Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Vấn đề từ ngoại lai trong tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.02 KB, 9 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Vấn đề từ ngoại lai trong tiếng Việt (Môn: Phân tích từ vựng tiếng Việt) (2)
1. Đặt vấn đề
Là phương tiện giao tiếp trọng yếu nhất của con người, ngôn ngữ không
ngừng lớn mạnh. So với ngữ âm và ngữ pháp thì từ vựng là bộ phận biến đổi nhiều
và nhanh nhất bởi vì nó trực tiếp phản ánh đời sống xã hội. Theo Stalin: “…từ vựng
của một ngôn ngữ là bộ phận dễ chuyển biến nhất thì nó ở trong tình trạng biến đổi
liên miên”. Tuy nhiên, muốn nhận ra những đặc điểm mới sinh ra và phát mới phát
triển của trong từ vựng của mỗi ngôn ngữ thì thường phải theo dõi sự phát triển từ
vựng của nó trong một thời gian dài. Mấy chục năm so với lịch sử phát triển của
một ngôn ngữ chỉ là một quãng ngắn, không đáng kể. Nhưng với tiếng Việt, mấy
chục năm gần đây lại là thời kỳ diễn ra những biến đổi toàn diện và sâu sắc của hệ
thống từ vựng. Cũng như mọi thứ tiếng khác, trong quá trình phát triển, tiếng Việt
đã tiếp nhận thêm nhiều từ ngữ, nhiều ý nghĩa và cách cấu tạo từ của ngoại ngữ để
làm giàu cho từ vựng của mình.
Tù ngoại lai là từ mà tiếng Việt tiếp nhận của các ngôn ngữ cả về nội dung
và hình thức. Nguồn tiếp nhận trước hết vẫn phải kể đến tiếng Hán. Từ đầu thế kỷ
đến nay, tiếng Việt vẫn chủ yếu tiếp nhận các từ ngữ mới từ tiếng Hán. Nếu tiếp
nhận qua con đường sách vở thì những từ gốc Hán này được đọc theo cách đọc
Hán-Việt chứ không đọc theo cách phát âm của tiếng Hán phổ thông: cộng hoà,
chính trị, đại sứ quán, độc lập,... Nếu tiếp nhận qua con đường khẩu ngữ thì từ
ngoại lai lại được đọc theo âm địa phương nào đó: ca la thầu, mì chính, quẩy,…
Sau tiếng Hán, một số ngôn ngữ Ấn –Âu mà trước hết là tiếng Pháp là những
nguồn quan trọng cung cấp từ ngữ mới cho tiếng Việt: cà rốt, ghi đông, may ô,…
Cũng có những từ tiếng Việt tiếp nhận từ các ngôn ngữ của các dân tộc ít người ở
Việt Nam nhưng số này không nhiều: buôn, bản, phai,..
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Do đó, căn cứ vào nguồn gốc của các từ, người ta chia từ vựng thành hai lớp:
từ bản ngữ và từ ngoại lai. Hai khái niệm này cần được xác định một cách biện
chứng và lịch sử.


2. Phân biệt từ bản ngữ và từ ngoại lai
Bất kì ngôn ngữ nào, trong quá trình hình thành và phát triển của mình cũng
thu hút nhiều yếu tố của các ngôn ngữ khác, do đó có nhiều từ ngữ giống hoặc
tương tự với các từ ngữ của các ngôn ngữ khác. Tiếng Việt hiện đại của chúng ta
ngày nay chứa đựng nhiều từ ngữ giống hoặc tương tự với các từ ngữ trong nhiều
thứ tiếng khác như: tiếng Mường, tiếng Thái, tiếng Tày-Nùng, tiếng Bana, tiếng
Gialai, tiếng Êđê, tiếng Khmer, tiếng Hán, tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Anh... Nếu
không nhìn nhận vấn đề một cách biện chứng và lịch sử thì rất khó xác định đâu là
từ bản ngữ, đâu là từ ngoại lai. Có người cho rằng chỉ có thể gọi một cách hợp lí từ
ngoại lai trong một ngôn ngữ nhất định là những yếu tố đã thâm nhập sau cái thời
kì ít nhiều chính xác đánh dấu một cách quy ước giai đoạn đầu của ngôn ngữ ấy.
Trong thực tế, vấn đề xác định thời gian hình thành của một ngôn ngữ dân tộc nào
đó là rất phức tạp và không phải bao giờ cũng cho một câu trả lời chắc chắn. Vì
vậy, chúng ta vẫn vấp phải cái khó khăn trong khi phân biệt từ bản ngữ và từ ngoại
lai. Nội dung của hai khái niệm này chỉ có thể xác định một cách tương đối chắc
chắn nếu xét chúng trong những giai đoạn lịch sử cụ thể nhất định.
Các giai đoạn phát triển của một ngôn ngữ kế tiếp lẫn nhau, mỗi giai đoạn
bao gồm những yếu tố thuộc ba loại:
- Những yếu tố cũ từ giai đoạn trước để lại.
- Những yếu tố mới du nhập vào từ các ngôn ngữ khác trong giai đoạn ấy.
- Những sản phẩm mới được cấu tạo trên cơ sở những yếu tố cũ và những
yếu tố mới du nhập vào.
Xét trong giai đoạn ấy, những từ thuộc loại một và loại ba có thể được coi từ
bản ngữ, còn những từ thuộc loại hai là những từ ngoại lai. Tuy nhiên, khái niệm từ
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ngoại lai và từ bản ngữ được quan niệm một cách biện chứng. Chúng có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau. Những từ ngoại lai trong giai đoạn này có thể trở thành từ
bản ngữ trong giai đoạn tiếp theo.
Cách xác định từ bản ngữ và từ ngoại lai căn cứ vào nguồn gốc đòi hỏi phải

biết từ nguyên của các từ. Công việc này không phải bao giờ cũng thực hiện được
dễ dàng. Trong việc sử dụng ngôn ngữ, chỉ những khác biệt phản ánh tình trạng
hiện thời của ngôn ngữ là quan trọng. Vì vậy, từ bản ngữ và từ ngoại lai còn được
xác định về phương diện đồng đại thuần tuý. Một số nhà nghiên cứu đã đưa ra các
khái niệm từ bản ngữ đồng đại và từ ngoại lai đồng đại.
Từ ngoại lai đồng đại là từ có những nét không nhập hệ vào cấu trúc đương
thời của tiếng Việt. Từ ngoại lai đồng đại có thể là những từ ngoại lai còn giữ
những đặc trưng của ngoại ngữ khiến cho chúng khác với các từ bản ngữ đồng đại.
Trong tiếng Việt thì đó là những từ như:
- Những từ phiên âm nhưng viết liền như: cácbon, amin, amoniac, ampe...
- Những từ phiên âm nhưng viết rời như: a-xít, a-mi-la-da, a-ni-lin, a-nô-
phen, a-pa-tít, a-xê-ti-len...
- Những đơn vị có cách kết hợp âm vị bất thường như: pa-tê, noãn xào,
xoong, séc, loong toong...
- Những từ Hán Việt không hoạt động tự do như: sơn, thuỷ, gia, quốc, hải...
- Tổ hợp các từ Hán Việt không hoạt động tự do như: ba đào, giai nhân,
tham quan, sở dĩ, phạm trù, tiền phong...
- Những từ không phải tiếp thu của ngoại ngữ nào nhưng lại có những nét
làm cho nó khác hẳn các từ khác và được xử lí một cách khác cũng là từ ngoại lai
đồng đại. Thí dụ: leeng keeng, loong coong, bù nhìn, mồ hóng, mồ hôi, lê ki ma,
chôôc...
Từ bản ngữ đồng đại trong tiếng Việt là những từ mà xét về cấu trúc ngữ âm
cũng như hình thái học hoàn toàn nằm trong cấu trúc đương thời của tiếng Việt mặc
dù xét về phương diện lịch đại đó có thể là những từ có nguồn gốc ngoại lai:
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Những từ mượn tiếng Hán cổ, những từ Hán Việt đã Việt hoá về ngữ âm và
những từ tiếp nhận từ các ngôn ngữ Ấn-Âu nhưng có dạng ngữ âm trùng với âm
tiết: xăng, bì, lốp, gần, đầu, thần, ngọc, bia, phin, phớt...
- Những từ Hán Việt đã có khả năng hoạt động tự do như tất cả các từ thuần

Việt khác: ông, bà, tài, đức, thọ, học, thanh, hiếm, trí, phô, chúc thọ, chức tước, ông
bà, nguy hiểm, sự vật, trí não, học tập, thành phố...
3. Từ ngoại lai
Trong lớp từ ngoại lai còn có thể chia thành các loại sau:
3.1. Căn cứ vào mối liên hệ với sự vật và khái niệm
Trong tiếng Việt, nếu căn cứ vào mối liên hệ với sự vật và khái niệm, có thể
chia từ ngoại lai thành hai loại:
-Những từ ngoại lai biểu thị những sự vật và khái niệm mới xuất hiện, trong
bản ngữ chưa có từ biểu thị như: xô viết, công xô môn, đồng chí, hợp tác xã, may ô,
xà phòng,…
-Những từ biểu thị những sự vật và khái niệm đã có từ trước trong bản ngữ
đã có từ biểu thị rồi. Trong trường hợp này, từ ngoại lai đồng nghĩa với từ bản ngữ.
Tiếng Việt tiếp nhận từ ngữ tiếng Hán một cách hệ thống, vì vậy có hàng loạt từ
gốc Hán đồng nghĩa với các từ thuần Việt như: thiên – trời, địa – đất, cử – cất, tồn
– còn, tử – con, tôn – cháu...
3.2. Căn cứ vào thành phần ngoại lai.
Nếu xét về thành phần ngoại lai, có thể chia từ ngoại lai thành từ phiên âm
và từ sao phỏng.
3.2.1. Từ phiên âm
Là từ tiếp nhận cả hình thức lẫn nội dung của từ của ngôn ngữ khác. Hình
thức ngữ âm của các từ của ngoại ngữ có thể thay đổi ít nhiều cho phù hợp với quy
luật ngữ âm của bản ngữ. Ví dụ:
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Pháp Việt
glaïeul layơn, dơn
planton loong toong
fromage pho mát
cravate
ca la vát, ca ra vát, ca

vát,...
3.2.2. Từ sao phỏng
Là những từ tiếp nhận một mặt nào đó của từ của ngôn ngữ khác. Từ sao
phỏng có hai loại: sao phỏng cấu tạo từ và sao phỏng ngữ nghĩa.
Sao phỏng cấu tạo từ là trường hợp dùng chất liệu của bản ngữ để cấu tạo
một từ nào đó dựa theo mẫu về kết cấu của các từ tương ứng trong ngôn ngữ khác.
Thực chất của loại này là dịch từng yếu tố có tính chất hình thái học của các từ của
ngôn ngữ khác. Như vậy, nó chỉ tiếp nhận mẫu cấu tạo từ trong ngôn ngữ khác mà
thôi. Ví dụ: từ tiếng Nga подразделение là sao phỏng cấu tạo từ của từ tiếng Pháp
subdivision (sự chia nhỏ). Nó được thực hiện bằng cách dịch tiền tố sub- bằng tiền
tố под-, chính tố -divis- bằng -раздел- và hậu tố -ion bằng -ение. Trong tiếng Việt,
các đơn vị từ vựng như chắn bùn, chắn xích, chiến tranh lạnh... cũng là sao phỏng
cấu tạo từ của các đơn vị tương ứng trong tiếng Pháp là garde boue, garde chain,
guerre froide... Ngoài hiện tượng sao phỏng cấu tạo từ hoàn toàn như những thí dụ
trên, còn có hiện tượng sao phỏng cấu tạo từ không hoàn toàn. Những từ sao phỏng
kiểu này một phần là dịch các yếu tố tương đương của ngoại ngữ, phần còn lại là
tiếp nhận nguyên si của ngôn ngữ đó. Chẳng hạn từ идолослвужение của tiếng
Nga bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp là từ eidololatreia (sự thờ thần tượng), trong đó,
chính tố идоло- được tiếp nhận, còn chính tố latr- và phụ tố -eia được dịch ra tiếng
Nga là служ- và -ение.
Từ телевидение (vô tuyến truyền hình) bắt nguồn từ từ televisia trong đó
chính tố теле- có nguồn gốc Hi Lạp, còn chính tố -vis- và phụ tố -ia (gốc Latin)
được dịch ra tiếng Na là -вид- và -ение.
5

×