Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tìm về cội nguồn vẻ đẹp truyền thống của phụ nữ Việt Nam
1. Lời mở đầu
Có thể nói cái đẹp là hình thức khái quát của tư duy con người. Nó là sự
tổng hoà của nhiều phẩm chất, nhiều yếu tố hoà quyện với nhau tạo nên cái trác
tuyệt tổng thể. Ở đâu đó có con người, có sự sống thì ở đó có cái đẹp. Nó là sự
ngưỡng vọng và khám phá của muôn đời:
"Anh
Lớn khôn
dưới bầu vú mẹ...
Và
dại khờ
Trước
vòm
ngực
của
em".
(Romance - Thế Hùng).
Có lẽ chính vì vậy mà chúng ta không ngạc nhiên khi cái đẹp là phạm trù
quan trọng nhất trong hệ thống khách thể thẩm mỹ (cái đẹp, cái bi, cái hài, cái
trác tuyệt) nói riêng và là phạm trù cơ bản, trung tâm của mỹ học nói chung.
Theo quan điểm duy vật biện chứng cái đẹp bắt nguồn từ hiện thực cuộc
sống. Nó tồn tại khách quan vừa mang tính thời sự lại vừa mang tính muôn thuở.
Nó gắn liền với sự biến động và phát triển của xã hội loài người. Nó biểu hiến
sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, theo quy luật tất yếu của lịch sử bao giờ cái
mới cũng chiến thắng. Thế nhưng “cốt lõi của toàn bộ cái đẹp là chân lý, bất cứ
cái đẹp nào cũng dẫn tới chân lý và điều kiện “(Henden), do đó sự vươn tới lý
tưởng thẩm mỹ của nó thì luôn tồn tại vĩnh hằng. Nó tiềm ẩn trong đời sống con
người và được biểu hiện qua văn hoá ứng xử, cái đẹp của tâm hồn, đạo đức, trí
tuệ, tư tưởng. Nó giúp con người ngày càng hoàn thiện hơn . Còn “bản chất của
con người là sáng tạo theo quy luật của cái đẹp” (Mác). Mối quan hệ biện chứng
âý sẽ theo suốt cuộc đời con người từ khi sinh ra đến khi từ giã cõi đời.
Khác với cái đẹp trong tự nhiên, cái đẹp thô nhám, không chọn lọc và rời
rạc, cái đẹp trong xã hội loài người là cái đẹp do con người tạo ra, nó được biểu
hiện trong tất cả các mặt của đời sống xã hội. Nó biểu hiển thông qua nét đẹp
của văn hoá ứng xử, qua cách đối nhân xử thế giữa con người với con người,
con người với thế giới xung quanh (văn là đẹp hoá là giáo hoá - lấy cái đẹp để
giá hoá con người).
Văn hoá ứng xử là sự thể hiện triết lý sống, các lối sống, lối suy nghĩ, lối
hành động của một cộng đồng người trong việc ứng xử và giải quyết những mối
quan hệ giữa con người với tự nhiên, với xã hội từ vi mô (gia đình) đến vĩ mô
(xã hội, nhân gian). Chính vì thế mà mỗi con người _ chủ thể trong xã hội phải
phấn đấu trở thành một con người phát triển toàn diện, hài hoà giữa vẻ đẹp nội
dung và hình thức, giữa vẻ đẹp bên ngoài và bên trong góp phần xây dựng một
xã hội văn minh, tốt đẹp.
Nói khác đi, ứng xử là những lề lối hành động hay những lề lối suy nghĩ
và cảm thụ thích đáng của mỗi vai trò xã hội trước một tình huống. Những hệ
ứng xử được lặp đi lặp lại thành nếp, được kết cấu với nhau trong hệ thống lớn
hơn mang tính văn hoá ứng xử, được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác
có tiếp thu, gạn lọc, bổ sung và phát triển. Văn hóa ứng xử vì vậy mang tính
truyền thống như một dòng chảy không đứt đoạn. Người Việt cũng như các dân
tộc khác do đó có truyền thống ứng xử mang sắc thái riêng và đặc trưng riêng
mà không bất cứ một dân tộc nào có được. Đó là niềm tự hào chính đáng của
người Việt. Một điều đặc biệt hơn nữa tính chất và sự biểu hiện của văn hoá ứng
xử của người Việt lại được tập trung đầy đủ và sinh động nhất qua hình ảnh
người phụ nữ - những con người mang trong mình đặc trưng vốn có của người
Việt, văn hoá Việt trong suốt lịch sử hình thành và phát triển đất nước:
“Em là người đàn bà cho anh bài thơ hay nhất
Anh vắt cạn đời mình yêu em chân thật
Nên trong thơ có máu của mình
2
Có hoàng hôn và có cả bình minh
Em là người đàn bà yêu anh nhiều nhất
Trên những nhỏ nhen
toan tính thấp hèn ...”
(Mãi đến tận cùng –Thế Hùng )
Chúng ta hoàn toàn mạnh dạn nói rằng muốn tìm hiểu về vẻ đẹp của dân
tộc Việt Nam thì không thể không tìm về cội nguồn vẻ đẹp truyền thống của
những người phụ nữ đã góp phần không nhỏ làm nên vẻ đẹp ấy.
Tuy nhiên cấu trúc của quan hệ xã hội cổ truyền cũng như văn hoá Việt
Nam thường được thể hiện sơ giản bởi mối quan hệ nhà - làng – nước. Do đó
khi xét địa vị, vị thế cũng như văn hoá ứng xử của người phụ nữ trong xã hội cổ
truyền thì cũng phải đặt họ (vừa với tư cách là chủ thể, vừa với tư cách là đối
tượng) trong các mối quan hệ ứng xử vơi gia đình, gia tộc, láng giềng, cộng
đồng và quốc gia, dân tộc. Chính vì vậy vị thế của người phự nữ Việt trong xã
hội, trong gia đình luôn bộc lộ sư đa dạng, phức tạp trong bản thân nó. Điều này
đã được lịch sử hàng nghìn năm nay minh chứng, ghi nhận, phản ánh trung thực
trong văn hoá truyền thống, văn hoá dân gian và văn hoá hiện đại trong các
phương diện vật chất, tinh thần và tâm linh. Bởi thế tìm về cội nguồn vẻ đẹp
truyền thống của phụ nữ Việt Nam cũng chính là con đương đưa chúng ta tìm về
cội nguồn giá trị chân – thiện – mỹ của dân tộc Việt Nam.
2. Nội dung
2.1. Nhân dân ta có truyền thống tôn trọng phụ nữ
Từ buổi bình minh của lịch sử và trong giai đoạn của xã hội nguyên thuỷ
dân tộc nào cũng trải qua một thời kỳ mẫu hệ và chế độ mẫu quyền. Trong đó
phự nữ làm chủ gia đình, dòng họ; phụ nữ có vai trò lớn lao trong sinh hoạt kinh
tế, trong đời sống xã hội cũng như trong đời sống văn hoá tinh thần.
Đặc điểm nổi bật của Việt Nam là một nước có nền văn minh nông nghiệp
lúa nước lâu đời. Do đó trong văn hóa ứng xử con người ưa tổ chức theo nguyên
tắc trọng tình. Lối sống trọng tình cảm tất yếu dẫn đến thái độ trọng đức, trọng
3
văn và trọng phụ nữ. Chính vì vậy nhiều nhà nghiên cứu phương Tây khi tìm
hiểu về văn hoá phương Đông cho rằng không phải ngẫu nhiên mà vùng nông
nghiệp Đông Nam Á gọi là xứ mẫu hệ. Cùng dòng chảy đó dù mức độ hay tính
chất khác nhau, trong truyền thống sinh hoạt và truyền thống văn hóa Việt tinh
thần cọi trọng ngôi nhà - coi trọng cái bếp – coi trọng người phụ nữ là hoàn
toàn nhất quán và rõ nét: "Phúc đức tại mẫu”, “con dại cái mang”, “vợ cái con
cổn”, “xảy cha ăn cơm với cá, xảy mẹ liếm lá đầu đường”, “ruộng sâu trâu nái
không bằng con gái đầu lòng”, “lệnh ông không bằng cồng bà”... hay thậm chí:
“Em gánh trên vai số phận của tôi
Khúc còn lại một thời mất mát
Trọn một đêm
Tôi viết xong khúc hát
Sáng nay
chắc đã cũ rồi ...”
(Lời ru buồn – Thế Hùng ).
Nhìn từ góc độ xã hội, cộng đồng, gia đình hay cá nhân có thể thấy âm
hưởng chung là đã thừa nhận, khẳng định vai trò, vị thế người phụ nữ là nhiệm
vụ trọng tâm, đồng đẳng trong các mối quan hệ xã hội.
Nguợc lại quan hệ xã hội trong một gia đình, nhất là quan hệ với làng xã,
họ hàng phần lớn do người phụ nữ tạo nên, nam giới chỉ là đại diện ở bên ngoài.
Người đàn ông trong tâm thức làng xã lo nhất là lấy phải người vợ lăng loàn,
ứng xử kém: “Chó dữ thì mất láng giềng. Dâu dữ thì mất họ hàng”. Một người
phụ nữ khi lấy chồng là gánh vác cả giang sơn nhà chồng. Gia đình người chồng
có được họ hàng kính nể, yêu thương hay không là do bà vợ quyết định. Đặc
biệt nếu ai quan tâm đến tin ngưỡng Việt Nam thì sẽ thấy thiên đình đạo giáo
Việt Nam do nữ giới làm chủ. Trong đời sống tâm linh người Việt tục thờ mẫu
đã trở thành một tín ngưỡng của con người với tự nhiên, lịch sử xã hội, con
người. Đó là Mẫu Thượng Thiên (Bà trời – cai trị thiên phủ), Mẫu Thượng Ngàn
(Thần cai trị núi rừng), Mẫu Thoải (Thần cai trị thuỷ phủ) Thánh Mẫu Liễu
Hạnh và hệ thống các nữ thần khác. Từ đó xuất hiện Mẹ lúa, Mẹ đất, Mẹ Âu Cơ
4
của người Việt ... có thể nói tìm hiểu bất cứ loại hình cụ thể nào của văn hoá
truyền thống Việt Nam ta cũng gặp hình ảnh người phụ nữ với tất cả những gì
phong phú đa dạng mà họ vốn có, sống động và đầy cuốn hút. Họ, đời sống văn
hoá của họ, văn hoá ứng xử của họ trở thành đề tài trung tâm của không ít loại
hình nghệ thuật Việt Nam. Điều này lý giải phần nào lý do vì sao trong đời sống
sinh hoạt người Việt các đồ dùng đều được gọi bắt đầu bằng từ “cái”: Cái ghế,
cái chày, cái trống, cái bát ...
Truyền thuyết kể rằng mẹ Âu Cơ chính là người sinh ra dân tộc Việt Nam
– con Lạc cháu Hồng. Bọc trứng nở ra trăm con là kết quả của mối tình thắm
thiết giữa Mẹ và Lạc Long Quân đã trở thành biểu tượng cho tình đoàn kết đồng
bào thuở khai sơn phá thạch. Mẹ Âu Cơ đem 50 con lên núi, cha Lạc Long Quân
đem 50 con xuống biển để tạo ra đại gia đình các dân tộc Việt Nam phong phú
và đa dạng như ngày nay.
Những thế hệ nhà Hùng cha truyền con nối làm thủ lĩnh tối cao đã chuyển
dần xã hội Việt Nam thời cổ từ mẫu hệ sang phụ quyền. Đây là mốc đánh dấu
xuất hiện sự đối kháng giữa đàn ông và đàn bà, sự đối kháng này đã phần nào
phản ánh sự đối kháng giai cấp. Mặc dù vậy chế độ phụ quyền không phải bất
cứ ở đâu và lúc nào cũng đều mang hình thức cổ điển, hà khắc như ở Hy Lạp.
Thời cổ nói chung và xã hội Việt Nam cổ truyền nói riêng khi chuyển từ mẫu hệ
sang phụ quyền dưới một hình thức “êm dịu” hơn. Bước vào xã hội văn minh,
phụ nữ ở góc độ nào đó vẫn được coi trọng và có ảnh hưởng ngay cả tới việc
công. Nhắc đến truyện “Chử Đồng Tử” chắc không ai là khôngbiết đến nàng
công chúa Tiên Dung. Mặc cho Vua Hùng nổi giận lôi đình nàng vẫn chủ động
gá nghĩa cùng chàng trai nghèo họ Chử gặp trên bãi Màn Trò, không nơi nương
tựa, không mảnh vải che thân. Hay truyện “Trầu cau” kể rằng nhà họ Lưu có
người con gái thấy hai anh em Tân và Lang nhà nọ đêm lòng yêu mến và muốn
kết làm chồng. Để chọn một trong hai nàng đã bày ra cách thử (so đũa đẻ trên
mâm cơm) xem ai là anh, ai là em rồi xin cha mẹ cho làm vợ người anh. Dù gì
thì trên chặng đường chuyển hoá từ mẫu hệ sang phụ hệ dưới thời Hùng và mãi
về sau này nữa xã hội Việt Nam cổ truyền đã thừa hưởng và bảo lưu một truyền
5
thống vững chắc và tốt đẹp. Vì thế cho dù sử hay là truyện thì tất cả đều phản
ánh vai trò chủ động của người phụ nữ Việt Nam trong hôn nhân thời cổ.
Nhân dân ta đã phải sống hàng ngàn năm dưới ách thống trị của phong
kiến phương Bắc (179 TCN – 938 SCN) và phong kiến trong nước với hệ tư
tưởng chủ yếu là Nho giáo đã thắt chắt sợi dây oan nghiệt đối với người phụ nữ
khiến thân phận và địa vị của họ một thời bị coi rẻ. Thuyết “Tam cương”, đạo
“Tam tòng”, “Tứ đức”, “trọng nam khinh nữ”, “nhất nam viết hữu, thập nữ viết
vô” (một trai là có, mười gái vẫn bằng không), “nam nữ thụ thụ bất thân” hay
việc bán vợ, đợ con, tệ cưỡng hôn (cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy), chế độ đa thê,
chực tiết ... tất cả chỉ nhấn mạnh “đạo cha con” – một trong ba “rường mối” của
chế độ phong kiến. Luân lý phong kiến buộc người phụ nữ phải giữ đạo “Tam
tòng” (ở nhà theo cha, lấy chồng theo chồng, chồng chết phải theo con trai) hay
bắt họ phải trau dồi “Tứ đức”(công, dung, ngôn, hạnh) để phục vụ chồng con và
gia đình nhà chồng. Đạo Khổng có câu: “ Duy nữ tử tiểu nhân vi nam dưỡng dã.
Cận chi tắc bất tốn, viết chi tắc oán" (chỉ có đàn bà và tiểu nhân là khó đối xử.
Nếu gần họ thì xấc xược, nếu xa họ thì họ oán – Dương Hổ dịch). Chính những
tư tưởng ấy đã một thời khiến những người phụ nữ Việt Nam không thoát khỏi
cảnh cá chậu chim lồng, làm tôi làm tớ. Nói như vậy cũng có nghĩa tất cả những
điều ấy rốt cuộc cũng chỉ là Nho giáo Trung Hoa còn bản lĩnh của nhân dân lao
động Việt Nam, đạo lí dân gian Việt Nam, sự ổn định trong các gia đình Việt
Nam truyền thống đã giúp người Việt Nam duy trì một nền văn hoá tốt đẹp ngay
trong ngheo khổ, “trai mà tri, gái mà tri; sinh ra có ngãi có nghì thì thôi”. Nhân
dân ta vừa kính cha vừa ơn mẹ “chữ hiếu hai vai”. Trong đó người mẹ có tầm
quyết định đối với sự phát triển của các con về nhiều mặt (thể chất, tình cảm,
đạo lí làm người ...): “Đức hiền tại mẫu”, “cha sinh chẳng tày mẹ dưỡng”, “tinh
cha huyết mẹ”... .Hay trong các thành ngữ, khái niệm tiếng Việt phản ánh sự gắn
bó giữa hai người thì yếu tố đứng trước phải là bậc trên: Cha con, ông cháu, anh
em, cậu mợ ... nhưng vợ chồng thì yếu tố “vợ” lại đứng trước. Đây không đơn
thuần là vấn đề hình thức mà tiếng Việt phản ánh tâm hồn, tính cách người Việt.
Và người Việt Nam hoàn toàn có quyền tự hào về truyền thống tôn trọng phụ nữ
6
của dân tộc mình. Đó chính là bản lĩnh dân tộc, cái đã tạo nên bản sắc văn hoá
mà hàng nghìn đời nay nó đã đứng vững trước biết bao sóng gió bạo tàn của gót
giầy quân xâm lược. Càng trong những hoàn cảnh khó khăn, cực khổ thì phụ nữ
Việt Nam càng kiên cường đứng lên đấu tranh và liên tục đấu tranh qua các thời
đại để giữ địa vị và vai trò của mình trong đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội,
trong sự nghiệp đánh giặc cứu nước, đẩy mạnh sự phát triển của dân tộc ta, xã
hội ta ngày càng lên cao.
2.2. Phụ nữ Việt Nam "Anh hùng bất khuất trung hậu đảm đang"
2.2.1. Phụ nữ với trách nhiệm với tổ quốc
Trên thế giới nước nào mà chẳng có những người anh hùng, nhưng một
đất nước toàn nữ anh hùng thì chỉ có ở Việt Nam. Hạnh phúc của những người
phụ nữ ấy không phải chỉ là lắm tiền của, có địa vị cao sang, cuộc sống yên ổn,
có người chồng thuỷ chung, những đứa con ngoan, trung hiếu làm rạng rỡ gia
phong, sống trong tình yêu thương của làng xóm. Mọi khó khăn trong cuộc sống
không làm họ lùi bước trước việc “ghé vai gánh vác sơn hà”, đóng vai trò trụ cột
cứu nước. Họ thấm nhuần hơn ai hết chân lý “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”.
Lịch sử hào hùng của dân tộc ta hàng nghìn đời nay không thể không ghi nhớ
những trang chói ngời chiến công của họ. Họ là những người mở đường cho
cuộc chiến tranh đòi lại quyền lực và vị thế của mình trong xã hội: Họ là Hai Bà
Trưng (thế kỷ I), Lê Chân (thế kỷ I), Bà Triệu (thế kỷ III), Dương Thị Như Ngọc
(vợ Ngô Quyền, thế kỷ X), Nguyên Phi Ỷ Lan (vợ Lê Thánh Tông, thế kỷ XI),
Trần Thị Dung (vợ Trần Thủ Độ, thế kỷ XIII), Đào Thị Huệ (thế kỷ XV), Bùi
Thị Xuân (thế kỷ XVIII).
Đến cả sau này khi đất nước ta phải đương đầu với hai tên trùm đầu sỏ đế
quốc của thế giới là Pháp và Mỹ thì tinh thần ấy không những không mất đi mà
nó còn sáng ngời hơn bao giờ hết. Trước cảnh nước mất nhà tan, những người
phụ nữ đã vùng dậy đấu trang quyết liệt với kẻ thù, anh hùng dương cao ngọn cờ
độc lập, cùng toàn thể đồng bào chiến sĩ viết lên trang sử hào hùng “ thành đồng
tổ quốc” cùng với đó là sức chiến đấu ngoan cườn và đầy mưu lược của “ đội
quân tóc dài”. Ta không thể quên những người phụ nữ kiên trung như: Võ Thị
7