Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Chính sách đối ngoại Việt Nam II VIỆT NAM – ASEAN 1986 – 1995 MỞ ĐẦU THỜI KÌ HỢP TÁC HAI BÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (375.81 KB, 18 trang )

HỌC VIỆN NGOẠI GIAO VIỆT NAM
Khoa Chính trị quốc tế và Ngoại giao Việt Nam
Tiểu luận
Chính sách đối ngoại Việt Nam II
VIỆT NAM – ASEAN 1986 – 1995
MỞ ĐẦU THỜI KÌ HỢP TÁC HAI BÊN
Họ và tên: Vũ Thùy Anh (Nhóm trưởng)
Nguyễn Thị Lan Hương
Nguyễn Ngọc Trang
Lớp: CT36H
Hà Nội, ngày 15 tháng 3 năm 2011`
Mục lục
LỜI MỞ ĐẦU
Cuộc đấu tranh ngoại giao của chúng ta thời kì đổi mới đều tập trung vào
nhiệm vụ trọng điểm là phá thế bao vây cô lập, bảo vệ và giữ vững nền hòa bình
dân tộc. Tư tưởng tiến bộ của Đại hội Đảng VI, đặc biệt là Nghị quyết 13 của Bộ
Chính trị đã mở đầu cho quá trình đổi mới chính sách đối ngoại và ngoại giao, đặc
biệt là chính sách đối ngoại với các nước láng giềng và khu vực. Đó là đường lối
độc lập, tự chủ, “đa dạng hóa”, “đa phương hóa” quan hệ, mở rộng theo tinh thần
“Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì
hòa bình, độc lập và phát triển”.
Việc đổi mới mở rộng quan hệ với các nước láng giềng và khu vực, đặc
biệt là việc cải thiện đẩy mạnh quan hệ với ASEAN giai đoạn 1986 – 1995 đã đem
lại cho Việt Nam một vị thế mới trên trường quốc tế. Đến năm 1995, Việt Nam trở
thành thành viên chính thức của Hiệp hội các nước Đông Nam Á ASEAN. Việc
Việt Nam gia nhập ASEAN có phải là kết quả tất yếu xuất phát từ lợi ích hai bên?
Bài tiểu luận này sẽ nghiên cứu quan hệ Việt Nam – ASEAN trong bối cảnh tình
hình thế giới cũng như chuyển biến sâu sắc củaViệt Nam, xuất phát từ năm 1986
đến năm 1995, được coi là thời kì mở đầu cho sự phát triển hợp tác quốc tế và liên
minh khu vực của Việt Nam.
1


PHẦN I
HIỆP HỘI CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á – ASEAN
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ( Association of Southeast Asian Nations
– ASEAN ) là một tổ chức liên minh chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội của các quốc
gia trong khu vực Đông Nam Á. ASEAN được thành lập vào ngày 8/8/1967 với 5
sáng lập viên là Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Singapore và Philippines, để tỏ rõ
tình đoàn kết giữa các nước trong cùng khu vực với nhau, đồng thời chống tình
trạng bạo động và bất ổn tại những nước thành viên. Ngày 28/7/1995, Việt Nam
chính thức tham gia Hiệp hội này. Đến năm 1999, ASEAN đã kết nạp tất cả 10
quốc gia thành viên thuộc khu vực Đông Nam Á.
Hiện nay ASEAN đang thúc đẩy các chương trình hợp tác phát triển như Khu
vực tự do thương mai ASEAN ( AFTA), Khu vực đầu tư ASEAN ( AIA), Chương
trình phát triển lưu vực sông Mekong… Ngoài ra, ASEAN có quan hệ hợp tác, đối
thoại với rất nhiều nước ngoài khu vực thông qua các cơ chế đàm thoại như Diễn
đàn khu vực ASEAN ( ARF), ASEAN+3… Hầu hết các nước ASEAN đều tham
gia tích cực vào các hoạt động hợp tác khu vực khác như Diễn đàn hợp tác kinh tế
Châu Á – Thái Bình Dương ( APEC ), Hội nghị Á – Âu ( ASEM), Diễn đàn Châu
Á – Mỹ Latinh ( EALAF)…
2
PHẦN II
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM VÀ ASEAN 1986– 1995
Theo bài viết “Bàn về phân tích chính sách đối ngoại” của PGS. TS. Dương
Văn Quảng, chính sách đối ngoại là sự phản ứng của quốc gia đối với thời cuộc
nhằm bảo vệ lợi ích dân tộc. “Thời cuộc” ở đây có thể hiểu là “môi trường quốc
tế”. Chính sách đối ngoại của mọi chủ thể bao giờ cũng được xác định và chỉ có
giá trị trong một thời gian và không gian nhất định, đồng nghĩa với việc “môi
trường quốc tế” thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi của chính sách đối ngoại.
I. Đổi mới tư duy đối ngoại Việt Nam – ASEAN 1986 - 1991
1. Bối cảnh lịch sử
1.1. Thế giới:

Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ phát triển nhanh chóng đã tác động
mạnh mẽ đến chiến lược phát triển của các quốc gia, nhịp độ phát triển của lịch sử
và con người. Lực lượng sản xuất phát triển nhanh, thúc đẩy quá trình toàn cầu
hóa, khu vực hóa. Các quốc gia giờ đây phải điều chỉnh lại chính sách, giảm chạy
đua vũ trang, chi phí phục vụ cho quốc phòng và quân sự. Trong giai đoạn này,
trọng tâm trong chiến lược phát triển của các quốc gia là củng cố bộ máy nội bộ,
tập trung tiềm lực phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật và đẩy mạnh cải thiện quan
hệ quốc tế để khẳng định vị thế của quốc gia. Xu thế chung trong quan hệ quốc tế
thời kì này là “đối thoại và hòa dịu”. Quốc gia nào sớm thích ứng sự thay đổi thời
cuộc này sẽ nhanh chóng phát triển, còn nếu trì trệ, cố chấp theo lối suy nghĩ cũ sẽ
chỉ làm quốc gia dậm chân tại chỗ, hoặc thậm chí có những bước thụt lùi so với tốc
độ phát triển chung của thế giới.
3
I.2. Khu vực Đông Nam Á
Sau nhiều đợt rút quân của Việt Nam ra khỏi Campuchia, từ nửa sau những
năm 80, vấn đề Campuchia đã bớt căng thẳng hơn trong quan hệ quốc tế. Các nước
ASEAN cũng mong muốn tìm một giải pháp thương lượng để giải quyết vấn đề
Campuchia cho tình hình khu vực được ổn định. Các quốc gia đã bắt đầu tiến hành
điều chỉnh chính sách của mình theo hướng giảm đối đầu sang đối thoại, từng bước
giải quyết vấn đề Campuchia, tiến đến xây dựng một khu vực Đông Nam Á hòa
bình, ổn định, hợp tác cùng phát triển. Các cường quốc Mĩ, Liên Xô, Trung Quốc
cũng dần dần có những biến chuyển mới trong chính sách về vấn đề Campuchia.
(*) Đánh giá :
Trong giai đoạn 1986 – 1991, các quốc gia đều nhận thức được sự biến
chuyển mạnh mẽ của thế giới và ảnh hưởng của nó đến lợi ích của quốc gia mình.
Vì vậy vấn đề cần phải thay đổi toàn diện chính sách của mình từ kinh tế, khoa học
kỹ thuật đến chính sách đối ngoại là hết sức cần thiết. Trong công cuộc đổi mới đất
nước, nhân tố quốc tế - thời đại đóng vai trò quan trọng. Các quốc gia đưa vấn đề
đẩy mạnh tăng cường quan hệ quốc tế với các nước láng giềng và khu vực lên hàng
đầu trong chính sách phát triển đất nước. Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật

phát triển chung của thế giới. Sự nghiệp đổi mới do Đảng lãnh đạo và khởi xướng
trong Đại hội Đảng lần thứ VI ( tháng 12/1986) đã thu được nhiều thành tựu có ý
nghĩa lịch sử. “Đây là công cuộc đổi mới toàn diện đất nước từ kinh tế - xã hội đến
chính trị và cả trong tư duy đối ngoại.” ( “Về vấn đề đổi mới tư duy trong hoạt động đối
ngoại của Việt Nam” – Vũ Dương Huân).
Thực chất trở ngại giữa quan hệ Việt Nam – ASEAN trong giai đoạn trước
khi đổi mới tư duy là do những nghi ngại, hiểu lầm về đe dọa an ninh, không phải
vấn đề về chế độ chính trị và ý thức hệ. Hơn nữa, giữa các nước trong khu vực
Đông Nam Á còn có những điểm gần gũi về lịch sử, địa lý cũng như văn hóa xã
hội, và cùng hướng về một mục tiêu chung là làm cho Đông Nam Á sớm trở thành
4
một khu vực hòa bình, ổn định và hợp tác phát triển. Chính vì thế mà ASEAN đã là
những nước đầu tiên đi vào cải thiện quan hệ với Việt Nam ngay từ năm 1990 khi
Việt Nam rút hết quân khỏi Campuchia và vấn đề Campuchia có giải pháp.
2. Đổi mới tư duy đối ngoại Việt Nam – ASEAN 1986-1991
Đại hội Đảng VI tháng 12/1986, dựa trên phân tích tình hình thế giới, khu
vực và thực trạng đất nước, cùng với đổi mới tư duy về kinh tế, Đảng và Nhà nước
ta đã từng bước đổi mới tư duy về đối ngoại. Trước hết là ta đã tiến hành đổi mới
công tác nghiên cứu, phân tích, đánh giá những chuyển biến của tình hình thế giới
và quan hệ quốc tế. Đồng thời tư duy về các cặp quan hệ như giữa lợi ích quốc gia
và nghĩa vụ quốc tế, giữa an ninh và phát triển, giữa hợp tác và đấu tranh cũng đã
thay đổi. Nói cho cùng đổi mới tư duy đối ngoại bao gồm đổi mới tư duy cho kịp
với những phát triển nhanh chóng của tình hình thế giới và việc kết hợp sức mạnh
của thời đại trong điều kiện mới của tình hình thế giới.
Với chủ đề “giữ vững hòa bình phát triển kinh tế”, Nghị quyết 13 nhấn mạnh
nhiệm vụ ngoại giao là phục vụ ổn định chính trị, ưu tiên phát triển kinh tế là hàng
đầu, đồng thời bảo vệ Tổ quốc. Nghị quyết cũng đưa ra các chủ trương cụ thể để
thực hiện việc chuyển hướng đối ngoại, trong đó việc sắp xếp các đối tượng quan
hệ có một vai trò quan trọng, đặc biệt là góp phần giải quyết vấn đề Campuchia,
cải thiện quan hệ với các nước ASEAN.

Về vấn đề Campuchia, Nghị quyết 13 nêu rõ: “Chính phủ ta chủ trương tiếp
tục rút quân tình nguyện Việt Nam khỏi Campuchia, đồng thời sẵn sàng hợp tác
với tất cả các bên để đi tới giải pháp chính trị đúng đắn về Campuchia”. Trước đó
tại hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ba nước ngày 16/8/1985 chúng ta tuyên bố quân
tình nguyện Việt Nam sẽ tiếp tục rút dần hàng năm và sẽ rút hết vào đầu năm 1990.
Trên thực tế, Việt Nam đã rút hết quân khỏi Campuchia ngày 26/9/1989 trước thời
hạn đưa ra. Việc này đã làm thay đổi tính chất của vấn đề Campuchia, đồng thời
5

×