I. GIỚI THIỆU VẤN ĐỀ:
Cạnh tranh là yếu tố tất yếu trong quy luật của nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh là
động lực để nền kinh tế hàng hóa phát triển đồng thời cũng giúp các doanh nghiệp năng động
hơn, nỗ lực hết mình để nắm giữ thị trường. Tuy nhiên, cạnh tranh cũng mang đến nhiều rủi
ro cho các doanh nghiệp nếu như họ không nhanh chóng nắm bắt thị trường và đưa ra những
chiến lược kinh doanh hiệu quả. Trong thực tế, bên cạnh những hành vi cạnh tranh lành
mạnh, phần lớn vẫn tồn tại rất nhiều những hành vi cạnh tranh không lành mạnh và những
hành vi hạn chế cạnh tranh của các doanh nghiệp. Trong phạm vi bài tập, chúng ta sẽ tìm
hiểu căn cứ xác định hành vi hạn chế cạnh tranh theo Luật cạnh tranh 2004 và thực tiễn áp
dụng để hiểu rõ hơn vấn đề này.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Khái quát về pháp luật cạnh tranh và hành vi hạn chế cạnh tranh:
1.1. Khái quát về pháp luật cạnh tranh:
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là yếu tố tất yếu để các doanh nghiệp tồn tại và
phát triển. Cạnh tranh gắn với sự sống còn của các doanh nghiệp. Cạnh tranh là sự ganh đua
giữa các doanh nghiệp trong việc giành nhân tố sản xuất hoặc khách hàng nhằm nâng cao vị
thế của mình trong thị trường hàng hóa. Cạnh tranh cũng đồng nghĩa với việc các doanh
nghiệp sẽ áp dụng nhiều cách thức để giành thị trường bằng việc tác động trực tiếp tới khách
hàng thông qua các yếu tố như giá cả hàng hóa, số lượng, chất lượng, dịch vụ hoặc kết hợp
các yếu tố này hoặc yếu tố khác để tác động tới khách hàng. Trong thị trường mà các doanh
nghiệp cùng ganh đua để đạt được mục đích của mình, ắt hẳn sẽ không tránh khỏi những
hành vi trái pháp luật có thể gây ra hậu quả trực tiếp tới khách hàng. Chính vì vậy, phải có
một hàng rào pháp lý trong lĩnh vực này được đặt ra để hạn chế những hành vi cạnh tranh sai
trái của những doanh nghiệp. Pháp luật cạnh tranh đã ra đời nhằm thực hiện nhiệm vụ đó.
Pháp luật cạnh tranh không phải là pháp luật có mục tiêu trực tiếp nâng cao năng lực cạnh
tranh của một quốc gia mà nó mang tính ngăn cản và can thiệp trực tiếp vào hoạt động cạnh
tranh của các doanh nghiệp nhằm ngăn ngừa, xử lí những hành vi cạnh tranh trái pháp luật.
Ở quốc gia có những sự ổn định tương đối về pháp luật cạnh tranh, mặc dù có cơ cấu
của hệ thống pháp luật cạnh tranh khác nhau, song sau khi xem xét cấu thành cụ thể, họ đều
chia pháp luật cạnh tranh thành hai lĩnh vực riêng biệt : pháp luật chống cạnh tranh không
lành mạnh và pháp luật chống cạnh tranh ( còn gọi là chống độc quyền hay kiểm soát độc
quyền ). Sở dĩ có sự phân biệt như vậy là do tính chất của hành vi và mức độ của hành vi và
mức độ nguy hại của chúng đối với thị trường là khác nhau. Theo đó phương thức và sự
nghiêm khắc của pháp luật đối với hai nhóm hành vi này là khác nhau. Bên cạnh pháp luật
1
về nội dung, pháp luật về cạnh tranh còn có bộ phận pháp luật về thủ tục hay còn được gọi là
pháp luật về tố tụng cạnh tranh.
1.2. Khái niệm hành vi hạn chế cạnh tranh:
Pháp luật cạnh tranh luôn có hai lĩnh vực cơ bản là pháp luật chống cạnh tranh không
lành mạnh và pháp luật hạn chế cạnh tranh. So với pháp luật chống cạnh tranh không lành
mạnh, pháp luật hạn chế cạnh tranh ra đời muộn hơn nhưng nó ngày càng được các nhà lập
pháp quan tâm với mục đích xây dựng một cơ chế để “cương tỏa quyền lực kinh tế”, buộc
quyền lực đó phải khuất phục trước sức ép của cạnh tranh nhằm duy trì sự cạnh tranh có lợi
cho người tiêu dùng, cho hiệu quả của nền kinh tế và sự phát triển của quốc gia nói chung.
Trong lĩnh vực này, pháp luật luôn quan tâm đến ba nhóm đối tượng điều chỉnh là các thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh, hành vi lạm dụng thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền để hạn
chế cạnh tranh và tập trung kinh tế. Trong pháp luật Việt Nam, các nhà làm luật cũng tiếp
cận theo cách hiểu ấy. Tại khoản 3 Điều 3 Luật cạnh tranh 2004 đã đưa ra khái niệm về hành
vi hạn chế cạnh tranh, đó là “ hành vi của doanh nghiệp làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh
tranh trên thị trường, bao gồm hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống
lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền và tập trung kinh tế”. Pháp luật đã cụ thể hóa nội
dung của từng hành vi này trong ba nhóm hành vi hạn chế cạnh tranh nói trên trong các điều
8,13, 14,16 Luật cạnh tranh 2004.
2. Căn cứ xác định hành vi hạn chế cạnh tranh và ý nghĩa:
Thị trường theo pháp luật cạnh tranh không chỉ được hiểu theo nghĩa thông thường là
nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán hàng hóa của kẻ bán người mua mà khái niệm
này cần được định nghĩa một cách cụ thể và có những tiêu chí rõ ràng. Bởi lẽ khi cần tìm
hiểu mối quan hệ giữa các đối thủ cạnh tranh không thể thống kê mọi doanh nghiệp mà cần
có sự phân loại các doanh nghiệp vào nhóm các mặt hàng, lĩnh vực khác nhau. Doanh nghiệp
sản xuất may mặc không thể là đối thủ của doanh nghiệp sản xuất ô tô. Mặt khác, để xác
định được hành vi độc quyền, xác định được sức mạnh của một doanh nghiệp trên thị trường
hàng hóa, dịch vụ cụ thể cần phải có những tiêu chí định lượng, biện pháp giám sát nhất
định. Tất cả những vấn đề liên quan đến nhận dạng hay phân khúc thị trường như vậy được
pháp luật cạnh tranh xem xét trong khái niệm “thị trường liên quan”. Xác định thị trường
liên quan được coi là tiền đề, là căn cứ để xác định pháp luật chống hạn chế cạnh tranh nói
chung và xác định hành vi hạn chế cạnh tranh nói riêng.
Bên cạnh việc xác định thị trường liên quan, ta cũng cần phải xác định thị phần của các
doanh nghiệp. Việc xác định này có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình xử lí vụ việc hạn
chế cạnh tranh. Các doanh nghiệp trong thị trường đều có một thị phần nhất định. Thị phần
được xem như là chỉ số cho thấy tầm quan trọng hay sức mạnh của doanh nghiệp trên thị
trường. Thị phần là một tiêu chí rất quan trọng cho việc đánh giá chính xác, rõ ràng mức độ
2
hành vi hạn chế cạnh tranh trên thị trường của các hành vi hạn chế cạnh tranh trên thị trường
được nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng. Theo đó, tổng thị phần của các doanh nghiệp thực
hiện hành vi hạn chế cạnh tranh luôn tỉ lệ thuận với mức độ hạn chế cạnh tranh của các hành
vi đó.
Việc xác định thị trường liên quan cũng như thị phần của doanh nghiệp trên thị trường
có ý nghĩa quan trọng vì:
_ Thứ nhất, xác định thị trường liên quan là công việc đầu tiên để xác định thị phần của
từng doanh nghiệp trong vụ việc hạn chế cạnh tranh. Theo quy định của Luật cạnh tranh
2004, thị phần là cơ sở để xác định liệu các doanh nghiệp tham gia vào thỏa thuận cạnh tranh
có bị cấm thực hiện thỏa thuận đó hay không, xác định vị trí thống lĩnh thị trường của doanh
nghiệp, nhóm doanh nghiệp, xác định trường hợp tập trung kinh tế bị cấm và trường hợp các
doanh nghiệp tập trung kinh tế cần phải thông báo cho cục quản lí cạnh tranh trước khi tiến
hành
_ Thứ hai, xác định thị trường liên quan là cơ sở quan trọng để xem xét xem hai doanh
nghiệp có phải là đối thủ cạnh tranh của nhau hay không vì các doanh nghiệp chỉ có thể là
đối thủ của nhau khi cùng hoạt động trong cùng một thị trường liên quan.
_ Thứ ba, xác định thị trường liên quan và thị phần giúp cho việc xác định mức độ hạn
chế cạnh tranh do hành vi vi phạm các quy định của Luật cạnh tranh gây ra.
3. Những hành vi hạn chế cạnh tranh bị kiểm soát:
Hầu hết tất cả các hành vi hạn chế cạnh tranh đều nhằm và hướng tới mục đích độc
quyền hóa để nhằm thống lĩnh thị trường. Độc quyền sẽ tạo ra sự xơ cứng cho sự phát triển
kinh tế và vì thế, pháp luật cạnh tranh phải ngăn cản và xóa bỏ mọi tính toán độc quyền hóa.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp cụ thể, vì lí do phải đảm bảo lợi ích công cộng, vì tính
chất và điều kiện đặc thù của một ngành hay lĩnh vực kinh tế ( như sản xuất vũ khí hoặc các
phương tiện bí mật nhà nước ), nhà nước cho phép giữ độc quyền trong một lĩnh vực và mức
độ nhất định. Chính vì thế, pháp luật chống hạn chế cạnh tranh thực hiện sự kiểm soát những
nhóm hành vi như sau:
_ Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ( Các-ten ): là hành vi cấu kết giữa hai hay nhiều
doanh nghiệp để thủ tiêu sự cạnh tranh giữa chúng và ngăn cản sự tham gia thị trường của
các đối thủ cạnh tranh khác cũng như sự gia nhập thị trường của các doanh nghiệp tiềm
năng. Về hình thức, các thỏa thuận này có thể được hình thành thông qua các hợp đồng, nghị
quyết, thỏa thuận ngầm của doanh nghiệp. Theo quy định tại Điều 8 Luật cạnh tranh 2004 thì
các thỏa thuận này bao gồm:
a. Thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp;
3
b. Thoả thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng
dịch vụ;
c. Thoả thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán
hàng hoá, dịch vụ;
d. Thoả thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư;
e. Thoả thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán
hàng hoá, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan
trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng;
f. Thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị
trường hoặc phát triển kinh doanh;
g. Thoả thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên
của thoả thuận;
h. Thông đồng để một hoặc các bên của thoả thuận thắng thầu trong việc cung cấp
hàng hoá, cung ứng dịch vụ.
_ Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền:
Hạn chế cạnh tranh không chỉ được tạo ra bởi sự phối hợp hành động của các doanh
nghiệp mà còn được tạo ra bởi các hành vi lạm dụng thị trường đơn phương bởi các doanh
nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường. Vị trí thống lĩnh thị trường theo từ điển Chính sách
thương mại quốc tế là “khả năng của một công ty có thể gây ảnh hưởng đến xử sự của một
công ty khác, bất kỳ là ngược hay xuôi”. Theo đó quyền lực thị trường là khả năng ảnh
hưởng của một doanh nghiệp đến hành vi của một doanh nghiệp khác trên thương trường.
Theo điều 13 LCT 2004 thì các doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị
trường bị cấm thực hiện các hành vi sau đây:
a. Bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ
cạnh tranh;
b. Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá bán lại
tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng;
c. Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hoá, dịch vụ, giới hạn thị trường, cản trở sự
phát triển kỹ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khách hàng;
4
d. Áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong giao dịch như nhau nhằm tạo bất
bình đẳng trong cạnh tranh;
e. Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác ký kết hợp đồng mua, bán hàng hoá,
dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp
đến đối tượng của hợp đồng;
f. Ngăn cản việc tham gia thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới.
_ Tập trung kinh tế:
Trong nền kinh tế thị trường, việc hợp nhất hay sát nhập giữa các doanh nghiệp là con
đường nhanh nhất để tạo ra khả năng độc quyền của một doanh nghiệp mới. Hành vi này có
thể sẽ làm cho nền kinh tế trở nên trì trệ chậm phát triển, các doanh nghiệp khác không còn
cơ hội để cạnh tranh, người tiêu dùng phải cắn răng việc các doanh nghiệp độc quyền áp giá,
… Bởi vậy, kiểm soát việc hợp nhất hay sát nhập doanh nghiệp ( tập trung kinh tế ) ngày
càng trở thành nội dung trọng tâm của pháp luật về chống hạn chế cạnh tranh.
Theo quy định của Điều 18 LCT 2004, tập trung kinh tế bị cấm nếu thị phần kết hợp
của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế chiếm trên 50% thị trường liên quan,, trừ
trường hợp được miễn trừ theo điều 19 của luật này, hoặc doanh nghiệp sau khi tập trung
kinh tế vẫn thuộc doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định của pháp luật.
4. Các quy định của pháp luật về căn cứ xác định hành vi hạn chế cạnh tranh và thực
tiễn áp dụng
4.1. Các quy định về xác định thị trường sản phẩm liên quan:
4.1.1. Xác định thị trường sản phẩm liên quan:
Theo khoản 1 Điều 3 LCT 2004 quy định: “thị trường sản phẩm liên quan là thị
trường của những hàng hóa, dịch vụ có thể thay thế cho nhau về đặc tính, mục đích sử dụng
và giá cả”. Theo quy định tại Điều 4 Nghị định 116/ NĐ-CP ngày 15/9/2005 quy định chi
tiết thi hành một số điều của LCT 2004 thì xác định thị trường liên quan bao gồm xác định
các hàng hóa, dịch vụ có thể thay thế cho nhau về đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả.
_ Đặc tính của hàng hóa, dịch vụ được xác định theo một trong số những yếu tố sau:
tính chất vật lí, tính chất hóa học, tính năng kỹ thuật, tác dụng phụ đối với người sử dụng,
khả năng hấp thụ.
_ Mục đích sử dụng của hàng hóa, dịch vụ được xác định căn cứ vào mục đích sử dụng
chủ yếu nhất của hàng hóa, dịch vụ đó
5