
dân và vì dân. Nền QPTD được xây dựng theo phương hướng toàn dân,
toàn diện, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường và ngày càng hiện đại nhằm bảo
vệ lợi ích của nhân dân, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ Tổ quốc và
chế độ XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Nền QPTD có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, đó là nền QP của dân, do dân, vì dân được xác lập sau khi
nhân dân giành được quyền làm chủ đất nước, thiết lập chính quyền nhân
dân, xây dựng chế độ mới chế độ XHCN.
Thứ hai, đó là nền QP mang tính tự vệ tích cực, nền QPTD chủ động
xây dựng để bảo vệ thành quả cách mạng của nhân dân, bảo vệ quyền lợi
của mình, bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Thứ ba, đó là nền QP hoàn toàn chính nghĩa, phục vụ nhân dân, bảo vệ
đất nước, không bành trướng, đe dọa và xâm lược, can thiệp vào bất cứ
quốc gia dân, tộc nào.
Thứ tư, là nền QP xây dựng và phát triển theo một kiểu phòng thủ tổng
hợp bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân để bảo vệ Tổ quốc.[3, tr.63]
1.2. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc phòng
toàn dân
Tư tưởng Hồ Chí Minh về QPTD bắt nguồn từ truyền thống đấu tranh
dựng và giữ nước của dân tộc Việt Nam qua hàng ngàn năm lịch sử và quan
GVHD: Bùi Thu Hằng SVTH: Nguyễn Thanh Lam
Trang 7
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về QPTD, từ thực tiễn hoạt động cách
mạng của Người.
1.2.1. Truyền thống đấu tranh dựng và giữ nước của dân tộc
Dân tộc Việt Nam ta có lịch sử mấy nghìn năm, có ngôn ngữ riêng, văn
tự riêng, phong tục, tập quán riêng, cốt cách làm ăn riêng và có nền văn hóa
lâu đời của mình. Tất cả những cái đó tạo nên truyền thống, tình cảm riêng
của dân tộc ta. Đó là truyền thống yêu nước nồng nàn, truyền thống đoàn
kết đấu tranh dựng và giữ nước của dân tộc.
Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, ông cha ta đã
tích lũy biết bao kinh nghiệm quý báu về tập hợp lực lượng xây dựng nền
QP để bảo vệ vững chắc đất nước được phản ánh trong các bộ sử lớn của
dân tộc như “Đại Việt sử ký toàn thư”, “Lịch triều hiến chương loại chí”.
Những tư tưởng sơ khai về QPTD bảo vệ đất nước được thể hiện cụ thể
trong việc tổ chức nhà nước và tập hợp sức mạnh của toàn dân chống giặc
ngoại xâm của các vua Hùng. Sau khi đánh thắng quân Tần, Thục Phán đã
thay thế Hùng Vương, tự xưng là An Dương Vương, lập ra nước Âu Lạc.
Các nhiệm vụ QP được đặt ra nhằm giữ vững thành quả đã đạt được. Kinh
tế, chính trị, văn hoá, xã hội thời Âu Lạc đều tiếp tục phát triển trên cơ sở
những thành tựu đã đạt được của nước Văn Lang trước đây. Do yêu cầu bức
thiết của cuộc chiến đấu chống ngoại xâm, trong thời Âu Lạc, kỹ thuật quân
sự có những tiến bộ vượt bậc. Đó là việc sáng chế ra nỏ thần Liên Châu bắn
một lần nhiều phát tên, được coi là loại vũ khí mới, lợi hại và việc xây dựng
thành Cổ Loa, một kỳ công kỹ thuật QP của nhân dân Âu Lạc. [30, tr.43,
65]
Sau hơn 1.000 năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ, qua nhiều lần chia
cắt, tách nhập, năm 905 quyền tự chủ của dân tộc được lập lại trên phạm vi
hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân. Các triều đại Ngô, Đinh, tiền Lê và Lý kế
tiếp nhau củng cố nền độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
Thời Lý - Trần cũng như nhiều giai đoạn khác trong lịch sử dân tộc, vấn
đề củng cố QP, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ độc lập tự chủ luôn luôn được
nhà nước và nhân dân ta quan tâm đặc biệt. Gần như thông lệ sau khi củng
cố được địa vị thống trị của mình, các triều đại phong kiến phương Bắc lại
tìm cơ hội đưa quân sang xâm lược nước ta. Kẻ thù dân tộc ta lúc đó là các
thế lực bành trướng nhà Tống, nhà Nguyên - Mông rất lớn mạnh: nước lớn,
đông dân, lương nhiều, quân đông, đã từng nổi tiếng thế giới đương thời về
những đạo bộ binh, kỵ binh tinh nhuệ, các hạm thuyền lớn vượt biển...
Trong khi quân thù to lớn và tàn bạo thì trái lại, nước Đại Việt nhỏ bé chỉ
GVHD: Bùi Thu Hằng SVTH: Nguyễn Thanh Lam
Trang 8
có chừng 5 đến 7 triệu dân, quân đội thường trực lúc hòa bình chỉ khoảng 5
đến 10 vạn. Để đánh thắng giặc, bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc thì
nhiệm vụ xây dựng quân đội như thế nào là một phương lược lớn của tổ
tiên ta thuở ấy.
Bấy giờ hoàn cảnh đặt ra hai nhu cầu cấp thiết: vừa phải xây dựng nước
nhà giàu mạnh, vừa phải tăng cường khả năng QP, sẵn sàng đối phó với
nguy cơ xâm lược. Trước yêu cầu lịch sử đó, triều Lý và triều Trần đã
không ngừng củng cố nhà nước tập quyền, tăng cường khối đoàn kết thống
nhất, thực hiện khoan thư sức dân, xây dựng quân đội chính quy... Lúc bấy
giờ, một hệ thống ngạch quân được tổ chức hoàn chỉnh với đủ các thành
phần: Quân chủ lực của triều đình; quân của lộ, phủ, châu; quân của quý
tộc, tông thất (quân vương hầu) và lực lượng dân binh (hương binh) trong
làng xã, động bản. Trong đó, quân đội thường trực quốc gia là lực lượng
nòng cốt được xây dựng theo phương thức “cốt tinh nhuệ không cốt nhiều”
[25, tr.61]. Chiến tranh xâm lược từ phương Bắc có thể xảy ra bất cứ lúc
nào. Các đế chế phong kiến phương Bắc thường xuyên dòm ngó và mưu
toan tìm cơ hội thôn tính đất Việt. Tình hình đó đòi hỏi những người lãnh
đạo quốc gia phải có phương lược thích hợp nhằm xây dựng thế nước, chú
ý QP, coi việc giữ nước luôn luôn là một trong những nhiệm vụ trọng yếu
nhất. Tuy nhiên, trong điều kiện so sánh lực lượng giữa ta và địch quá
chênh lệch, cách đánh của tổ tiên ta ngay từ đầu là lấy yếu chống mạnh, lấy
ít địch nhiều. Vì vậy, bên cạnh yêu cầu có một nghệ thuật quân sự giỏi,
nghệ thuật quân sự của chiến tranh toàn dân, còn yêu cầu chất lượng cao
trong tổ chức quân đội, trong từng đơn vị và ở mỗi một người lính. Mặt
khác, ở nước ta công cuộc dựng nước và giữ nước luôn luôn đi đôi với
nhau. Cùng với nhiệm vụ xây dựng kinh tế, còn có nhiệm vụ xây dựng quân
đội sao cho đỡ phần chi phí tốn kém, ít ảnh hưởng đến sản xuất. Chính vì
vậy, bớt phần số lượng, nâng cao chất lượng quân đội là một yêu cầu quan
trọng. Nhưng cả hai yếu tố số lượng và chất lượng đều cần để tạo nên sức
mạnh quân đội trong chiến tranh và QP để giữ nước. Cho nên, ở hoàn cảnh
nước ta, phải có phương thức xây dựng quân đội làm sao lúc hòa bình, quân
thường trực có số lượng vừa đủ mà chất lượng cao, lại có quân dự bị hùng
hậu, được huấn luyện tốt, để khi chiến tranh xảy ra, nhà nước có thể nhanh
chóng huy động được số quân đông, đủ sức đánh thắng quân thù. Đó là bài
toán chiến lược, những lý do mà cha ông ta từ sớm đã thường xuyên quan
tâm xây dựng quân đội có chất lượng tốt. Sức mạnh quân đội trước hết biểu
hiện trên lĩnh vực tổ chức.
GVHD: Bùi Thu Hằng SVTH: Nguyễn Thanh Lam
Trang 9
Thời Lý - Trần, tổ tiên ta không ngừng kiện toàn cơ cấu tổ chức quân
đội, chú trọng xây dựng quân thường trực chính quy có biên chế tổ chức
hợp lý, gọn nhẹ. Chính sách “ngụ binh ư nông” đã trở thành quốc sách kết
hợp kinh tế với QP, bảo đảm chất lượng và số lượng quân đội khi hòa bình
vẫn đủ sức canh phòng, thời chiến huy động được đông đảo quân đội, thực
hiện chiến tranh nhân dân, toàn dân là lính trong khi đó vẫn ổn định về kinh
tế. Bình thường nhà Lý có 3 đến 5 vạn quân, một bộ phận được luân phiên
về sản xuất nhưng khi chiến tranh, nhà nước đã huy động được trên 10 vạn.
Thời nhà Trần lúc hòa bình “quân số chưa đầy 10 vạn”, nhưng trong kháng
chiến chống Nguyên Mông đã có lúc triều đình đã huy động được 20 - 30
vạn quân đánh giặc. “Đại để lúc vô sự thì phục binh ở nơi thuận tiện, khi có
nạn thì đều hết sức chống cự. Thế là đời Trần nhân dân ai cũng là binh, nên
mới phá được giặc dữ, làm cho thế nước được mạnh”[5, tr.5]. “Đó là chính
sách tốt, chế độ hay của thời cận cổ”. Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú hoặc
Ngô Thì Sỹ đều có nhận xét rằng: “binh thế Đại Việt rất thịnh”; “lúc nông
nhàn thì luyện tập, lúc vô sự thì làm ruộng, khi có động thì chiêu sổ gọi ra”,
cho nên “binh vẫn đủ mà không phải chi phí nhiều, càng thêm hăng hái
chống giặc, “thế nước càng thêm vững mạnh là nhờ vậy”.
Trong xã hội Lý - Trần, nền kinh tế nông nghiệp giữ vai trò chủ đạo và
là cơ sở của mọi hoạt động trong nước. Chính quyền phong kiến coi trọng
nghề nông và đề ra nhiều chính sách chăm lo phát triển nông nghiệp. Sức
lao động và sức kéo trong nông nghiệp được nhà nước bảo vệ. Nông dân có
ruộng cày, xóm làng ổn định. Từ thời Trần nhà nước khuyến khích khai phá
đất hoang lập thành các trang trại lớn.
Sự phát triển của kinh tế điền trang thái ấp cùng với việc cho phép các
vương hầu quý tộc xây dựng phủ đệ và LLVT riêng vừa có ý nghĩa kinh tế
vừa có ý nghĩa quân sự, càng tăng thêm thế nước, chính quyền có thêm lực
lượng vật chất để bảo vệ vương quyền và phòng giữ đất nước.
Những thành tựu trên lĩnh vực kinh tế đã tạo ra những cơ sở vật chất
vững vàng cho sự tồn tại quốc gia độc lập tự chủ và mở ra những điều kiện
thuận lợi cho sự phát triển nền văn hóa dân tộc.
Trong xã hội thời Lý - Trần, người nông dân công xã vẫn bảo lưu những
phong tục tập quán cổ truyền, và duy trì quan hệ cộng đồng chặt chẽ, sớm
kết hợp ý thức tình làng nghĩa xóm với ý thức quốc gia dân tộc, nước gắn
liền với làng. Yêu cầu của công cuộc giữ nước trong giai đoạn này đã thúc
đẩy nền văn hóa phát triển mang đậm ý thức dân tộc. Thơ Nam quốc sơn hà
và Lộ bố văn của Lý Thường Kiệt cùng với các sáng tác thời Trần như Hịch
GVHD: Bùi Thu Hằng SVTH: Nguyễn Thanh Lam
Trang 10
tướng sỹ của Trần Quốc Tuấn, các áng văn thơ của Trần Nhân Tông, Trần
Quang Khải, Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu.v.v… thể hiện sinh động
chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng và niềm kiêu hãnh với sự nghiệp
dựng nước và giữ nước oai hùng của dân tộc.
Nhà Trần còn nêu lên các quan điểm về đại đoàn kết và xem đó như là
chính sách giữ nước, Trần Hưng Đạo nói rõ trong di chúc năm Canh tý
(1300) “Khoan thư sức dân, làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách để giữ
nước”.
Phương lược đó đã đáp ứng tốt mục tiêu của các triều đại Lý, Trần là
xây dựng chính quyền quân chủ tập trung vững mạnh làm cho quốc gia
thịnh vượng, “quốc phú binh cường”.
Đến đời Hậu Lê, để tăng cường lực lượng quân sự và củng cố QP, nhà
nước nắm độc quyền xây dựng LLVT cũng như sản xuất và sử dụng vũ khí.
Quyền xây dựng LLVT, quân lính được chia ruộng đất công của làng xã và
luân phiên về tham gia sản xuất. Chính sách “Ngụ binh ư nông” được tiếp
tục thực hiện nhằm đảm bảo lực lượng cho nông nghiệp, giảm bớt số người
thoát ly sản xuất và chi phí của nhà nước. Người lính phải vừa làm nghĩa vụ
quân sự, vừa sản xuất để tự túc.
Chế độ tuyển lính cũng xây dựng thành quy chế chặt chẽ. Cứ ba năm
một lần, chính quyền kiểm kê dân số, lập sổ hộ tịch. Hạn tráng gồm những
thanh niên mạnh mẽ phải nhập ngũ, bổ sung vào quân thường trực, hạn
quân là lực lượng dự bị chỉ đăng ký tên vào sổ để sẵn sàng chịu sự điều
động của nhà nước. Quân đội đời Lê là một quân đội mạnh, có tổ chức chặt
chẽ và kỹ thuật chiến đấu cao. Hàng năm, vào mùa xuân quân đội thường
trực phải tập trung ở địa phương hoặc về kinh thành để tham dự các kỳ
huấn luyện hoặc diễn tập. Các điều lệnh của từng binh chủng được ban
hành. Trang bị quân đội có thêm những vũ khí mới như: các loại hỏa pháo
và hỏa động. Quân đội hùng hậu của nhà Lê là một công cụ trọng yếu bảo
vệ nền chính trị của giai cấp phong kiến, đồng thời quân đội đó cũng giữ
vai trò tích cực trong việc củng cố QP, giữ gìn lãnh thổ và chủ quyền quốc
gia. [28, tr.272]
Với lòng tự hào dân tộc, thời Hậu Lê đã không ngừng củng cố, phát
triển quốc gia dân tộc thống nhất. Lê Thánh Tông nói: “Quyết không để
một tấc đất, một thước sông của Thái tổ lọt vào tay kẻ khác”. Các vua Lê đã
thi hành chính sách hòa hoãn nhưng kiên quyết với nhà Minh trong vấn đề
biên giới, phát triển lãnh thổ về phía Tây và phía Nam.
GVHD: Bùi Thu Hằng SVTH: Nguyễn Thanh Lam
Trang 11
Tóm lại, những tư tưởng về xây dựng nền QPTD của dân tộc ta được
hình thành từ rất sớm và được kế thừa, phát triển làm phong phú thêm qua
từng thời kỳ, trong đó đặc sắc nhất là chính sách “Ngụ binh ư nông” và
“Khoan thư sức dân”, toàn dân là lính, nhiệm vụ bảo vệ đất nước là của
toàn dân. Trong thực tiễn xây dựng nền QPTD để bảo vệ thành quả cách
mạng, bảo vệ nhân dân, bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, chủ tịch Hồ Chí
Minh đã tổng kết lịch sử dân tộc, qua đó Người đã kế thừa những truyền
thống của dân tộc về xây dựng lực lượng QP và tiếp thu quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin để nâng lên thành tư tưởng về QPTD của mình trong
thời đại mới, thời đại quá độ lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới.
1.2.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quốc phòng
toàn dân
Sau nhiều năm bôn ba ở nước ngoài để tìm đường cứu nước giúp dân
tộc thoát khỏi kiếp nô lệ, cơ duyên đã đến với Hồ Chí Minh, khi biết đến
Cách mạng tháng Mười Nga cùng với V.I.Lênin - người lãnh đạo thắng lợi
cuộc cách mạng đó. Mặt khác, vào tháng 7 năm 1920 khi Người đọc được
bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc
địa” của V.I.Lênin đã đưa Người đến bước ngoặc quyết định trong việc tìm
đường cứu nước. Từ chỗ chỉ biết đến Cách mạng tháng Mười Nga một cách
cảm tính, Người đã nghiên cứu hiểu một cách thấu đáo con đường Cách
mạng tháng Mười và những bài học kinh nghiệm quý báu mà cuộc cách
mạng này đem lại cho phong trào cách mạng thế giới, đặc biệt là bài học về
huy động và tập hợp quần chúng công - nông đông đảo để giành và giữ
chính quyền cách mạng mà trong đó sâu sắc nhất là những quan điểm về
QPTD, những kinh nghiệm đó được ghi trong các tác phẩm như: Bàn về
chiến tranh, quân đội, khoa học quân sự và nghệ thuật quân sự; Cương lĩnh
quân sự của cách mạng vô sản; Chiến lược, chiến thuật quân sự trong thời
kỳ Cách mạng tháng Mười; Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô
Viết; Về vai trò của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng trong hệ
thống chuyên chính vô sản; Bàn về chiến tranh nhân dân.v.v…. Chủ nghĩa
Mác - Lênin đã trở thành cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư
tưởng Hồ Chí Minh về QPTD.
C.Mác, Ph.Ăngghen từng nhận định rằng: “Cách mạng vô sản sẽ là một
quá trình đấu tranh khóc liệt lâu dài; không những sẽ có tính chất dân tộc
mà sẽ đồng thời xảy ra ở trong tất cả các nước văn minh, tức là ít nhất ở
Anh, Mỹ, Pháp, Đức…” [6, tr.458], do đó, C.Mác, Ph.Ăngghen không đề
cập đến vấn đề bảo vệ một, hay một số nước XHCN tồn tại bên cạnh những
GVHD: Bùi Thu Hằng SVTH: Nguyễn Thanh Lam
Trang 12
nước tư bản. Mặt khác, ở thời kỳ của C.Mác và Ph.Ăngghen, giai cấp vô
sản chưa giành được Tổ quốc nên nhiệm vụ QP chưa đặt ra một cách trực
tiếp.
Thời đại V.I.Lênin, chủ nghĩa tư bản đã phát triển đến giai đoạn tột
cùng, là chủ nghĩa đế quốc. Cuộc Cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi,
nhà nước XHCN đầu tiên ra đời đã mở ra kỷ nguyên mới - kỷ nguyên quá
độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH trên phạm vi thế giới. Trong điều kiện
lịch sử mới, V.I.Lênin đã kế thừa, bảo vệ, bổ sung và phát triển nhiều luận
điểm mới, hoàn chỉnh học thuyết Mác - Lênin về nhiệm vụ QP trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Từ quan điểm “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, trong khi
nghiên cứu và phát triển lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã
đồng thời xây dựng học thuyết “Bảo vệ Tổ quốc XHCN” trong điều kiện
lịch sử mới đã nhận định: “chủ nghĩa tư bản phát triển cực kỳ không đều
nhau trong các nước. Dưới chế độ sản xuất hàng hóa thì không thể nào khác
thế được. Do đó phải đi đến kết luận tất yếu này: CNXH không thể đồng
thời thắng lợi trong tất cả các nước, hoặc một số nước…”[32, tr.173]. Do
đó cách mạng dành thắng lợi và đi đến bảo vệ Tổ quốc XHCN được đặt ra
một cách trực tiếp, tất yếu, khách quan. V.I.Lênin đã luận chứng khoa học
về sự cần thiết phải vũ trang bảo vệ nhà nước chuyên chính vô sản, chống
lại sự tấn công vũ trang của các nhà nước tư bản chủ nghĩa.
Sau Cách mạng XHCN tháng Mười Nga thắng lợi, nhiệm vụ QP để bảo
vệ Tổ quốc XHCN đã trở thành nhiệm vụ thực tiễn, trực tiếp. V.I.Lênin đã
viết: “Kể từ ngày 25 tháng Mười 1917, chúng ta là những người chủ trương
bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta tán thành “bảo vệ Tổ quốc”, nhưng cuộc chiến
tranh giữ nước mà chúng ta đang đi tới là một cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ
quốc XHCN, bảo vệ CNXH với tính cách là Tổ quốc, bảo vệ nước cộng hòa
Xô - viết, với tính cách là một đơn vị trong đạo quân thế giới của
CNXH”[33, tr.102]. Sự nghiệp xây dựng đất nước, tăng cường khả năng QP
và bảo vệ Tổ quốc XHCN phải được kết hợp chặt chẽ với nhau, và là yêu
cầu tất yếu V.I.Lênin nhấn mạnh rằng: “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị
khi nó biết tự vệ”[34, tr.29]. Ông còn đề ra lý luận và trực tiếp lãnh đạo
công cuộc phòng thủ đất nước, chống bọn can thiệp nước ngoài và nội
chiến trong những năm đầu của chính quyền Xô - viết còn non trẻ.
V.I.Lênin chỉ ra rằng sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc XHCN là của toàn dân
tộc, một dân tộc đã dành được Tổ quốc chân chính, tiến hành cuộc chiến
tranh chống bọn bóc lột, dân tộc đó là vô địch. Người dạy: “Không bao giờ
GVHD: Bùi Thu Hằng SVTH: Nguyễn Thanh Lam
Trang 13
người ta có thể chiến thắng một dân tộc mà đa số công nhân và nông dân đã
biết, đã cảm và trông thấy rằng họ bảo vệ chính quyền của mình, chính
quyền Xô - viết, chính quyền của những người lao động, rằng họ bảo vệ sự
nghiệp mà một khi thắng lợi sẽ đảm bảo cho họ, cũng như cho con cái họ,
có khả năng hưởng thụ mọi thành quả văn hóa, thành quả lao động của con
người”[35, tr.378].
Người nhắc nhở “phải có thái độ nghiêm túc đối với QP”[34, tr.480],
tuyệt đối không có thái độ khinh suất. Người còn căn dặn phải cảnh giác,
đánh giá đúng lực lượng của địch ta, không được chủ quan đánh giá thấp kẻ
thù. Người viết: “Điều nguy hiểm nhất là đánh giá thấp kẻ thù và tự ru ngủ
với tư tưởng cho rằng chúng ta là những kẻ mạnh hơn. Đó là điều nguy
hiểm nhất, đó là điều có thể dẫn tới thất bại”[37, tr.174].
Việc tăng cường QP thường gắn liền với phát triển kinh tế, chính trị - xã
hội và tinh thần của xã hội. Vì vậy, V.I.Lênin cho rằng việc nắm vững và
vận dụng các quy luật khách quan tác động trong những lĩnh vực đó của đời
sống xã hội, có ý nghĩa hết sức quan trọng để tăng cường sức mạnh QP.
Người viết: “Mối liên hệ giữa tổ chức quân sự của một nước với toàn bộ
chế kinh tế và văn hóa của nước ấy chưa bao giờ lại hết sức chặt chẽ như
ngày nay”[31, tr.192]
Luận chứng của Lênin về nhiệm vụ QP vào công cuộc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc XHCN là đóng góp vô cùng quý giá vào kho tàng lý luận của
chủ nghĩa Mác, thực tiễn cách mạng ở Nga và thế giới. Cùng với những lý
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và truyền thống dân tộc cũng như những tư
tưởng Đông Tây kim cổ về sự cần thiết xây dựng nền QP, Hồ Chí Minh đã
vận dụng những tư tưởng đó xây dựng nền QP ở nước Việt Nam, đó là nền
QP mang tính chất toàn dân, toàn diện, độc lập, tự lực, tự hào bảo vệ Tổ
quốc.
1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc phòng toàn dân
1.3.1. Phạm trù “dân” trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển
chủ nghĩa Mác - Lênin, giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh
hoa văn hóa của nhân loại, trong đó đặc biệt là giá trị văn hóa của dân tộc
với những quan niệm về “dân”, xem dân là gốc, dân là đối tượng phục vụ vì
“chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”. “Dân” là một phạm trù cơ bản
trong tư tưởng Hồ Chí Minh, liên quan chặt chẽ với nhiều phạm trù khác
thuộc lĩnh vực chính trị - xã hội, được hình thành và phát triển trong quá
trình hoạt động thực tiễn phong phú và sáng tạo của Người.
GVHD: Bùi Thu Hằng SVTH: Nguyễn Thanh Lam
Trang 14
Hồ Chí Minh có khi diễn đạt phạm trù “dân” bằng các danh từ khác như
“đồng bào”, “quốc dân”, “nhân dân”.v.v… tùy theo bối cảnh sử dụng ngôn
từ, song tựu trung đều chỉ toàn bộ các giai cấp, tầng lớp trong xã hội có
đóng góp vì sự tiến bộ trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, dân
chủ và hạnh phúc cho nhân dân, động lực cơ bản của cuộc cách mạng do
Đảng lãnh đạo, không phân biệt “già, trẻ, gái, trai, giàu, nghèo, quý tiện”.
Có thể tiếp cận phạm trù “dân” trong tư tưởng Hồ Chí Minh ở những khía
cạnh sau:
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quan niệm về vai trò và vị trí của quần
chúng nhân dân trong lịch sử hoàn toàn thống nhất với chủ nghĩa Mác -
Lênin, đối lập với những cách nhìn phiến diện, siêu hình, phản động của
giai cấp bóc lột. Đó là một cách nhìn mang tính khoa học và cách mạng về
nhân dân, động lực của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng
XHCN. Trong chế độ chiếm hữu nô lệ, giai cấp chủ nô phân chia xã hội
thành ba hạng người: giới quý tộc cai trị đất nước và những người có học
vấn; những vệ binh bảo vệ giai cấp thống trị; những công dân tự do gồm
nông dân và thợ thủ công. Còn giai cấp nô lệ chiếm số đông trong xã hội,
những người sản xuất ra của cải vật chất nuôi sống xã hội, không được coi
là “dân”, mà chỉ là “công cụ biết nói”. Dưới chế độ phong kiến, ở phương
Đông, điển hình là tư tưởng Nho giáo, quần chúng chỉ được coi là đám tiểu
nhân hèn kém, thiếu “đức nhân”, chỉ là hạng ngu dốt để những người quân
tử sai khiến. Các lý luận gia của giai cấp tư sản thời cận đại coi “dân” chỉ là
phương tiện, đối tượng phục vụ cho các mục đích của giai cấp thống trị.
Trong tác phẩm “Gia đình thần thánh”, C.Mác, Ph.Ăngghen phê phán gay
gắt các quan điểm phản động đó.
Chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin mới có quan niệm khoa học và cách mạng
khi xem quần chúng là động lực của các cuộc cách mạng trong xã hội, là
những người sáng tạo nên lịch sử. Vì vậy, trong cuộc đấu tranh cải biến xã
hội cũ, xây dựng chế độ mới, V.I.Lênin cho rằng nếu “Không có sự đồng
tình và ủng hộ của đại đa số nhân dân lao động đối với đội tiên phong của
mình, tức là đối với giai cấp vô sản thì không thể thực hiện được. Nhưng sự
đồng tình và ủng hộ đó không thể có ngay được và không phải do những
cuộc bỏ phiếu quyết định, mà phải trải qua cuộc đấu tranh giai cấp lâu dài,
khó khăn, gian khổ mới giành được”[36, tr.251]. Người cũng lưu ý, giai cấp
vô sản phải giành được sự đồng tình, ủng hộ của đa số nhân dân lao động,
điều đó không phải kết thúc ngay khi đã giành được chính quyền, mà còn
tiếp diễn dưới các hình thức khác khi đã trở thành giai cấp cầm quyền. Trên
GVHD: Bùi Thu Hằng SVTH: Nguyễn Thanh Lam
Trang 15
cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh khẳng định cách mạng
là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, do quần chúng; Đảng cách mạng chỉ
làm công việc giáo dục, tổ chức, tập hợp quần chúng thực hiện những công
việc vì bản thân quần chúng. Do đó, đối với Đảng cộng sản, việc đoàn kết,
tập hợp rộng rãi quần chúng nhân dân là vấn đề có ý nghĩa chiến lược của
mọi thời kỳ cách mạng. Nó khác xa hoàn toàn với việc lôi kéo, tranh thủ
quần chúng mang tính thủ đoạn chính trị nhất thời của giai cấp bóc lột trong
các xã hội trước đây.
Khi Đảng cách mạng thành công và lập ra nhà nước do quần chúng dân
nhân làm chủ, cùng với đó quần chúng nhân dân phải đóng vai trò giám sát
mọi hoạt động nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng cho mình và cùng với Đảng
và Nhà nước xây dựng và bảo vệ thành quả đó trong xây dựng kinh tế, văn
hóa - xã hội, QP - an ninh… Vì vậy, Đảng và Nhà nước phải biết dựa vào
dân “Nhân dân ta có hàng chục triệu người, có hàng mấy chục triệu tai, mắt,
tay, chân. Nếu biết dựa vào dân thì việc gì cũng xong”[16, tr.75] hay “Gốc
có vững thì cây mới bền; xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”[16, tr.79].
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, gắn với điều kiện lịch sử cụ thể của dân
tộc Việt Nam và mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng của Đảng trong từng giai
đoạn, dân được xác định có phạm vi rộng, không chỉ có công nhân, nông
dân, trí thức, mà gồm tất cả các giai cấp, tầng lớp có đóng góp thúc đẩy cho
tiến bộ của lịch sử dân tộc vì sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chế
độ mới. Tất nhiên, phạm trù “dân” không phải bất biến mà có tính lịch sử.
Người viết: “Theo tính chất cách mạng của mỗi nước mà quyết định động
lực cách mạng bao gồm những giai cấp nào” [18, tr.211]. Một giai cấp, tầng
lớp ở giai đoạn này là tiến bộ nhưng sang giai đoạn khác có khi trở thành
lực cản đối với sự phát triển của lịch sử dân tộc. Khi đó, họ chẳng những
không được gọi là “dân” mà còn là đối tượng cách mạng của dân. Một giai
cấp, trong cùng một thời điểm lịch sử, ở một dân tộc này được xem là “dân”
nếu nó còn đóng góp cho sự tiến bộ của lịch sử dân tộc, nhưng ở quốc gia
khác chưa hẳn được xem là “dân” nếu nó không còn vai trò tích cực, thậm
chí trở nên phản động. Chính vì vậy, ngay sau khi chính quyền cách mạng
thiết lập, Hồ Chí Minh chủ trương tập hợp, đoàn kết rộng rãi nhân dân, mời
cả những nhân sĩ, địa chủ tiến bộ tham gia bộ máy chính quyền. Xét về bản
chất, địa chủ là giai cấp bóc lột, phải đánh đổ trong tiến trình thực hiện hai
nhiệm vụ cơ bản của cách mạng dân tộc dân chủ. Xét trong điều kiện cụ thể
của giai đoạn cách mạng cần tập trung cho nhiệm vụ “dân tộc trên hết, Tổ
quốc trên hết” thì địa chủ yêu nước vẫn có đóng góp cho tiến bộ khi họ
GVHD: Bùi Thu Hằng SVTH: Nguyễn Thanh Lam
Trang 16
tham gia đánh đổ chủ nghĩa đế quốc - kẻ đang kìm hãm sự phát triển của
lịch sử dân tộc, đem lại độc lập, thống nhất cho Tổ quốc. Sau này trong tác
phẩm “Nhà nước dân chủ nhân dân Việt Nam”, đồng chí Phạm Văn Đồng
có viết: “Ở Việt Nam lúc này, nhân dân là các giai cấp công nhân, nông
dân, tiểu tư sản thành thị, tư sản ái quốc và những người địa chủ yêu nước
và tiến bộ”. Nhưng phải đảm bảo mục tiêu cách mạng, khi kết thúc cách
mạng giải phóng dân tộc, cùng với thủ tiêu phương thức sản xuất phong
kiến lạc hậu thì giai cấp địa chủ cũng phải xóa bỏ. Đối với tư sản dân tộc,
Hồ Chí Minh nhận xét: “Trong một thời kỳ và một trình độ nhất định, giai
cấp tư sản dân tộc cũng là động lực cách mạng”.
Thừa nhận phạm vi rộng lớn của phạm trù “dân”, Hồ Chí Minh luôn chú
ý một mặt, đảm bảo sự bình đẳng của các giai cấp, tầng lớp, tránh rơi vào
chủ nghĩa biệt phái; mặt khác, không xóa nhòa ranh giới giữa các giai cấp,
tầng lớp, mà vẫn hết sức nhấn mạnh “cái lõi” của nhân dân là công nhân,
nông dân và lao động trí óc, do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
Thừa nhận phạm vi rộng lớn của phạm trù “dân”, khẳng định nhân dân là
động lực của cách mạng, đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải đảm bảo quyền
bình đẳng để lôi kéo, thu hút được sức mạnh toàn dân đóng góp vào các
mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng. Vì vậy, từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã chú ý
thể chế hóa quyền lực bình đẳng của công dân ngay trong Hiến pháp đầu
tiên của nước ta: “Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi
phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa”, “Tất cả công dân Việt Nam đều
bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc
kiến quốc tùy theo tài năng và đức hạnh của mình”. Đây là một quan niệm
rất dân chủ thực hiện sự bình đẳng ấy thể hiện Hồ Chí Minh nhận thức rõ
Nhà nước không chỉ là công cụ thống trị của giai cấp, mà còn là tổ chức
thực thi chức năng công quyền, mang tính nhân dân sâu sắc.
Tính biện chứng trong tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện ở chỗ, trong khi
thừa nhận tính nhân dân rộng rãi thì vẫn nhấn mạnh “… trong công việc sản
xuất, địa vị mỗi giai cấp khác nhau, cho nên đặc tính của mỗi giai cấp cũng
khác nhau. Đặc tính khác nhau nên vai trò cách mạng cũng khác nhau”. Vì
vậy, Người luôn luôn nhắc nhở Đảng và Nhà nước phải hết sức chăm lo các
giai cấp, tầng lớp quần chúng cơ bản là công nhân, nông dân và lao động trí
óc. Liên minh công - nông - trí được củng cố càng có điều kiện để mở rộng
Mặt trận dân tộc thống nhất, phát huy quyền dân chủ của quảng đại quần
chúng trong xây dựng và bảo vệ đất nước. Khối đại đoàn kết toàn dân, nòng
cốt là liên minh công - nông - trí, phải đặt dưới sự lãnh đạo của giai cấp
GVHD: Bùi Thu Hằng SVTH: Nguyễn Thanh Lam
Trang 17
công nhân thông qua đội tiên phong của nó là Đảng cộng sản. Nhà nước
cách mạng có nhiệm vụ là thực hành dân chủ với nhân dân và chuyên chính
với bọn đế quốc, phong kiến cũng như mọi hành vi xâm phạm lợi ích của
Tổ quốc và nhân dân. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, giữ vững bản
chất giai cấp công nhân của Đảng, là điều kiện tiên quyết để huy động sức
mạnh toàn dân tham gia các nhiệm vụ cách mạng.
Từ việc nhận thức đầy đủ phạm trù “dân”, Hồ Chí Minh đã nêu lên
những quan điểm lấy dân làm gốc, là đối tượng để phục vụ, từ đó đã tạo
được niềm tin ở nơi dân, tạo nên sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, và nó đã trở thành phương hướng cơ bản chỉ đạo công cuộc xây dựng
nền QPTD vững mạnh để giữ vững đất nước của dân, do dân và vì dân.
Điều quan trọng hơn hết trong quá trình vận động tập hợp quần chúng vào
một khối thống nhất để bảo vệ đất nước, bảo vệ thành quả cách mạng của
nhân dân là làm cho nhân dân thấy được sự cần thiết xây dựng nền QPTD.
1.3.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc phòng toàn dân qua các
thời kỳ
Sự hình thành và đi đến hoàn thiện tư tưởng về QPTD của Hồ Chí
Minh, đó là những bước phát triển cùng với những thăng trầm của lịch sử
cách mạng Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám đến khi kết thúc cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước. Vì thế, có thể chia tư tưởng Hồ Chí Minh về
QPTD qua các thời kỳ 1945 - 1946, thời kỳ 1946 - 1954 và 1954 - 1975
(trong đó, tư tưởng về QPTD được tập hợp từ các bài nói, bài viết của
Người trong những năm 1954 đến 1969, từ năm 1969 - 1975 là khoảng thời
gian cách mạng Việt Nam vận dụng và phát triển tư tưởng của Người).
1.3.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc phòng toàn dân thời
kỳ 1945 - 1946
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đã mở ra một trang sử
mới cho nền độc lập của nước nhà, thế nhưng ngay từ lúc này chính quyền
cách mạng còn non trẻ phải đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Vì
vậy, yêu cầu đặt ra là phải nêu cao cảnh giác, xây dựng, củng cố QP để bảo
vệ chính quyền cách mạng của nhân dân; bảo vệ nền độc lập thống nhất của
Tổ quốc, chuẩn bị tiềm lực mọi mặt của đất nước cho cuộc kháng chiến
trường kỳ mà theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là không thể tránh khỏi.
Nhiệm vụ xây dựng QP ở nước ta là nhiệm vụ hết sức mới mẻ và đầy
thử thách đối với chính quyền cách mạng còn non trẻ, chúng ta chưa có
nhiều kinh nghiệm về QP và nước ta trước Cách mạng Tháng Tám là là một
nước phong kiến nửa thuộc địa, với nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu; sau
GVHD: Bùi Thu Hằng SVTH: Nguyễn Thanh Lam
Trang 18
cách mạng tiềm lực kinh tế, quân sự có thể huy động được cho sự nghiệp
QP còn rất hạn chế. Mặc dù vậy, những định hướng cơ bản về xây dựng nền
QP ở nước ta đã được thể hiện tương đối rõ trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
trước hết là về mục đích, tính chất của nền QP.
1.3.2.1.1. Mục đích, tính chất của nền quốc phòng toàn dân
Mục đích
Theo Hồ Chí Minh, xây dựng nền QP ở nước ta là để bảo vệ độc lập,
thống nhất của Tố quốc và tự do, hạnh phúc của nhân dân. Điều đó thể hiện
sâu sắc khi “ham muốn tột bậc” của Người là làm sao cho nước ta được
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm
ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Độc lập dân tộc và thống nhất đất nước
không thể tách rời, vì thế nhiệm vụ QP là phải bảo vệ nền độc lập dân tộc
mới giành được và thống nhất đất nước.
Khi thực dân Pháp đánh chiếm Nam bộ, âm mưu tách Nam bộ khỏi Việt
Nam, thành lập chính phủ bù nhìn ở Nam bộ thuộc Liên hiệp Pháp, Người
đã khẳng định: “Đồng bào Nam bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn,
núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi!”[15, tr.246].
Người còn thể hiện tình cảm của mình, một ngày mà Tổ quốc chưa thống
nhất, đồng bào còn chịu khổ là một ngày Người “ăn không ngon, ngủ không
yên”. Bảo vệ cho nền độc lập dân tộc và đấu tranh cho sự thống nhất toàn
vẹn lãnh thổ Tổ quốc Việt nam trong tư tưởng Hồ Chí Minh, không chỉ là
mục đích xây dựng nền QP ở nước ta những năm 1945 - 1946, mà còn là
mục đích xuyên suốt trong xây dựng nền QP của mọi thời kỳ cách mạng
sau này.
Hồ Chí Minh chỉ rõ mục đích xây dựng nền QP ở nước ta là để tự vệ,
chúng ta không xâm hại lợi ích của nước nào. Trước nguy cơ Pháp phát
động chiến tranh ra toàn miền Nam, trong “Lời kêu gọi Liên Hiệp quốc” Hồ
Chí Minh khẳng định: “Là nạn nhân của một cuộc xâm lược có chủ định từ
trước, chúng tôi buộc phải tự vệ chống lại một đối phương đang thực hiện
phương pháp của một cuộc chiến tranh tổng lực như những cuộc bắn phá dã
man làng mạc và dân thường” và “chúng tôi trịnh trọng tuyên bố rằng nhân
dân chúng tôi thật sự mong muốn hòa bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng
kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn
lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”[15, tr.469]. Trong Lời tuyên
bố với phóng viên báo Pari - Sài Gòn Người nhấn mạnh: “Đồng bào tôi và
tôi thực sự muốn hòa bình. Chúng tôi không muốn chiến tranh…”; “Nước
Việt Nam cần kiến thiết, nước Việt Nam không muốn là nơi chôn vùi hàng
GVHD: Bùi Thu Hằng SVTH: Nguyễn Thanh Lam
Trang 19
bao nhiêu sinh mạng. Nhưng cuộc chiến tranh ấy nếu người ta buộc chúng
tôi phải làm thì chúng tôi sẽ làm”[15, tr.473], sau đó cả nước tổ chức “Ngày
toàn quốc kháng chiến” để biểu thị sự ủng hộ của cả dân tộc với đồng bào
Nam bộ.
Tại cuộc mít tinh ngày 5 tháng 11 năm 1945, chủ tịch Hồ Chí Minh đã
giải thích rõ: “Chúng ta không đi cướp nước ai. Chúng ta chỉ giữ gìn nước
ta và chống lại bọn Pháp đi cướp nước…”, bọn thực dân Pháp phải biết
rằng, dân Việt Nam không muốn đổ máu, dân Việt Nam yêu chuộng hòa
bình, nhưng nếu cần phải hi sinh mấy triệu chiến sĩ, nếu cần phải kháng
chiến bao nhiêu năm để giữ gìn quyền độc lập của Việt Nam, để cho con
cháu Việt Nam khỏi kiếp nô lệ, thì chúng ta vẫn “kiên quyết hi sinh và
kháng chiến”.
Năm 1945 - 1946 sau Cách mạng Tháng Tám là một thời gian lịch sử
ngắn nhưng đầy khó khăn và phức tạp và biến động mau lẹ. Chúng ta vừa
lo củng cố chính quyền, khôi phục sản xuất, tổ chức cai quản xây dựng chế
độ mới; vừa phải lo đối phó với thù trong, giặc ngoài và chuẩn bị mọi mặt
cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã đến gần. Lúc này, Chủ tịch
Hồ Chí Minh - người đứng đầu Đảng, Nhà nước ta, chèo lái con thuyền
cách mạng Việt Nam với bồn bề công việc cấp bách. Đặc biệt Người rất nỗ
lực trong hoạt động ngoại giao, tìm kiếm các giải pháp chính trị, tận dụng
triệt để mọi cơ hội để cứu vãn hòa bình cho đất nước. Đồng thời với quá
trình tìm giải pháp chính trị và nhất là khi mọi nỗ lực giữ gìn hòa bình,
thống nhất bằng con đường ngoại giao chính trị đã trở nên vô vọng, Chủ
tịch Hồ Chí Minh tập trung tâm trí chỉ đạo chuẩn bị cho đất nước bước vào
kháng chiến chống Pháp. Ngoài mục đích xây dựng nền QP thì tính chất
toàn dân, toàn diện của nền QP được thể hiện rất rõ trong tư tưởng của
Người.
Tính chất.
Tìm hiểu tính chất của nền QP trong tư tưởng QP của Hồ Chí Minh, ở
thời điểm lịch sử này phải nghiên cứu tư tưởng của Người về chiến tranh
nhân dân và chuẩn bị cho cuộc kháng chiến toàn diện chống thực dân Pháp
xâm lược. Tính chất của nền QP theo tư tưởng Hồ Chí Minh thì mang tính
toàn dân, toàn diện sâu sắc “Vì cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến
của toàn dân cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân…”[14, tr.507].
Người giải thích toàn dân kháng chiến nghĩa là toàn thể nhân dân, ai cũng
đánh giặc, “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, người già, con trẻ ai cũng tham gia
kháng chiến”.
GVHD: Bùi Thu Hằng SVTH: Nguyễn Thanh Lam