Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Cái đẹp trong tư tưởng các nhà mỹ học Hy Lạp cổ đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.75 KB, 7 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Cái đẹp trong tư tưởng các nhà mỹ học Hy Lạp cổ đại
I. Lý do chọn đề tài
Từ hàng nghìn năm nay con người không ngừng tìm kiếm câu trả
lời: cái đẹp là gì? Đây là một vấn đề nan giải, khó trả lời. Vì vậy không
mấy ai có thể đưa ra định nghĩa về cái đẹp một cách hoàn chỉnh và khoa
học. Lịch sử Mĩ học đã cho ta thấy nhiều quan niệm về cái đẹp qua các
thời kỳ khác nhau. Mỗi thời kì đều để lại dấu ấn riêng”. Trong đó các nhà
triết học - mỹ học Hy Lạp cổ đại có nhiều quan niệm đặc sắc và đặt nền
móng cho những quan niệm mỹ học sau này. Nhất là trong quan niệm về
cái đẹp - Họ luôn đấu tranh, tòm tòi xem: cái đẹp là gì? đặc tính của nó ra
sao?… Tiêu biểu trong số họ là: Dê Mô Crit, Platon, Arixtốt… Có thể nói
họ là “bậc thầy của nhân laoị”, không chỉ trong lĩnh vực triết học cũng
như mỹ học. Nhưng quan niệm, những cuộc tranh luận của Platon và
Arixtôt về cái đẹp: Hãy ngắm nhiều bức tranh tường Aten của danh họa
Raphaen.
Khi Platon chỉ tay lên trời và nói: Chỉ có cái đẹp tồn tại trên thiên
đàng. Thì Arixtốt đưa tay ra phía trước và nói cái đẹp luôn tồn tại khắp
nơi, trên mặt đất này. Chính sự vĩ đại của những nhà triết học Mỹ học Hy
Lạp cổ đại. Đồng thời được sự góp ý của cô giáo, thạc sĩ Đỗ Thị Minh
thảo nên tôi quyết định chọn tên đề tài của mình là “Cái đẹp trong tư
tưởng các nhà mỹ học Hy Lạp cổ đại”.
II. Định nghĩa về cái đẹp
- Để có được sự nhìn nhận, đánh giá, cũng như trình bày các quan
niệm về cái đẹp trong lịch sử. Ta phải hiểu: cái đẹp là gì?
Theo Mác: Súc vật chỉ nhào nặn vật chất theo trước đó và nhu cầu
giống loài nó. Còn con người thì có thể áp dụng thước đo thích dụng cho
mọi đối tượng, do đó con người cũng nhào nặn vật chất theo quy luật cái
đẹp (C. Mác - Ăngghen tuyển tập T1, Nxb Sự Thật, Hà nội 1980, tr.119).
Vậy theo Mác cái đẹp gắn với bản chất sáng tạo của con người, gắn
với quá trình hoàn thiện, hoàn mỹ của con người, gắn với sự tự sản sinh ra


chính con người.
Và trong cuốn Mĩ học đại cương của Lưỡng quốc tiến sĩ Đỗ Văn
Khang cũng đã phân tích và đưa ra định nghĩa về cái đẹp: “cái đẹp là một
phạm trù cơ bản và trung tâm của mỹ học - Dùng để chỉ thực tại thẩm mỹ
khách quan. Thực tại này chúng ta biết được nhờ hệ thống cảm nhận phổ
biến có tính xã hội sâu sắc dưới ánh sáng của lý tưởng thẩm mỹ chân
chính, hệ thống cảm nhận thẩm mỹ phản ánh thực tại cái đẹp. Đặc trưng
ngôn ngữ của sự phản ánh đó là hình tượng. Thành tựu cao nhất của sự
phản ánh đó là nghệ thuật. Cái đẹp bắt nguồn từ cái chân thật, và cái tốt,
nó tảo chiếu bằng những rung động thẩm mỹ có sức cuốn hút, giúp cho
con người định hướng.
Theo luận hoàn thiện, hoàn mỹ - tác động cua cái đẹp là tác động có
tính thanh cao, hai hòa biện chứng ở tự thân bên trong tâm hồn con người,
bên trong xã hội loài người” (mĩ học đại cương - Đỗ Văn Ky/52).
Đây là những định nghĩa được đánh giá là Khoa học và có hệ thống
về cái đẹp, là trước đó để cho chúng ta đánh giá những điểm tích cực và
hạn chế của những nhà triết học Mỹ học Hy Lạp cổ đại.
III. Quan niệm về cái đẹp của các nhà mỹ học Hy lạp cổ đại
1. Điều kiện cho sự ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại
1.1. Điều kiện địa lý và dân cư
+ Điều kiện địa lý: Hy Lạp cổ đại bao gồm miền Nam bán đáo Ban
Căng, vùng ven biển tiểu Á, và các đảo vùng biển E-giê. Đất đai ở đây
thuận lợi cho phát triền thủ nông nghiệp, thí nghiệp, giao lưu buôn bán
với các nước xung quanh. Từ thế kỉ IX đến thế kỉ VI trước công nguyên,
lãnh thổ Hy Lạp cổ đại còn được mở rộng xuống vùng Nam nước Ý, đảo
Sicily và vùng biển đen.
2
+ Dân cư: Nước Hylạp gồm 4 tộc người cổ: người Đôriên định cư ở
Pêtôpôlêdơ, đảo Cret. Người Iôniên định cư ở phía Bắc Hylạp, người
Arêen định cư ở Miền trung Hy Lạp. Người Êôliên định cư ở Bắc Hy Lạp.

1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Lịch sử Hy Lạp bao gồm các thời kỳ:
- Thời kỳ văn hóa Cretmixen. Kéo dài từ thế kỷ thứ III đến thiên
niên kỷ thứ II (BC). Là giai goạn thống trị của người Arêen.
- Thời kì văn hóa Hôme từ thế kỉ XV đến thế kỷ IX BC. Kinh tế vẫn
chủ yếu là nông nghiệp. Thủ công nghiệp vẫn chưa phát triền.
Về xã hội: Đây là thời kỳ thống trị của người Iôniên, là giai đoạn
cuối của xã hội nguyên thủy. Xã hội có sự phân hóa giàu nghèo có nô lệ.
- Đến thời kỳ thành bang đã xuất hiện giai cấp và nhà nước. Thời kỳ
này chế độ chiếm hữu nô lệ đã được hình thành.
- Thời kỳ Hy Lạp hóa (334BC-30BC) là thời kỳ đầy biến động của
xã hội Hy Lạp. Bởi sự xâm chiếm Makôđô nhia.
Văn hóa Hy Lạp thời kỳ này có nhiều ảnh hưởng đến các nước xung
quanh.
- Điều kiện cho xuất hiện triết học
+ Kinh tế: Người Hy Lạp đã tạo ra được những công cụ lao động
bằng kim loại. Sự phát triền của nông nghiệp đã thúc đẩy thủ công nghiệp
tách khỏi nông nghiệp. Kèm theo đó là sự phát triền của thương nghiệp.
+ Về xã hội:
- Thời kì này đã xuất hiện nhà nước cùng chế độ tư hữu, đồng thời
diễn ra sự phân hóa giai cấp sâu sắc, xuất hiện các tầng lớp quý tộc chủ
nô bình dân, nô lệ.
1.3. Sự phát triền của Trường Đại học Khoa học Tự nhiên
Đã xuất hiện những tri thức khoa học tự nhiên mặc dù còn rất sơ
khai, xuất hiện các nhà toán học: Talet, Pitago, Ơcơlit, v.v…, các nhà vật
lý học như Aximet.
3
2. Đặc điểm của triết học Hy Lạp
Triết học thời kỳ này nhằm trả lời cho câu hỏi: Quan hệ giữa tồn tại
và tư duy, vật chất và ý thức.

Triết học Hy Lạp cổ đại chia làm hai phe lớn là: Chủ nghĩa duy vật
và Chủ nghĩa duy tâm. Bên cạnh hai phe lớn trên còn có các trường phái
và học phái khác được sinh ra từ hai phái trên và có sự giao động giữa
chúng. Phần lớn các nhà triết học đều khẳng định con người có khả năng
nhận thức về thế giới nhưng trong đó các nhà triết học duy vật và duy tâm
lại trả lời khác nhau về nguyên tắc: các nhà duy vật cho rằng nhận thức
của con người phản ánh hiện thực cho nên nội dung nhận thức do hiện
thức khách quan qui định. Còn các nhà triết học duy tâm cho rằng nhận
thức của con người là do chính bản thân nhận thức, nhận thức về chính
tinh thần. Bên cạnh đó còn có các nhà triết học phủ nhận khả năng nhận
thức của con người họ là những nhà bấ khả tri.
3. Sự biểu hiện cái đẹp trong nghệ thuật Hy Lạp cổ đại
Hiện tượng thẩm mỹ điển hình nhất của Hy Lạp thời kì từ chế độ
công xã nguyên thủy tiến lên chế độ chiếm hữu nô lệ là hiện tượng sáng
tạo ra những pho thần thoại phong phú và sinh động.
Cái đẹp trong thần thoại Hy Lạp là cái đẹp đẽ được chắp canh bởi
trí tưởng tượng phóng túng và ước mơ tràn đầy tình yêu cuộc sống. Từ
một cơ sở thẩm mỹ, nghĩa là từ một sự chung đúc quan niệm về cái đẹp và
lý tưởng thẩm mỹ, một phương pháp sáng tác văn học cổ nhất đã ra đời:
Phương pháp thần thoại - Thơ ca. Đây là phương pháp sáng tác chung cho
cả thời kỳ Cổ đại của Hy Lạp có bao quát cả thần thoại lẫn các anh hùng
ca như Hiat, Ôđixê của Home, các tác phẩm như Thần phố của Hê-đi-ốt,
cho đến cả những Bi kịch của Étsilơ, Xôphôcơlơ Ôripiđơ. Bởi vì, sự tái
hiện hiện thực trong văn học Hy Lạp cổ đại đều bị chi phối bởi thế giới
quan và thần linh và tư duy pha tạp. Phương pháp sáng tác cổ đại đã bao
hàm trong nó nguyên tắc tái hiện hiện thực, sự miêu tả tính cách, cách xây
dựng các nhân vật điển hình. Tất cả đều thông qua trí tưởng tượng phóng
4
túng có khi đến huyền ảo mà vẫn mang những mầm mống của tư duy khoa
học, những hình ảnh chân thực về đời sống.

Thần thoại Hy Lạp thường vận đụng khái niệm đẹp để nhận thức tự
nhiên, đồng thời cũng để biểu hiện ước vọng chinh phục tự nhiên của con
người.
Về mặt quan hệ với tự nhiên, người Hy Lạp cổ đại thấy rõ cái đẹp
nảy sinh từ sức sáng tạo và sự vận động của muôn vật. Họ cho rằng từ cõi
hỗn mang, trời đất mới dần dần xuất hiện và đem lại ánh sáng cho cái đẹp.
Đầu tiên là Gaia, nữ thần ra đời với “bộ ngực rộng, chỗ tựa vĩnh viễn
không thể lay chuyển của muôn loài”. Vì thế, sau Gaia đã nảy sinh thần ái
tình, đó là “vị thần bất tử đẹp nhấ, nhập vào các thần linh và loài người,
chinh phục mọi con tim và thẳng những lời khuyên sáng suôtí” đó chính
là sức mạnh lôi cuốn muôn vật kết hợp với nhau tạo nên sự sống.
Đẹp cũng là cuộc sống đầy đủ, đầy cảnh sắc trên đỉnh Olanhpơ. Ở
đó cái buồn chỉ thoáng qua và niềm vui là bất tận, thần Dớt sống trong
cung điện bằng vàng và ngồi trên ngai đẹp bằng ngà nạm vàng. Bên Dớt
là vợ, nữ thần Hêra có sắc đẹp uy nghi. Những bữa tiệc linh đình diễn ra ở
đó. “Ganimét rót rượu và dọn các thức ăn thần. Các nữ thần văn nghệ
nhảy múa, ca hát. Nhiều lúc các thần cũng nhập điệu vũ vòng tròn tươi
vui. Trong số này người ta dễ nhận ra các nữ thần Athêna, Áchúng tôiêmít
xinh đẹp, tươi trẻ muôn đời, và thần Apôlông gảy cây đàn xila dây vàng,
điều khiển cuộc vui thần tiên.
Đẹp là hình dáng của những vị thần và những con người cụ thể với
thân hình và vẻ đẹp mặt trác tuyệt. Apôlông là vị thần có cái vẻ đẹp ấy,
chàng hào hoa, phong nhã, nhiều tài nghệ mà anh hùng, đó chính là vẻ
đẹp lý tưởng của người Hy Lạp cổ đại. Còn Athêna, Aphơrôđitơ. Hêlen
v.v… đều là những nữ thần và người nữ đẹp. Vẻ đẹp của phụ nữ trong
thần thoại Hy Lạp có quan hệ với cái duyên dáng, cái xinh xắn, sức hấp
dẫn của hình thể, nét mặt và tâm hồn đẹp. Nhưng qua thần thoại, người
Hy Lạp quan hệ đường nét đẹp của cơ thể con người là cái đặc điểm cần
5

×