Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Tang lễ theo phong tục người Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (69.65 KB, 3 trang )

Tang Lễ Theo Phong Tục Người Việt Nam.
Người Việt Nam quan niệm rằng "nghĩa tử là nghĩa tận" nên khi
có người chết, tang lễ được tổ chức trọng thể.Trình tự lễ tang
ngày trước như sau: người chết được tắm rửa sạch sẽ, thay quần
áo tươm tất, rồi lấy một chiếc đũa đặt giữa hai hàm răng, bỏ vào
miệng một dúm gạo và ba đồng tiền xu gọi là lễ ngậm hàm. Sau
đó đặt người chết nằm xuống chiếu trải sẵn dưới đất (theo quan
niệm "từ đất sinh ra lại trở về với đât"). Tiếp đó là lễ khâm liệm
(liệm bằng vải trắng) và lễ nhập quan (đua thi hài vào quan tài).
Sau khi nhập quan là lễ thành phục, chính thức phát tang. Con
trai, con gái và con dâu của người quá cố, đội khăn sô, mũ chuối (hoặc mũ tết bằng rơm), mặc áo
sô. Cháu chắt họ hàng, thân thích chít khăn để tang. Những ngày quàn người chết trong nhà đều
phải cúng cơm sớm, chiều. Phường nhạc cử nhạc ai, bà con, bạn bè, làng xóm đến viếng. Sau khi
chọn được ngày, giờ tốt làm lễ đưa tang. Đám tang có câu đối, linh sàng, nhà táng (nơi đặt linh
cữu). Người đưa tang đi sau linh cữu, dọc đường có rắc vàng thoi (bằng giấy). Đến huyệt làm lễ
hạ huyệt và đắp mộ. Chôn cất xong về nhà làm lễ tế.

Ba ngày sau tang chủ làm lễ viếng mộ (lễ mở cửa mả), được 49 ngày làm lễ chung thất (thôi
cúng cơm cho người chết). Sau 100 ngày làm lễ tốt khốc (thôi khóc). Sau mộ năm làm lễ giỗ
đầu, sau ba năm (ở nhiều nơi là hai năm) làm lễ hết tang.
Ngày nay, lễ tang được tổ chức theo nghi thức đơn giản hơn: lễ khâm liệm, lễ nhập quan, lễ
viếng, lễ đưa tang, lễ hạ huyệt và lễ viếng mộ. Người trong gia đình để tang bằng cách chít khăn
trắng hoặc đeo băng tang đen.
Tang lễ là một nền văn hóa luôn luôn được người Việt Nam giữ gìn khi gia đình có người qua
đời. Bổn phận quan trọng của người con là cung dưỡng song thân khi tuổi già yếu và hoàn tất
tang lễ khi quá vãng. Những bổn phận này cần thực hiện đúng nghi thức để tỏ lòng tôn kính, báo
đền công sang thành dưỡng dục và tình cảm thiêng liêng của cha mẹ dành cho con cháu. Hiện
nay một số phong tục, nghi lễ vẫn đặt biệt được cử hành trước và sau khi cha, mẹ lìa trần.
Người Việt Nam tin tưởng rằng sự ‘ra đi’ tại nhà và được thân nhân bên cạnh là điều may mắn.
Họ cho rằng chết xa nhà là điều bất hạnh và rủi ro khi phải khiêng hòm từ nơi khác về. Có những
trường hợp người bịnh được đưa đi nhà thương và khi biết giờ chết đến gần, họ vội vã về chết ở


nhà. Bà con, quyến thuộc quay quần bên người sắp quá vãng và mọi sự được thể hiện trong
không khí trầm lặng. Trong lúc này, người con trai lớn ghé sát tai lắng nghe những lời khuyên
bảo, dặn dò hoặc trăn trối từ người hấp hối.
Theo một số truyền thống, khi song thân quá vãng, các người con không chấp nhận sự chết của
song thân mình. Họ đặt một chiếc đũa gần miệng người chết và thi hài để trên tấm chiếu, đầu
hướng phía cửa nhà (hướng Đông). Miệng người quá vãng được mở ra để khách viếng thăm có
thể bỏ gạo hoặc tiền vào (trường hợp gia đình giàu có). Người con trai trưởng hoặc con gái
trưởng trong gia đình lấy chiếc áo của ba/mẹ thường dùng khi còn sống vung vẩy trên không
trung và gọi hương hồn người mất trở về thân xác. Sau khi thực hiện lễ này, thi hài được các
người con lớn đem tắm, rửa bằng dầu thơm hoặc rượu để tẩy đi những các bụi của thế gian. Mục
đích này làm cho gân cốt người mất thư giản và ngay thẳng lại. Song song đó tóc của người mất
trải gọn gàng, móng tay và móng chân được cắt cụt. Sau đó mặc quần áo cho người quá vãng
thường sử dụng khi tại thế, hoặc mặc áo Phật (lục phù) hay áo phép (áo trắng có may cây thánh
giá màu đen trước ngực) rồi đặt thi thể lên giường, xếp chân tay ngay ngắn lại. Dầu dừa, trà và
chuối xanh được đặt lên bụng người quá vãng để xua đuổi những ma quỷ đến quấy rối, nhưng
theo khoa học tính chất từ các vật này khử mùi hôi từ thi thể. Trong khi chờ đợi các Thầy hoặc
Cha đến tụng kinh, gia đình treo màn phủ lên người quá vãng và tạm thời đặt chiếc bàn con ở
phía đầu. Nếu gia đình ảnh hưởng Khổng Giáo, Lão Giáo hay thờ cúng tổ tiên thì đặt một chén
cơm, một quả trứng và đôi đũa. Theo đạo Thiên Chúa đặt miếng giấy bìa cứng có ghi tên Thánh
của người chết.
Lễ nhập liệm thường được hướng dẫn theo hai quan điểm Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo. Người
quá vãng thường được mang tới chùa, nhà thờ hoặc nhà quàn để nhập quan tài. Theo nghi lễ Phật
Giáo nhập liệm được chia làm nhiều phần như sau: nhập liệm, cúng cơm, động quan, hạ huyệt…
Gia đình tang chủ được sắp sếp theo thứ tự từ lớn đến nhỏ và theo quan hệ người mất, tất cả quỳ
trước bàn thờ Phật và hương linh. Sau khi các Thầy làm các nghi lễ cổ truyền và tụng kinh, nhân
viên dịch vụ tiến hành mặc đồ tẩm liệm và quấn vải liệm. Trong lúc người con trưởng hoặc cháu
đích tôn đứng bên cạnh, tất cả gia đình nhiễu quanh quan tài ba vòng nhìn mặt người quá vãng
lần cuối. Tang phục là văn hoá của người Việt Nam. Tang phục được làm bằng vải tám hoặc vải
mùng màu trắng, người trưởng nam, vợ hoặc chồng và cháu đích tôn thường mặc nguyên bộ tang
phục, còn lại tất cả đều phải chít khăn tang trên đầu. Trên bàn thờ Phật có các tượng hoặc hình,

dĩa trái cây, bình bông và lư hương. Trên bàn hương có thêm 3 chén cơm, ba ly trà nhỏ và các
thức ăn khác. Đại diện gia đình gắp thức ăn vào chén cơm, dâng lên ngang trán khi được Thầy
hướng dẫn. Theo luật luân hồi của Phật Giáo hương linh vẫn có thể còn vất vưởng trong vòng 49
ngày sau khi lìa thân xác.
Quí Thầy tụng kinh, làm lễ trước khi di chuyển quan tài đi hỏa táng hoặc mai táng. Nhân viên
dịch vụ đồng xá ba xá tỏ ý kính trọng người mất và xin phép gia đình di quan. Theo nghi lễ Phật
giáo, các vị sư đi trước tụng king. Trưởng nam và cháu đích tôn bưng lư hương và hình người
quá vãng đi sau quan tài. Quan tài được khiêng cung kính và theo nguyên tắc “đầu Quan đi
trước, chân áo Quan đi sau”. Gia đình, họ hàng và quí khách tham dự lần lượt nối tiếp tiễn đưa
người quá vãng đến nơi “an nghỉ cuối cùng”.
Theo nghi lễ Thiên Chúa Giáo, gia đình không đặt nặng các phần cúng kiến mà chủ yếu đọc kinh
cầu nguyện. Các vị Cha đọc kinh, làm lễ nhập liệm (dùng vải trắng), các phần còn lại do các vị
có trách nhiệm đảm nhận. Bàn thờ theo Thiên Chúa Giáo đơn giản là một bảng tên thánh, lư
hương (ít dùng), bình bông huệ trắng, cây thánh giḠphía sau quan tài có một tấm vải thiêu tên
giáo xứ, trước nhà có treo bốn lá cờ nhỏ có thêu chữ 'Sống gởi, thác về'. Nghi lễ động quan
Thiên Chúa giáo gồm có hai phần. Bà con, họ hàng đọc kinh, cầu nguyện trước lúc di quan và
sau đó đưa linh cữu vào nhà thờ làm lễ. Thông thường, lúc sinh tiền người quá vãng đi lễ tại đâu
thì được Cha Sở của nhà thờ đó làm lễ.
Tang lễ được coi rất quan trọng trong văn hóa của người Việt Nam. Trong thời gian này, con
cháu quy tụ đầy đủ dự tang. Mọi tục lệ cưới hỏi, nôi thôi, sinh nhật, kỷ niệm v.v…đều ngưng lại
chờ sau khi xả tang. Nhưng đặc biệt đối với Tết, ngày vui cổ truyền của dân tộc, gia đình phải
gác mối sầu riêng để hòa cùng niềm vui của dân tộc. Vì vậy có tục lễ ‘cất khăn tang’ trong ba
ngày Tết. Nhà nào có đại tang thì kiêng không đi chúc Tết, mừng tuổi bà con. Ngược lại bà con,
xóm giềng đến chúc tết và an ủi những gia đình bất hạnh.
Theo truyền thống, gia đình có song thân qua đời thường được để tang ba năm. Thời gian gần
đây, các tang quyến giảm bớt nghi lễ nhưng không kém phần trang nghiêm. Sau khi an táng thân
mẫu xong, thành viên trong gia đình sinh hoạt bình thường; người lớn tiếp tục công việc, làm ăn
buôn bán v.v…con cháu tiếp tục học hành. Đối với vấn đề tang phục không còn bị bắt buộc mặc,
họ điều chỉnh lại thành những bản vải nhỏ cột xung quanh tay hoặc miếng danh hiệu gắn lên cổ
áo.

Tang lễ trong gia đình đã có tập tục từ rất lâu. Các phong tục, nghi lễ được truyền thừa từ tổ tiên
đời này sang đời khác mang những tính chất huyền bí và bắt nguồn gia lễ xưa của Trung Hoa.
Ngày nay các tập tục này đã lỗi thời nhưng vẫn được áp dụng rộng rãi trong nhân gian. Tang lễ
được ảnh hưởng bởi tôn giáo, tùy theo tín ngưỡng của từng tôn giáo mà gia đình có những cách
thức tiến hành tang lễ khác nhau. Tang lễ là sự tiêu biểu truyền thống, cách sống của người Việt
Nam. Hình thức tang lễ nói lên tình nghĩa của những người cùng chung dòng máu, chia sẻ những
gì khi còn sống và sau khi mất họ vẫn ở mãi trong lòng những người thân. Người Việt Nam cho
rằng chết không có nghĩa là không còn nữa mà chỉ ‘mất đi’. Phần thân xác mất chứ tâm linh
không mất. Con người mất đi thì vẫn hiện hữu qua nhiều hình thức khác.

×