Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO sự LÃNH đạo của ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM đối với sự NGHIỆP QUỐC PHÒNG AN NINH và xây DỰNG nền QUỐC PHÒNG TOÀN dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.03 KB, 44 trang )

SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐỐI VỚI SỰ
NGHIỆP QUỐC PHÒNG AN NINH VÀ XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG
TOÀN DÂN.
I. Vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời,
lãnh đạo cách mạng thành công
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã nhiều lần đứng lên
chiến đấu chống giặc ngoại xâm và đã viết nên những trang sử vẻ vang, oanh liệt với
những Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa... Trước các thế lực xâm lược lớn mạnh hơn
gấp nhiều lần, dân tộc ta đã biết “lấy đại nghĩa để thắng hung tàn”, “đem chí nhân để
thay cường bạo”; biết “lấy ít địch nhiều”, “lấy nhỏ thắng lớn”, xây dựng nên truyền
thống chống ngoại xâm kiên cường, bất khuất. Tổng kết truyền thống quý báu ấy, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Dân tộc ta có lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một
truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh
thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua
mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”1.
Từ giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược và thống trị nước ta, làm cho
tính chất xã hội Việt Nam biến đổi sâu sắc, từ xã hội phong kiến trở thành xã hội thuộc
địa nửa phong kiến. Tính chất xã hội Việt Nam biến đổi phức tạp với đặc trưng cơ bản
là sự cấu kết chặt chẽ giữa đế quốc và phong kiến để thống trị, bóc lột nhân dân Việt
Nam.
Đứng trước yêu cầu khách quan của lịch sử, trên con đường phát triển của
cách mạng Việt Nam đã xuất hiện nhiều trào lưu cứu nước mang quan điểm ý thức hệ
giai cấp khác nhau. Một bộ phận quan lại và trí thức phong kiến có tinh thần yêu nước,
với tư tưởng “Trung quân ái quốc" vẫn tiếp tục duy trì đấu tranh vũ trang nhằm giải
phóng dân tộc, nổi bật là phong trào “Cần vương” (1883-1896). Đồng thời cũng có
nhiều cuộc nổi dậy của nông dân yêu nước, tiêu biểu là phong trào khởi nghĩa nông
dân chống Pháp ở Yên Thế (1887-1913). Tuy nhiên sự thất bại của các phong trào đó
vừa chứng tỏ sự hạn chế về lập trường giai cấp, vừa phản ánh sự bế tắc, sự cáo chung


của một đường lối cứu nước lỗi thời không còn phù hợp với yêu cầu phát triển khách


quan của dân tộc và xu thế thời đại.
Sự bế tắc của trào lưu cứu nước theo ý thức hệ phong kiến, về mặt khách quan
lại là tiền đề cho việc tìm tòi một xu hướng mới trong hàng ngũ những người yêu nước
Việt Nam vào đầu thế kỷ XX. Đó là xu hướng cứu nước theo khuynh hướng dân chủ tư
sản của tầng lớp thân sĩ, tiêu biểu là các nhà yêu nước Phan Bội Châu, Phan Chu
Trinh. Họ bắt đầu hướng ra nước ngoài mong tìm con đường cứu nước mới. Tuy nhiên
đó là nét mới trong nhận thức tư tưởng chính trị ở Việt Nam, nhưng lại là nhận thức tư
tưởng lỗi thời và lạc hậu đối với xu thế phát triển tất yếu của lịch sử, của cách mạng
Việt Nam. Vì vậy, đường lối cứu nước đó tuy có khơi dậy được phong trào yêu nước
và mặc dù những người lãnh đạo rất tâm huyết, năng động, nhưng kết cục vẫn là:
“Trăm thất bại mà không một thành công”.
Đầu thế kỷ XX, sản phẩm của nền công nghiệp tư bản chủ nghĩa do quá trình
khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã tạo nên một lực lượng xã hội mới – giai cấp
công nhân Việt Nam. Đại diện cho phương thức sản xuất mới, giai cấp công nhân Việt
Nam tuy số lượng còn nhỏ bé (khoảng 22 vạn người), chiếm tỷ lệ thấp trong dân cư,
nhưng đã sớm có những đặc điểm chung của giai cấp công nhân quốc tế. Đồng thời
giai cấp công nhân Việt Nam còn có những đặc điểm riêng hết sức thuận lợi là: ra đời
phần lớn xuất thân từ nông dân nên giữ được mối quan hệ khăng khít mật thiết với
nông dân trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc; giai cấp công nhân Việt Nam
ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc và chưa hề đi theo, chịu ảnh hưởng tư tưởng cải
lương của tư sản dân tộc; giai cấp công nhân Việt Nam trong xã hội thuộc địa nửa
phong kiến, bị đè nặng bởi ách áp bức dân tộc và áp bức giai cấp (kẻ thù dân tộc cũng
là kẻ thù giai cấp). Bởi vậy giai cấp công nhân Việt Nam đại diện cho lợi ích chung
của dân tộc; vừa có nguyện vọng giải phóng dân tộc, vừa có nguyện vọng dân chủ và
nguyện vọng giải phóng giai cấp.
Có thể nói, giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp duy nhất có sứ mệnh lịch
sử và có khả năng đề ra đường lối cứu nước đúng đắn, thực hiện triệt để yêu cầu giải


phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Tuy vậy, giai cấp công nhân Việt Nam vẫn chưa

thể đảm đương sứ mệnh lịch sử bởi lẽ nó chưa được trang bị lý luận cách mạng tiên
phong, chưa tổ chức được chính đảng của mình. Phong trào đấu tranh của giai cấp
công nhân Việt Nam phát triển sôi nổi mạnh mẽ, nhưng vẫn còn ở giai đoạn tự phát.
Những năm đầu thế kỷ XX, cách mạng Việt Nam vẫn trong tình trạng khủng hoảng sâu
sắc về đường lối, thực chất là khủng hoảng về giai cấp lãnh đạo cách mạng.
Vào thời điểm lịch sử đó, đồng chí Nguyễn Ái Quốc, người Việt Nam giàu
lòng yêu nước, tuy rất khâm phục tinh thần yêu nước của những người lãnh đạo phong
trào “Cần Vương”, tinh thần dân tộc của các sĩ phu yêu nước như Phan Bội Châu và
Phan Chu Trinh, nhưng không đi theo con đường mà các nhà yêu nước đó đã đi. Người
quyết tâm đi tìm con đường cứu nước mới.
Sau gần 20 năm (1911-1930) hoạt động, tìm tòi, nghiên cứu, khảo nghiệm,
tổng kết, nâng cao nhận thức lý luận, đồng chí Nguyễn Ái Quốc với trách nhiệm thay
mặt Quốc tế cộng sản đã tích cực chuẩn bị kế hoạch và tổ chức Hội nghị hợp nhất các
tổ chức cộng sản Việt Nam. Từ ngày 3 đến ngày 7-2-1930, Hội nghị hợp nhất đã được
tiến hành ở Cửu Long, Hương Cảng, Trung Quốc, do đồng chí Nguyễn Ái Quốc chủ
trì. Hội nghị này chính là Hội nghị thành lập Đảng, có ý nghĩa như một Đại hội của
Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng
nước ta, chấm dứt thời kỳ bế tắc, khủng hoảng về đường lối kể từ khi đế quốc Pháp
xâm lược nước ta.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự xác lập vai trò lãnh đạo của giai cấp
công nhân Việt Nam đối với cách mạng nước ta, quy tụ toàn bộ phong trào công nhân
và phong trào yêu nước dưới sự lãnh đạo của đội tiền phong duy nhất. Từ đây, lịch sử
dân tộc Việt Nam bước sang một giai đoạn mới, giai đoạn cách mạng Việt Nam do
giai cấp công nhân Việt Nam lãnh đạo.
Với đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, với tinh thần cách mạng
triệt để của giai cấp công nhân, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đã


đưa nhân dân ta từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, mở ra một kỷ nguyên mới trong

lịch sử nước nhà, kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.
Hơn 70 năm qua, với một chặng đường dài đấu tranh oanh liệt dưới sự lãnh
đạo của Đảng, bằng những cuộc vận động cách mạng những cuộc khởi nghĩa và chiến
tranh cách mạng, bằng công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhân dân ta đã chiến
thắng vẻ vang cả chủ nghĩa thực dân cũ và chủ nghĩa thực dân mới, xây dựng và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vững vàng bước vào thế kỷ XXI.
Mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam hơn 70 năm qua đều bắt nguồn từ sự
lãnh đạo với đường lối cách mạng đúng đắn, sáng suốt của Đảng. Đường lối đó trải
qua thực tiễn đấu tranh cách mạng và xây dựng đất nước, được Đảng ta không ngừng
tổng kết, bổ sung, phát triển hoàn chỉnh. Thực tiễn đó có thể khẳng định rõ ràng rằng:
Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
II. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách
mạng. Đảng lãnh đạo toàn diện, trong đó có sự nghiệp QP-AN (QP-AN) và xây
dựng nền QPTD
Trong quá trình cách mạng, Đảng lãnh đạo mọi mặt toàn bộ xã hội, trong đó,
sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp QP-AN và xây dựng nền QPTD là một trong
những vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết để bảo vệ thành qủa cách mạng, bảo vệ
đất nước.
Để bảo vệ vững chắc Tổ quốc và chế độ xã hội chủ nghĩa trong mọi tình
huống, yêu cầu khách quan là Đảng phải trực tiếp lãnh đạo đối với sự nghiệp QP-AN
và xây dựng nền QPTD vững mạnh, trong đó: “Quốc phòng, công cuộc giữ nước của
một quốc gia, gồm tổng thể các hoạt động đối nội và đối ngoại về quân sự, chính trị,
kinh tế, văn hoá, khoa học... của Nhà nước và nhân dân để phòng thủ đất nước, tạo nên
sức mạnh toàn diện, cân đối, trong đó sức mạnh quân sự là đặc trưng nhằm giữ được
hoà bình, đẩy lùi, ngăn chặn các hoạt động gây chiến của kẻ thù và sẵn sàng đánh


thắng chiến tranh xâm lược dưới mọi hình thức và quy mô. Quốc phòng là hoạt động
của cả nước, trong đó lực lượng vũ trang là lực lượng nòng cốt. Kẻ thù xâm lược từ
bên ngoài thường cấu kết với lực lượng phản động bên trong, do đó quốc phòng phải

luôn luôn kết hợp chặt chẽ với an ninh để bảo vệ đất nước, bảo vệ chế độ”(1).
“An ninh quốc gia, trạng thái của quốc gia có sự ổn định về mọi mặt, các lợi
ích quốc gia được toàn vẹn, không bị xâm phạm hoặc bị đe doạ xâm phạm. Bảo vệ an
ninh quốc gia là một nhiệm vụ trọng yếu của tất cả các quốc gia. Ở Việt Nam, bảo vệ
an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn dân và của cả hệ thống
chính trị, trong đó lực lượng an ninh là nòng cốt; bảo vệ an ninh luôn kết hợp chặt chẽ
với củng cố quốc phòng(2).
“QPTD, quan điểm cơ bản chỉ đạo việc xây dựng nền quốc phòng của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đó là nền quốc phòng mang tính chất “Vì dân,
do dân, của dân”, phát triển theo hướng: Toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự lực, tự
cường và ngày càng hiện đại, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý, điều hành của
Nhà nước, nhằm giữ vững hoà bình, ổn định của đất nước, sẵn sàng đánh bại mọi loại
hình xâm lược và bạo loạn lật đổ của các thế lực đế quốc và phản động, bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam và chế độ xã hội chủ nghĩa”1.
Như vậy, quan niệm, quan điểm của Đảng ta về QP-AN, xây dựng nền QPTD
là một thể thống nhất biện chứng, có mối quan hệ khăng khít, luôn luôn gắn bó và phải
được kết hợp chặt chẽ với nhau, là một điều kiện cơ bản đảm bảo hoà bình, ổn định đất
nước, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Sức mạnh QP-AN, của nền QPTD của chúng ta là sức mạnh tổng hợp, mà nền
tảng của nền QPTD và an ninh nhân dân nước ta là sự phát triển và ổn định mọi mặt
của đời sống xã hội. Sức mạnh QP-AN của nền QPTD Việt Nam xây dựng bằng nguồn
lực của đất nước và con người Việt Nam, đi đôi với việc tranh thủ quan hệ hữu nghị và
hợp tác với các nước cùng đấu tranh cho hoà bình, an ninh chung trong khu vực và
trên thế giới. Sức mạnh đó biểu hiện ở tiềm lực quốc phòng (bao gồm tiềm lực quân


sự, tiềm lực chính trị - tinh thần - văn hoá, tiềm lực kinh tế, tiềm lực khoa học - công
nghệ), ở thế trận quốc phòng kết hợp với thế trận an ninh nhân dân, ở nền công nghiệp
quốc phòng của đất nước…
Nhìn lại lịch sử lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng ta thấy quan

điểm QPTD, chiến tranh nhân dân là quan điểm, tư tưởng xuyên suốt mọi thời kỳ cách
mạng, đặc biệt là sau khi Đảng ta lãnh đạo nhân dân ta tiến hành vũ trang khởi nghĩa
giành chính quyền vào tháng 8-1945. Các sự kiện lịch sử, những chủ trương, biện
pháp, những quan điểm, tư tưởng và thực tiễn hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết
các nhiệm vụ được đặt ra để bảo vệ chính quyền non trẻ trước sự uy hiếp của thực dân,
đế quốc và các thế lực phản động đủ loại. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã đề ra
hàng loạt chủ trương sáng suốt, kiên quyết, thận trọng xây dựng, củng cố Nhà nước,
chống nạn đói, chống giặc dốt, phát triển kinh tế, phát triển sản xuất, tạo tiềm lực để
đất nước chuẩn bị cho kháng chiến chống Pháp thắng lợi.
Những quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm
của Đảng ta trong xây dựng và bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa, tạo điều
kiện để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước giai đoạn 1954-1975 đã một lần
nữa chứng minh sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng trong sự nghiệp QPTD,
chiến tranh nhân dân giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã nêu cao tinh thần cảnh
giác cách mạng, đánh giá đúng đắn kẻ thù của cách mạng, đánh giá đúng tương quan
so sánh lực lượng địch, ta, những điều kiện trong nước và quốc tế có liên quan, tranh
thủ thời gian hoà bình, khẩn trương xây dựng các tiềm lực của đất nước cả về chính trị,
quân sự, kinh tế, văn hoá, khoa học… từng bước biến các tiềm lực thành sức mạnh
hiện thực của nền quốc phòng, để đất nước luôn luôn có thể sẵn sàng đáp ứng yêu cầu
chiến tranh. Đảng ta cũng hết sức quan tâm chăm lo xây dựng quân đội nhân dân hùng
mạnh trên cơ sở vũ trang toàn dân để đủ khả năng đánh thắng kẻ thù. Đảng có đường
lối đối ngoại đúng đắn, kiên định về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược, có chính sách
ngoại giao thận trọng, khôn khéo, triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù để


tranh thủ thời gian chuẩn bị, tận dụng mọi biện pháp có thể và sử dụng mọi lực lượng
cần sử dụng để góp phần xây dựng nền QPTD, tiến hành chiến tranh nhân dân với tinh
thần “tất cả cho tiền tuyến, tất cả cho chiến thắng”, tập trung toàn bộ lực lượng của đất
nước để đánh thắng kẻ thù xâm lược.

Sau nhiều thập kỷ tiến hành chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc,
quân và dân ta đã giành được hoà bình, độc lập tự do và thống nhất đất nước. Từ cuối
những năm 1980, nhân dân ta tập trung sức vào nhiệm vụ xây dựng đất nước, chiến
thắng lạc hậu và nghèo nàn, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
theo đường lối đổi mới đúng đắn và sáng tạo mà Đảng ta đã chỉ ra từ Đại hội VI. Sự
nghiệp QP-AN, củng cố nền QPTD trong những năm qua luôn luôn quán triệt đường
lối đổi mới của Đảng, dựa trên những thành tựu quan trọng của công cuộc đổi mới,
theo một tư duy mới về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong những điều kiện và hoàn cảnh
mới ở nước ta, trong khu vực và trên thế giới sau “Chiến tranh lạnh”. Trong công cuộc
đổi mới của đất nước, sự nghiệp QP-AN và củng cố nền QPTD đã có những bước đổi
mới và phát triển. Kết quả của sự nghiệp QP-AN và xây dựng nền QPTD, với sự tham
gia của toàn dân, toàn quân, của các ngành, các cấp, của cả hệ thống chính trị ở nước
ta đã đưa đến thành quả lớn nhất là chúng ta đã bảo vệ có hiệu quả độc lập dân tộc, chủ
quyền quốc gia, lãnh thổ của Tổ quốc (cả vùng đất, vùng trời và vùng biển), giữ vững
ổn định chính trị, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, củng cố hoà bình, sẵn sàng ứng phó với
mọi tình huống bất trắc. Kết hợp chặt chẽ xây dựng đất nước với bảo vệ Tổ quốc, kết
hợp QP-AN và kinh tế với đối ngoại, quân và dân ta đã tăng cường thêm một bước
tiềm lực quốc phòng, tạo thêm điều kiện về vật chất, tinh thần và môi trường thuận lợi
để đưa đất nước phát triển vào một thời kỳ mới - đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.


Toàn bộ sự nghiệp đó đều dựa chắc vào nhân dân, dựa vào chế độ xã hội chủ
nghĩa ưu việt, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng vô sản và sự tổ chức, quản lý của Nhà
nước xã hội chủ nghĩa.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp QP-AN và xây dựng nền QPTD
trong thời kỳ mới
3.1. Bối cảnh quốc tế, khu vực, âm mưu thủ đoạn của kẻ thù và đặc điểm tình
hình đất nước

Trong thời kỳ cách mạng mới ngày nay, sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở
Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, phong trào cách mạng thế giới tạm thời lâm vào thoái
trào, mặc dù cán cân chiến lược thế giới xét trên tổng thể đang tạm thời nghiêng về
phía có lợi cho chủ nghĩa đế quốc, nhưng tính chất cơ bản của thời đại vẫn là quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Các mâu thuẫn cơ bản của thời đại vần tồn tại
và phát triển, có mặt còn sâu sắc hơn, nội dung và hình thức biểu hiện có nhiều nét
mới. Cuộc đấu tranh dân tộc và giai cấp trên thế giới cũng như ở mỗi nước tiếp tục
diễn ra quyết liệt, phức tạp trong bối cảnh mới, nhưng đặc trưng cơ bản vẫn là cuộc
đấu tranh giai cấp và vấn đề “ai thắng ai” giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội.
Những khả năng về hoà bình và chiến tranh đan xen nhau rất phức tạp, nhưng hoà
bình, ổn định và hợp tác để phát triển vẫn là xu thế cơ bản không thể đảo ngược. Bên
cạnh đó, các cuộc xung đột vũ trang, nội chiến, chiến tranh cục bộ do những mâu
thuẫn về dân tộc, sắc tộc, tôn giáo ở mỗi nước và do các tranh chấp về lãnh thổ, lợi ích
kinh tế, tài nguyên giữa các nước, đặc biệt là do chính sách can thiệp mới của chủ
nghĩa đế quốc và các nước lớn vẫn xảy ra… Do đó, mặc dù chiến tranh lớn, chiến
tranh thế giới, chiến tranh huỷ diệt có khả năng bị đẩy lùi, nhưng sự đe doạ của vũ khí
huỷ diệt (vũ khí hạt nhân, sinh học…), của chính sách sức mạnh và của các nhân tố
dân tộc, sắc tộc, tôn giáo rất tiềm tàng. Chạy đua vũ trang, khủng bố, nội chiến và
chiến tranh cục bộ dưới những hình thức và quy mô khác nhau vẫn xảy ra.


Trong bối cảnh quốc tế đó, vai trò của các nước lớn và mối quan hệ giữa các
nước lớn sẽ tác động không nhỏ đến cục diện chung của thế giới và ảnh hưởng nhất
định đến sự điều chỉnh chiến lược của các nước khác. Các nước, các dân tộc, các quốc
gia có chế độ chính trị - xã hội khác nhau có sự điều chỉnh chiến lược phục vụ cho lợi
ích phát triển, khẳng định độc lập tự chủ, cố gắng thoát ra khỏi vùng ảnh hưởng và áp
đặt của nước ngoài. Mối quan hệ quốc tế trở nên rộng rãi hơn, các nhu cầu về phát
triển kinh tế gắn liền với các nhu cầu mới về an ninh. An ninh chính trị và phát triển
kinh tế đều là những nhân tố tác động mạnh mẽ đến QP-AN của mỗi nước.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trong quá trình phát triển sẽ tiếp tục

tác động mạnh mẽ đến quốc phòng, quân sự và chiến tranh, chi phối trực tiếp chính
sách quốc phòng của mỗi nước. Đặc biệt, khoa học - công nghệ quân sự và vũ khí
trang bị kỹ thuật hiện đại đã và sẽ làm nảy sinh cả thời cơ và thách thức mới đối với
những nước kém phát triển, nhất là những nước phải tự mình chăm lo củng cố QP-AN
như Việt Nam. Một mặt, QP-AN của Việt Nam phải tìm cách đa dạng hoá các nguồn
lực và thu hút các thành tựu khoa học, phát huy nội lực, giữ độc lập tự chủ không để bị
lệ thuộc quá sâu vào một hay một số đối tác cụ thể; mặt khác, phải có chính sách hợp
lý để có thể tận dụng tối đa mọi nguồn lực từ bên ngoài, đi tắt, đón đầu công nghệ mới
trên cơ sở một định hướng quy hoạch tổng hợp về khoa học - công nghệ quân sự.
Khu vực Đông Nam Á đã cơ bản ra khỏi khủng hoảng tài chính - tiền tệ, nền
kinh tế một số nước đã có tăng trưởng, từng bước đi vào ổn định. Tuy nhiên, trong khu
vực vẫn còn tồn tại nhiều nhân tố có thể dẫn tới sự mất ổn định về chính trị, quân sự.
Song, xu thế chung là mong muốn giải quyết các tranh chấp, các mâu thuẫn thông qua
thương lượng, đàm phán nhằm duy trì hoà bình, ổn định trong khu vực và hợp tác cùng
xây dựng và phát triển.
Hiện nay, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực chống phá cách mạng Việt Nam
tiếp tục điều chỉnh chiến lược và phương thức chống phá cách mạng nước ta trên tất cả
các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá, QP-AN. Âm mưu của chúng là
nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường, khống chế về kinh tế, thúc đẩy nhanh quá trình “tư


nhân hoá”, “tư bản hoá” nền kinh tế đất nước, kết hợp với tăng cường chống phá về
chính trị, văn hoá, lối sống, tình báo, gián điệp… đồng thời tạo dựng lực lượng chống
đối và sử dụng lực lượng phản động người Việt Nam sống ở trong nước và lưu vong ở
nước ngoài xâm nhập về hòng gây bạo loạn lật đổ chính quyền. Không những thế,
chúng còn tiếp tục chuẩn bị lực lượng quân sự, khôi phục và tăng cường các khối liên
minh quân sự giữa Mỹ và một số thế lực chống cộng ở khu vực Đông Nam Á. Mưu đồ
của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch là xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng, lật đổ
chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Mặt khác, cần nêu cao cảnh giác bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh

thổ của Tổ quốc.
Trong những năm tới, nhân dân ta vẫn đứng trước nhiệm vụ phải sẵn sàng đối
phó với các tình huống do các thế lực thù địch gây ra, như: “diễn biến hoà bình”; “diễn
biến hoà bình” kết hợp với bạo loạn lật đổ; bạo loạn lật đổ bên trong kết hợp với can
thiệp bằng lực lượng vũ trang từ bên ngoài vào; bao vây phong toả, tập kích hoả lực;
chiến tranh xâm lược ở các quy mô. Đồng thời cần đề phòng có thể xảy ra các tình
huống xung đột vũ trang ở vùng biển, hải đảo, vùng biên giới của Tổ quốc và sẵn sàng
ứng phó với các tình huống phức tạp khác có thể xảy ra.
Toàn bộ tình hình trên đặt ra những thách thức mới đối với độc lập, chủ quyền
và an ninh nhân dân của đất nước. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt
Nam, chúng ta phải chủ động về chiến lược và sách lược khôn khéo nhằm khai thác và
tận dụng các mối quan hệ thống nhất cũng như mâu thuẫn về lợi ích giữa các nước để
củng cố vị thế và tăng cường sức mạnh chính trị, kinh tế cũng như QP-AN của mình.
Một mặt, phải tận dụng xu thế hoà bình, liên kết và hợp tác để đảm bảo điều kiện quốc
tế thuận lợi phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước (trong đó
có công nghiệp quốc phòng); mặt khác, phải hết sức quan tâm bảo vệ chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ và an ninh chính trị trước những diễn biến hết sức phức tạp của tình hình
quốc tế và khu vực.


Lịch sử và truyền thống xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta là một di
sản vô giá cần được kế thừa và phát triển trong quá trình xây dựng, củng cố QP-AN.
Sự kế thừa và phát huy truyền thống phải được thể hiện trong việc xây dựng và củng
cố nền QPTD, cả tiềm lực và thế trận quốc phòng, thế trận an ninh nhân dân, là cơ sở
để chuyển thành sức mạnh của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân vững mạnh toàn diện, bảo đảm cho nền QP-AN luôn đủ sức
mạnh đối phó thắng lợi với những đối tượng có tiềm lực kinh tế và quân sự to lớn.
Trong thời kỳ mới, nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam đang xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong những
điều kiện thuận lợi và thời cơ mới, đồng thời cũng xuất hiện những khó khăn và thách

thức mới cùng với những thách thức vốn có.
Thuận lợi là, công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu to lớn và rất quan
trọng, đất nước ta đã đạt tới một vị thế được cả loài người biết đến: một quốc gia có
tinh thần tự lực, tự cường, đoàn kết keo sơn, không chịu phụ thuộc vào bất cứ thế lực
nào; có truyền thống và khả năng đánh bại mọi thế lực thống trị và xâm lược của kẻ
thù trong mọi hoàn cảnh, đang tự tìm lấy con đường để phát triển, hướng tới tương lai
và tinh thần Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng
quốc tế; phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển.
Tiềm lực mọi mặt của đất nước trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
sẽ là cơ sở nền tảng của sự nghiệp QP-AN, tác động trực tiếp đến khả năng về quy mô
chiều sâu và phạm vi bề rộng của quá trình hiện đại hoá QP-AN của Việt Nam. Quá
trình phát triển QP-AN, một mặt phải bám sát sự phát triển của tình hình kinh tế -xã
hội đất nước, nhất là khả năng bảo đảm ngân sách cho QP-AN, trình độ công nghiệp
của quốc gia, trình độ dân trí và các yếu tố văn hoá-xã hội khác, mặt khác, cần thấy hết
cả mặt tích cực và mặt tiêu cực của kinh tế thị trường. Chúng ta chủ trương phát triển
nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng phải thấy rõ mặt trái của
nó để định ra chính sách đúng đắn, vừa hạn chế mặt tiêu cực trong xây dựng hoà bình,
vừa có thể động viên cho QP-AN khi cần thiết.


Khó khăn là, nền kinh tế tiếp tục phát triển và tăng trưởng khá nhưng còn
nhiều mặt yếu và chưa vững chắc; cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ ở khu vực đã và
sẽ tiếp tục tác động đến nền kinh tế đất nước. Trong khi đó, một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, tiêm nhiễm tư
tưởng lệch lạc, giảm sút ý chí chiến đấu, tham nhũng, quan liêu, tiêu cực, mơ hồ mất
cảnh giác… công tác quản lý cán bộ, đảng viên, bảo vệ chính trị nội bộ còn nhiều sơ
hở, thiếu sót. Một số mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân xảy ra ở nhiều địa phương tác
động đến an ninh trật tự và ổn định xã hội. Tình hình tranh chấp, khiếu kiện tập thể xảy
ra ở nhiều nơi gây hậu quả nghiêm trọng. Bọn phản động, bất mãn đội lốt tôn giáo đã
lén lút hoặc công khai truyền đạo trái phép, kích động giáo dân ở một số địa phương

gây rối, có trường hợp kẻ địch lợi dụng gây bạo loạn chính trị. Các đối tượng cơ hội
chính trị, bất mãn, ngụy quân, ngụy quyền, đảng phái phản động cũ chưa chịu cải tạo
tìm cách móc nối với nhau để phối hợp kích động chống phá chúng ta từ bên trong. Về
mặt xã hội, tình trạng không có việc làm gia tăng; sự phân hoá giàu nghèo ngày càng
lớn; công bằng xã hội chưa được đảm bảo, đặc biệt là các vùng núi, vùng đồng bào dân
tộc; tình hình tội phạm và các tệ nạn xã hội khác chưa được ngăn chặn, xử lý một cách
kiên quyết và có hiệu quả… nếu không kịp thời được khắc phục thì sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho các thế lực thù địch lợi dụng chống phá. Đó là những nhân tố tác động
không nhỏ đến sự ổn định chính trị-xã hội và sức mạnh QP-AN của đất nước.
3.2. Thực trạng nền QP-AN
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nền QP-AN của đất nước ta qua những năm đổi
mới đã đạt được những thành tựu quan trọng, nhưng cũng còn bộc lộ nhiều khâu yếu
và có mặt chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình đầy những biến động
phức tạp.
Xuất phát từ tình hình chính trị thế giới, khu vực và trong nước; trên cơ sở
công cuộc tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa, trong lĩnh vực QP-AN, Đảng ta đã xác định rõ nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và
bảo vệ chế độ trong thời kỳ mới, chuyển trọng tâm nhiệm vụ QP-AN từ đề phòng


chiến tranh xâm lược lớn sang đề phòng xung đột vũ trang các quy mô khác nhau,
phòng chống “diễn biến hoà bình” và bạo loạn lật đổ, coi đó là nhiệm vụ quan trọng
cấp bách hàng đầu, đồng thời sẵn sàng đối phó thắng lợi các tình huống phức tạp khác.
Đánh giá thành tựu về QP-AN, Báo cáo chính trị của Đảng ta tại Đại hội IX đã chỉ rõ:
“Tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định; quốc phòng và an ninh được tăng cường.
Các lực lượng vũ trang nhân dân làm tốt nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ, bảo đảm an ninh quốc gia. Sức mạnh tổng hợp của nền QPTD và an
ninh nhân dân, nhất là trên các địa bàn chiến lược, biên giới, biển, đảo và hải đảo
được phát huy. Tổ chức quân đội và công an được điều chỉnh theo yêu cầu mới. Việc
kết hợp quốc phòng và an ninh với phát triển kinh tế và công tác đối ngoại có tiến

bộ”1.
Về xây dựng nền QPTD, đã coi trọng xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh
(thành phố) và xây dựng lực lượng vũ trang địa phương, xây dựng lực lượng dự bị
động viên vững mạnh. Các cuộc diễn tập khu vực phòng thủ ở các cấp được tiến hành
thường xuyên và đạt kết quả thiết thực, nâng cao một bước chất lượng dân quân tự vệ
và lực lượng dự bị động viên. Chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của Quân
đội nhân dân cũng được nâng lên một bước toàn diện hơn. Các xí nghiệp quốc phòng
đã được chấn chỉnh lại, hoạt động có hiệu quả và đứng vững trong cơ chế thị trường.
Sự quản lý nhà nước về quốc phòng được đặt ra với nội dung và cơ chế toàn diện, phù
hợp hơn. Sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp quốc phòng và quân đội được tăng
cường. Ở các địa phương, cơ chế cấp ủy lãnh đạo, chính quyền quản lý điều hành, các
cơ quan, ban ngành đoàn thể (mà nòng cốt là cơ quan quân sự) làm tham mưu theo
chức năng đã đi dần vào nề nếp và hoạt động có hiệu quả. Công tác giáo dục quốc
phòng đã được triển khai toàn diện hơn…
Tuy nhiên, so với yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đang
còn một số tồn tại cần khắc phục, nổi lên là: sức mạnh QP-AN trên cả nước chưa phát
triển đồng đều; nền QPTD, thế trận QPTD tuy được củng cố nhưng chưa toàn diện,


chưa vững chắc; chất lượng xây dựng khu vực phòng thủ có địa phương còn hạn chế.
Nhận thức về âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch chưa sâu sắc
và còn những biểu hiện mơ hồ, ảo tưởng dẫn đến mất cảnh giác trong quản lý kinh tế,
quản lý xã hội, trong hoạt động đối ngoại và trong giao tiếp với nước ngoài, tạo kẽ hở
về mặt bảo vệ an ninh và gây tổn hại đến lợi ích quốc gia. Chức năng quản lý nhà nước
về quốc phòng mới ở bước đầu, nhiều nơi chưa chấp hành tốt theo đúng chức năng và
yêu cầu của tình hình, nhiệm vụ; chất lượng tổng hợp của các lực lượng vũ trang có
mặt chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình phức tạp, còn lúng túng, bị
động. Bên cạnh đó, những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường, sự tha hoá của một bộ
phận cán bộ Đảng và Nhà nước song chưa có biện pháp thật sự hữu hiệu để xử lý và
ngăn chặn… đã gây ảnh hưởng lớn đến ổn định chính trị và phát triển kinh tế - xã hội,

đến xây dựng, củng cố QP-AN, làm tổn hại đến công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
3.3. Tư duy mới, quan điểm, mục tiêu, yêu cầu đối với sự nghiệp QP-AN
Căn cứ vào đặc điểm tình hình và thực trạng nền QP-AN, Đảng ta chỉ ra phải
đổi mới tư duy trên mọi lĩnh vực, trong đó có sự nghiệp QP-AN đất nước.
Tư duy mới của Đảng ta về QP-AN được hình thành và phát triển qua các kỳ
Đại hội VI, VII, VIII, tập trung vào những vấn đề cơ bản là: Độc lập dân tộc, chủ
quyền quốc gia, bảo vệ Tổ quốc gắn chặt với bảo vệ chế độ, đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, củng cố quốc phòng và
an ninh, xây dựng lực lượng vũ trang.
Kế thừa tư duy mới và quan điểm xây dựng, củng cố QP-AN của các đại hội
trước và từ yêu cầu của thực tiễn, Đại hội Đảng lần thứ IX đã phân tích và chỉ ra rằng,
để bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, nếu chỉ củng cố QP-AN thì chưa đủ,
mà phải tăng cường QP-AN – đòi hỏi khách quan trong tình hình mới. Những quan
điểm cơ bản của Đảng về tăng cường QP-AN trong thời kỳ mới thể hiện:
- Trước hết, về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Đảng khẳng định: “Bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn


lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá; bảo vệ Đảng,
Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích
quốc gia dân tộc”1.
Như vậy, tư duy bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của Đảng ta từng bước có sự
phát triển mới.
Bảo vệ độc lập dân tộc ngày nay không chỉ có vấn đề sẵn sàng chống quân
xâm lược mà quan trọng là phải bảo vệ độc lập cả về chính trị, kinh tế và văn hoá,
chống lại mọi hình thức áp đặt, thao túng, mua chuộc của các thế lực bên ngoài. Việc
đó không thể chỉ tiến hành bằng các giải pháp bạo lực, mặc dù sức mạnh bạo lực bao
giờ cũng là sức mạnh nòng cốt để bảo vệ Tổ quốc.
Bảo vệ chủ quyền quốc gia Việt Nam ngày nay cũng có một nội dung rộng lớn

hơn, toàn diện hơn. Đó không chỉ là chủ quyền toàn vẹn về lãnh thổ của quốc gia trên
đất liền, trên biển và trên không; chủ quyền về các tài nguyên trong lòng đất và dưới
đáy đại dương… mà còn là chủ quyền trong việc định đoạt vận mệnh đất nước và vận
mệnh dân tộc; quyền lựa chọn thể chế chính trị, con đường phát triển; chủ quyền quản
lý người nước ngoài sống và làm việc tại Việt Nam; chủ quyền trong các cơ quan đại
diện của Việt Nam được thiết lập trên thế giới…
Bảo vệ an ninh quốc gia là phải bảo vệ một hệ thống an ninh hoàn chỉnh cả về
chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá - xã hội, lấy bảo vệ an ninh chính trị, bảo vệ vững
chắc an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội làm trọng yếu, đồng thời không xem
nhẹ bảo vệ an ninh kinh tế và văn hoá, không để kẻ thù phá hoại, giữ vững và phát huy
bản sắc văn hoá dân tộc. Bảo vệ an ninh chính trị lại phải đặt lên hàng đầu nhiệm vụ
bảo vệ định hướng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ an ninh trong Đảng, trong hệ thống
chính trị, bảo đảm sự vững vàng, đúng đắn của cơ chế lãnh đạo, quản lý, kịp thời phát
hiện và loại bỏ các dạng của chủ nghĩa cơ hội…
Đặc biệt, phải hết sức chú ý “bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc”. Phải phản đối
đấu tranh chống lại bất cứ hành động nào đe doạ đến an ninh và lợi ích quốc gia dân
tộc Việt Nam, dù hành động đó diễn ra bên trong hay bên ngoài lãnh thổ của chúng ta.


Vấn đề này đòi hỏi mọi hoạt động quan hệ quốc tế như ngoại giao, ngoại thương, hợp
tác kinh tế đối ngoại… đều phải coi trọng việc bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, không
được hy sinh lợi ích quốc gia, thậm chí không được để thiệt thòi cho lợi ích quốc gia,
dân tộc.
Đối với nước ta, Tổ quốc gắn chặt với Đảng Cộng sản và chế độ xã hội chủ
nghĩa. Tổ quốc ta là Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Tổ quốc của nhân dân, chỉ có Đảng
Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa mới đem lại tự do, ấm no và hạnh phúc cho
nhân dân. Do đó, bảo vệ Tổ quốc là phải bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ
xã hội chủ nghĩa.
- Về sức mạnh bảo vệ Tổ quốc:
Quan điểm về sức mạnh bảo vệ Tổ quốc ngày nay của đất nước được Đảng ta

khẳng định: “Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết
toàn dân, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh của lực lượng và thế trận QPTD với sức mạnh của
lực lượng và thế trận an ninh nhân dân”1.
Việc xây dựng và phát huy sức mạnh tổng hợp đã trở thành một trong những
quy luật cơ bản giành thắng lợi của cách mạng, cả trong giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ
quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Quy luật đó được hình thành từ trong lịch sử xa
xưa mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, đến thời đại Hồ Chí Minh
được khẳng định rõ ràng. Sự hình thành và khẳng định của quy luật này trên một cơ sở
thực tế là từ xưa đến nay, để bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh
quốc gia (cả an ninh sinh tồn và an ninh phát triển), dân tộc ta thường phải chống lại
những kẻ thù mạnh hơn mình, thậm chí mạnh hơn gấp nhiều lần, cả về tiềm lực kinh
tế, khoa học – kỹ thuật và quân sự, do đó, nếu không xây dựng, phát huy sức mạnh
tổng hợp thì không thể giành thắng lợi được.
Sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc của chúng ta do nhiều yếu tố tạo thành
như: chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá, khoa học – kỹ thuật và công nghệ; sức mạnh
của sự kết hợp giữa con người với vũ khí trang bị; giữa sức mạnh trong nước và sức


mạnh quốc tế… Nhưng, yếu tố quyết định bao giờ cũng vẫn là sức mạnh trong nước,
sức mạnh dân tộc, sức mạnh con người, sức mạnh chính trị – tinh thần, mà biểu hiện
tập trung trước hết là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ thống chính
trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bởi vì, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy “Khi cả một
dân tộc đoàn kết lại quyết tâm chiến đấu vì quyền sống trong độc lập tự do của mình,
thì không quân đội nào, súng bom nào có thể chống lại được”, và “Đoàn kết, đoàn kết,
đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công”.
Thực tế lịch sử 4.000 năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, nhất là từ khi
có Đảng lãnh đạo đến nay, đã chứng minh hùng hồn chân lý đó. Rõ ràng, sức mạnh
tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo
của Đảng là nhân tố cơ bản, là nền tảng vững chắc nhất để tạo ra các nhân tố khác của

sức mạnh dân tộc.
Sức mạnh dân tộc bao giờ cũng giữ vai trò quyết định nhất trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, song nếu chúng ta không tranh thủ được
sức mạnh thời đại thì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc sẽ gặp nhiều khó khăn.
Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang tiếp tục phát
triển như vũ bão, nền kinh tế tri thức không ngừng mở rộng; đang diễn ra với xu thế
toàn cầu hoá, quốc tế hoá, xã hội hoá các mặt của đời sống loài người; hợp tác đa
phương giữa các quốc gia, dân tộc trên nhiều lĩnh vực ngày càng gia tăng… Muốn đất
nước phát triển, có đủ sức mạnh bảo vệ Tổ quốc, trong mỗi bước của quá trình xây
dựng, chúng ta không thể không khai thác và tận dụng sức mạnh thời đại.
Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của chúng ta ngày nay còn phải
kết hợp sức mạnh của lực lượng và thế trận QPTD với sức mạnh của lực lượng và thế
trận an ninh nhân dân.
Lực lượng QPTD và lực lượng an ninh nhân dân bao gồm cả con người,
phương tiện vật chất và các khả năng được xây dựng để sử dụng vào việc răn đe, ngăn
chặn, đập tan mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, kể cả khi chúng liều
lĩnh gây ra chiến tranh xâm lược với mọi quy mô, mọi hình thức; giữ vững độc lập,


chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh đất nước, trật tự an toàn xã hội và nền văn
hoá, bảo đảm cho đất nước có hoà bình ổn định lâu dài, mọi quyền lợi của nhân dân,
của quốc gia, dân tộc được toàn vẹn, không bị xâm phạm hoặc bị đe doạ xâm phạm.
Thế trận QPTD và thế trận an ninh nhân dân là tổ chức, bố trí lực lượng toàn
diện của toàn dân trên từng vùng lãnh thổ và trên cả đất nước, để bảo vệ Tổ quốc, giữ
gìn độc lập, chủ quyền an ninh quốc gia. Ở nước ta, thế trận ấy trong thời bình là để
chống mọi âm mưu, hành động “diễn biễn hoà bình”, bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch; đồng thời làm nền tảng để chuyển thành thế trận chiến
tranh nhân dân, đánh bại chiến tranh xâm lược của kẻ thù, bảo vệ vững chắc Tổ quốc
và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Tựu trung lại, nếu không xây dựng được khối đại đoàn kết của toàn dân, của

cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng, không có lực lượng QPTD và lực
lượng an ninh nhân dân mạnh, không có thế trận QPTD và thế trận an ninh nhân dân
vững chắc, thì sẽ không có nội lực mạnh. Không có nội lực mạnh sẽ không có cơ sở
để khai thác, phát huy sức mạnh thời đại và kết hợp sức mạnh thời đại với sức mạnh
dân tộc để tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn nhất, đầy đủ nhất cho sự nghiệp QP-AN,
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Quan điểm kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng và an ninh được Đảng ta
khẳng định: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng và an ninh, quốc phòng và an
ninh với kinh tế trong các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế -xã
hội”1.
Trong khi xác định xây dựng và phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm,
chúng ta không được xem nhẹ nhiệm vụ QP-AN, bởi lẽ kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế
với quốc phòng và an ninh, quốc phòng và an ninh với kinh tế là một tất yếu khách
quan. Trong mối quan hệ giữa QP-AN với kinh tế thì kinh tế bao giờ cũng giữ vai trò
quyết định, đến lượt mình, QP-AN lại có tác động trở lại kinh tế. Kinh tế là điều kiện
của QP-AN; QP-AN là nhu cầu của kinh tế -xã hội. Phát triển kinh tế -xã hội làm giàu
cho đất nước và nhân dân cả về vật chất và tinh thần đồng thời cũng là tạo nền tảng


vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và củng cố, tăng cường QP-AN. Trái lại, xây dựng
củng cố tăng cường QP-AN càng vững chắc thì càng tạo ra môi trường hoà bình, ổn
định lâu dài để cả nước yên tâm xây dựng, phát triển kinh tế.
Lịch sử dân tộc ta từ thuở Vua Hùng dựng nước đến nay đã chứng minh điều
đó. Những chủ trương “Khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc”, “Ngụ binh ư
nông…” của ông cha ta xưa mãi mãi là bài học cực kỳ quý giá cho chúng ta hôm nay
và muôn đời con cháu sau này.
Sự kết hợp giữa kinh tế với quốc phòng và an ninh, quốc phòng và an ninh
với kinh tế phải được thể hiện trong các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển
kinh tế -xã hội cũng như trong chiến lược, quy hoạch và kế hoạch củng cố tăng cường
quốc phòng và an ninh, sao cho mỗi bước phát triển kinh tế là một bước tăng thêm

tiềm lực QP-AN và ngược lại, QP-AN ngày càng vững chắc lại tạo thêm điều kiện
thuận lợi cho phát triển kinh tế -xã hội. Đây là một đòi hỏi rất nghiêm túc đối với các
cấp, các ngành, các địa phương, đơn vị, từ Trung ương đến cơ sở, làm sao để đến khi
tổ chức thực hiện những chiến lược, quy hoạch, kế hoạch ấy không gây khó khăn, cản
trở mà tạo được thuận lợi lớn nhất cho nhau phát triển theo đúng mục tiêu chung là:
“Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, chống lại có hiệu quả
mọi âm mưu và hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch.
Mọi hoạt động kinh tế phải được đánh giá bằng hiệu quả tổng hợp kinh tế, tài
chính, xã hội, môi trường, quốc phòng và an ninh; mọi hoạt động về QP-AN phải được
đánh giá bằng hiệu quả răn đe, ngăn chặn, đẩy lùi và đập tan các âm mưu, hành động
chống phá của các thế lực thù địch, bất kể trong điều kiện thời bình hay chiến tranh
dưới mọi quy mô, mọi hình thức, đảm bảo cho đất nước giữ vững được độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ, có hoà bình ổn định lâu dài để xây dựng, phát triển theo
đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Củng cố, tăng cường QP-AN hiện nay phải gắn chặt với quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Các chương trình, đề án kinh tế được lựa chọn phải đáp
ứng yêu cầu của việc thực hiện nhiệm vụ QP-AN. Sự kết hợp đó phải được triển khai


trên cả nước, trong từng địa phương, từng vùng, từng ngành, đặc biệt chú trọng những
địa bàn chiến lược trọng điểm (vùng núi, vùng biển, biên giới, hải đảo, khu công
nghiệp, thành phố, thị xã…). Các kế hoạch, quy hoạch các công trình, các doanh
nghiệp phải đảm bảo khả năng tự bảo vệ và góp phần xây dựng thế trận QP-AN chung.
Mặt khác, mỗi công trình quốc phòng phải bảo đảm an toàn cho hoạt động kinh tế, an
ninh cho khu vực và toàn cục. Có như thế, khi cần thiết mới có thể huy động được
nhanh nhất, nhiều nhất, tốt nhất cả nhân tài, vật lực tại chỗ vào việc xử lý các tình
huống bảo vệ Tổ quốc, cả trong thời bình cũng như khi có chiến tranh xâm lược của kẻ
thù từ bên ngoài dưới mọi quy mô, hình thức.
Cần tổ chức tốt việc quân đội tham gia lao động sản xuất, làm kinh tế, nhất là
những đơn vị làm nhiệm vụ ở vùng kinh tế -quốc phòng trọng điểm, làm nòng cốt

trong việc xây dựng địa bàn vững mạnh toàn diện và giải quyết các vấn đề kinh tế -xã
hội ở đó, nhất là những nơi có vị trí chiến lược nhưng còn nhiều khó khăn như vùng
sâu, vùng xung yếu, biên giới, cửa khẩu, biển, đảo…
- Quan điểm gắn nhiệm vụ quốc phòng và an ninh với hoạt động đối ngoại
được Đảng ta chỉ rõ: “Phối hợp hoạt động quốc phòng và an ninh với hoạt động đối
ngoại”1, bởi lẽ, sự phát triển của xu thế toàn cầu hoá và bùng nổ thông tin toàn cầu đã
làm cho chiến lược đối ngoại của mỗi quốc gia trong quan hệ quốc tế có tầm quan
trọng to lớn hơn, gắn với nhu cầu phát triển và bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ, lợi ích quốc gia, dân tộc và tham gia vào công việc chung của thế giới.
Sự phối hợp hài hoà giữa quốc phòng và an ninh với đối ngoại là một trong
những nhân tố quyết định thắng lợi, một bài học thành công của cách mạng Việt Nam
và hiện nay đã góp phần tạo nên những thành tựu quan trọng của đất nước.
Quốc phòng, an ninh và đối ngoại tuy là những lĩnh vực khác nhau nhưng đều
có chung mục đích là bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia, tạo môi trường hoà
bình, ổn định để phát triển đất nước. Không giữ được độc lập chủ quyền thì không có
được an ninh và ngược lại, không giữ được an ninh thì chủ quyền bị vi phạm. Hoạt
động đối ngoại cũng phải luôn dựa vào thế và lực của đất nước, trên cơ sở đó làm tăng


thêm thế và lực cho đất nước, QP-AN làm hậu thuẫn đắc lực cho các hoạt động đối
ngoại. Việc phát huy thế mạnh của từng lĩnh vực trong sự liên hệ mật thiết và tác động
hữu cơ với nhau và thế mạnh của mối quan hệ tổng hợp giữa chúng với nhau lại càng
cần thiết trước yêu cầu nhiệm vụ đối với đất nước ta trong bối cảnh tình hình mới ở
trong nước, khu vực và trên thế giới. Vì vậy, sự phối hợp giữa công tác QP-AN với
hoạt động đối ngoại là một yêu cầu khách quan và nghiêm túc.
Sự “phối hợp” này không phải ngày nay mới được đặt ra, mà trong lịch sử dân
tộc ta, ông cha ta luôn coi ngoại giao như một phương thức để xây dựng và bảo vệ đất
nước. Trong lịch sử hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, hoạt động quân
sự, quốc phòng, an ninh thắng lợi đã hỗ trợ rất nhiều cho thắng lợi trên bàn ngoại giao;
ngược lại, thắng lợi về ngoại giao là nguồn cổ vũ lớn, tạo thêm điều kiện cho thắng lợi

lớn hơn trên lĩnh vực quân sự QP-AN.
Trong cuộc đấu tranh dân tộc và giai cấp ngày nay, bảo vệ Tổ quốc trước hết là
phải đánh thắng chiến lược “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch hòng xoá bỏ, lật đổ chủ nghĩa xã hội, gắn chặt bảo vệ chủ
quyền toàn vẹn lãnh thổ với bảo vệ nền độc lập và chế độ xã hội chủ nghĩa. Bảo vệ Tổ
quốc là phải chống cả thù trong và giặc ngoài, vừa chống xâm lược từ bên ngoài vừa
chống sự phá hoại, lật đổ từ bên trong, quốc phòng và an ninh phải kết hợp chặt chẽ
với nhau trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Đó là sự kết hợp trong tiềm lực xây dựng
mọi mặt cho quốc phòng và an ninh; kết hợp trong xây dựng nền QPTD và thế trận
QPTD với xây dựng nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân. Mặt khác,
trong tình hình mới, chủ trương về đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta là mở rộng hợp
tác, giao lưu, hội nhập quốc tế nhưng phải giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ, không để các thế lực thù địch lợi dụng quan hệ đối ngoại để tiến hành “diễn biến
hoà bình”, bạo loạn lật đổ; cũng không vì yêu cầu của nhiệm vụ quốc phòng, an ninh
mà hạn chế đến quan hệ đối ngoại. Phải gắn chặt hoạt động quốc phòng, an ninh với
hoạt động đối ngoại nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp và môi trường thuận lợi, giữ


vững ổn định chính trị và phát triển kinh tế của đất nước, kết hợp chặt chẽ bảo vệ Tổ
quốc với bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Việc phối hợp giữa hoạt động đối ngoại và
quốc phòng, an ninh phải được thực hiện trong mối liên hệ giữa hội nhập quốc tế và
giữ vững độc lập tự chủ, bản sắc dân tộc. Làm tốt sự phối hợp này cũng là góp phần
quan trọng thực hiện quan điểm tăng cường sự nghiệp QP-AN của Đảng.
Tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc là nhiệm vụ hết sức lớn lao và nặng nề vì nó liên quan trực tiếp đến an nguy
của quốc gia. Do đó, đây là nhiệm vụ chủ đạo, mang tính thường trực của Đảng, Nhà
nước và của toàn dân, mà lực lượng nòng cốt là quân đội nhân dân và công an nhân
dân.
Như Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ IX khẳng định: “Tăng cường
quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ trọng yếu

thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và
Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt”1.
Rõ ràng, giữ vững độc lập chủ quyền và an ninh là yêu cầu trọng yếu, thường
xuyên trong mọi lĩnh vực hoạt động của đất nước, liên quan đến mọi hoạt động hàng
ngày của toàn Đảng, Nhà nước và của mọi công dân. Trên cơ sở phát huy sức mạnh
của toàn dân, của cả hệ thống chính trị đối với sự nghiệp QP-AN, kết hợp chặt chẽ các
yếu tố chính trị, kinh tế, văn hoá, đối ngoại, an ninh, quốc phòng mới có thể tạo nên
sức mạnh tổng hợp để tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh bảo vệ vững chắc
Tổ quốc. Đó không chỉ là nhiệm vụ trong tình huống có chiến tranh hay bạo loạn lật đổ
mà là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Đảng và Nhà nước cần có chính sách và kế
hoạch cụ thể để lôi cuốn, tập hợp nhân dân tham gia tự giác, tích cực vào sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc, xây dựng tiềm lực và thế trận QPTD, an ninh nhân dân vững mạnh.
Tuy vậy, để tăng cường QP-AN phải tập trung xây dựng lực lượng quân sự
(quân đội nhân dân và công an nhân dân) đủ mạnh làm lực lượng nòng cốt trong thực
hiện nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh và
toàn vẹn lãnh thổ. Có như vậy mới có thể ngăn chặn và đẩy lùi các cuộc phiêu lưu


quân sự của những kẻ thù xâm lược, đánh bại các hoạt động phá hoại gây bạo loạn lật
đổ của kẻ thù.
Việc tập trung xây dựng quân đội nhân dân và công an nhân dân thể hiện rõ
sự quan tâm chăm sóc và tin cậy của toàn Đảng, toàn dân đối với lực lượng vũ trang,
đồng thời giao trách nhiệm cho quân đội nhân dân và công an nhân dân không chỉ là
nòng cốt của sức mạnh QP-AN mà còn phải là nòng cốt trong việc xây dựng, tăng
cường QP-AN của đất nước trong tình hình hiện nay.
Với những quan điểm cơ bản của Đảng về tăng cường QP-AN nêu trên, mục
tiêu của sự nghiệp QP-AN đất nước trong thời kỳ mới được đặt ra là: Giữ vững ổn
định và hoà bình lâu dài, loại trừ được bạo loạn lật đổ ở những khu vực xung yếu của
đất nước và loại bỏ mọi sự can thiệp từ bên ngoài, ngăn ngừa được chiến tranh, tạo
được môi trường quốc tế và trong nước thuận lợi cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện

đại hoá đất nước, nâng cao được vị thế quốc gia ở trong khu vực và trên thế giới.
Trong tình hình hiện nay, mục tiêu này là rất cao đòi hỏi sự nỗ lực sáng tạo rất
lớn của Đảng, Nhà nước, toàn dân và toàn quân ta. Quan trọng là loại bỏ được khả
năng “tự diễn biến” đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển, đẩy
nhanh được quá trình hội nhập vào khu vực và thế giới, chủ động phát hiện và dẹp trừ
mầm mống mọi tình huống bất ổn và bạo loạn lật đổ, ngăn chặn mọi ý đồ can thiệp,
xâm lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch.
Trong trường hợp phải đối phó với tình huống bạo loạn lật đổ, xung đột vũ
trang, can thiệp vũ trang hoặc chiến tranh xâm lược các quy mô, phải căn cứ vào tình
hình cụ thể để có đối sách phù hợp, không để lan rộng, kéo dài, giành thắng lợi quân
sự có lợi nhất về chính trị, bảo đảm điều kiện tiếp tục phát triển đất nước sau chiến
tranh. Mục tiêu này đòi hỏi trong quá trình xây dựng đất nước phải gắn chặt với việc
đề phòng chiến tranh, nhất thiết không bị bất ngờ.
Từng bước phát triển QP-AN, hiện đại hoá quân đội gắn chặt với sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, bảo đảm duy trì được sức mạnh quân sự tương
xứng với vị thế quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Mục tiêu này phụ thuộc vào


hiệu quả của xây dựng và đấu tranh QP-AN, đặc biệt là khả năng bảo đảm ngân sách
QP-AN, khả năng thực hiện các mục tiêu kinh tế -xã hội của quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
Để đạt được mục tiêu tăng cường QP-AN, yêu cầu mới đối với sự nghiệp QPAN của đất nước là: QP-AN phải lấy việc đảm bảo hoà bình, ổn định chính trị và phát
triển kinh tế đúng định hướng xã hội chủ nghĩa làm mục đích cho mọi hoạt động QPAN; gắn chặt bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ với bảo vệ an
ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân
và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia, dân tộc. Kết
hợp chặt chẽ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh với kinh tế, phối hợp hoạt động đối
ngoại trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Vừa đấu tranh ngăn ngừa, làm
thất bại mọi âm mưu thủ đoạn chống phá, bạo loạn và xâm lược của các thế lực thù
địch, vừa tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh khắc phục các nguy cơ “nội sinh” phát
sinh trong lòng chế độ trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước vừa tranh thủ

củng cố hoà bình, giữ vững ổn định, tạo môi trường quốc tế và trong nước thuận lợi
cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vừa tranh thủ hiện đại hoá từng
bước các lực lượng vũ trang và phát triển nền công nghiệp quốc phòng. Xây dựng sức
mạnh quân sự phù hợp với yêu cầu phòng thủ quốc gia, có lực lượng quân đội thường
trực tinh nhuệ, đồng thời có lực lượng dự bị hùng mạnh trong sức mạnh chung của đất
nước.
3.4. Nhiệm vụ QP-AN
Căn cứ vào mục tiêu, yêu cầu của sự nghiệp QP-AN đất nước trong thời kỳ
mới, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải ra sức phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ chủ
yếu sau đây:
- Một là, xây dựng quân đội nhân dân và công an nhân dân vững mạnh.
Đảng ta xác định quân đội nhân dân và công an nhân dân là lực lượng nòng
cốt của sức mạnh QP-AN. Điều đó khẳng định quan điểm nhất quán của Đảng về kết
hợp chặt chẽ quốc phòng với an ninh, an ninh với quốc phòng. Nhiệm vụ xây dựng


hai lực lượng này được Đảng ta chỉ rõ: “Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an
nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có bản lĩnh chính trị
vững vàng; trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với Đảng và nhân dân; có trình độ học
vấn và chuyên môn nghiệp vụ ngày càng cao; quý trọng và hết lòng phục vụ nhân dân;
có phẩm chất, đạo đức, lối sống lành mạnh, giản dị; kế thừa và phát huy truyền thống
vẻ vang; có năng lực chỉ huy và tác chiến thắng lợi trong bất cứ tình huống nào; có
trình độ sẵn sàng chiến đấu và sức chiến đấu ngày càng cao; thường xuyên cảnh giác,
kịp thời đập tan mọi âm mưu và hành động xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc và an ninh quốc gia; ngăn chặn và đẩy lùi các tệ nạn xã hội, bảo
đảm tốt trật tự an toàn xã hội”1.
Xây dựng quân đội nhân dân và công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, là phải làm cho mọi cán bộ, chiến sĩ đều có sự thống nhất cao về mục tiêu, lý
tưởng, nhiệm vụ; thật sự tinh nhuệ về mặt chính trị, đủ sức đập tan mọi luận điệu tuyên
truyền phản động của kẻ thù nhằm thực hiện “phi chính trị hoá” quân đội và công an

của ta. Do đó, phải làm cho mọi cán bộ, chiến sĩ không ngừng nâng cao nhận thức về
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tăng cường bản chất giai cấp công nhân,
quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về bảo vệ Tổ quốc, tăng cường QP-AN, xây
dựng lực lượng, về nhiệm vụ chính trị trong thời kỳ mới, nhất là về sẵn sàng chiến đấu,
huấn luyện làm kinh tế-quốc phòng, giữ vững trật tự an ninh xã hội, phòng chống và
khắc phục hậu quả thiên tai, tham gia xây dựng cơ sở chính trị, xây dựng “thế trận
lòng dân”, góp phần xây dựng nền QPTD ngày càng vững mạnh.
Xây dựng quân đội và công an từng bước hiện đại tức là phải từng bước đổi
mới, hiện đại hoá vũ khí trang bị kỹ thuật, đồng thời nâng cao trình độ tri thức hiện đại
cho cán bộ, chiến sĩ. Quá trình ấy phải gắn liền với quá trình thực hiện sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và trên cơ sở kết quả thực hiện sự nghiệp đó.
Tranh thủ thời cơ, tập trung huấn luyện tại đơn vị theo hướng “cơ bản, thiết
thực, vững chắc”, coi trọng huấn luyện đồng bộ và chuyên sâu, sát với thực tế chiến
đấu, đối tượng tác chiến và yêu cầu nhiệm vụ, địa bàn hoạt động của từng lực lượng,


×