Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Nghiên cứu về xu hướng sáng tạo của các nhà thơtrẻnói , thanh thảo nói riêng trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (732.69 KB, 112 trang )


Lời cảm ơn

Em xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến TS. Hà Công Tài –
Viện Văn học và các thầy trong khoa Ngữ văn – Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội đã tận tình giúp đỡ, động viên, khích lệ và tạo điều
kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình nghiên cứu, hoàn thiện
luận văn này.


...
1
a. Phần mở đầu

I. Lý do chọn đề tài
1. Thanh Thảo là một gương mặt tiêu biểu trong đội ngũ các nhà thơ
trẻ thời kỳ chống Mĩ. Bằng tài năng và tâm huyết của mình, nhà thơ đã sớm
khẳng định phong cách thơ ca và đem đến cho nền thơ ca chống Mĩ nói
riêng, thơ ca dân tộc nói chung một tiếng thơ, một cách tiếp cận và khám
phá hiện thực, một phương thức biểu hiện mới mẻ độc đáo.Thơ Thanh
Thảo đã góp phần làm phong phú và đa dạng nền thơ ca của dân tộc, góp
một tiếng nói làm nên diện mạo đời sống tinh thần cao cả của nhân dân và
quân đội ta trong cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc giành lại độc lập, tự do
cho dân tộc.
2. Một đặc điểm nổi bật trong thơ Thanh Thảo là sự khám phá sâu
sắc về hình tượng nhân dân và người chiến sĩ. Hình tượng nhân dân được
khám phá từ góc độ sâu thẳm của lịch sử, là cội nguồn sự sống, cội nguồn
sức mạnh. Nhân dân, đó là sức mạnh vô biên làm nên lịch sử kì vĩ của dân
tộc. Và người chiến sĩ chính là từ nhân dân mà ra. Có thể nói, hình tượng
người chiến sĩ trong thơ ông mang đậm sắc thái riêng của cái tôi thế hệ và
dù được khai thác ở bình diện nào đi nữa cũng có hạt nhân ở sự gắn bó sâu


nặng với nhân dân– Nhân dân trong truyền thống, nhân dân – Những người
mẹ Quảng Trị, người mẹ Khơ Me, mẹ Bàng Long, người lái đò, người du
kích. Ta sống cùng nhân dân chết giữa nhân dân – Rất yên ổn mầm cây thở
chìm trong đất. Điều đó làm nên nét độc đáo và giá trị tư tưởng nghệ thuật
thơ Thanh Thảo.
3. Trên bình diện lí luận, trong xu hướng nghiên cứu thi pháp học
truyền thống và thi pháp học hiện đại, vấn đề hình tượng nghệ thuật vẫn
được các nhà nghiên cứu quan tâm, tìm hiểu như là một phương thức độc
...
2
đáo của nghệ thuật trong việc tái hiện và tiếp cận đời sống, là phương diện
cơ bản làm nên đặc trưng thẩm mỹ của nghệ thuật với nhiều phát hiện mới
mẻ. Đây cũng là con đường đúng đắn để có thể tiếp cận các tác phẩm nghệ
thuật, từ đó giúp các nhà nghiên cứu, phê bình giảng dạy văn học tìm ra
được những giá trị đích thực của tác phẩm. Kế thừa và phát huy những
thành tựu đáng kể của xu hướng nghiên cứu này, người viết đi sâu vào
nghiên cứu về Thanh Thảo và hệ thống hình tượng độc đáo trong thơ ông,
góp phần lý giải thế giới nghệ thuật trong thơ Thanh Thảo, tạo cơ sở xác
định vị trí và những đóng góp của nhà thơ trong nền thơ ca của cuộc kháng
chiến chống Mĩ nói riêng và thơ ca Việt nam nói chung.
II. Lịch sử vấn đề

Thanh Thảo là nhà thơ trưởng thành từ chiến trường miền Nam
trong thời kì chống Mĩ cứu nước. Phong cách sáng tạo của nhà thơ được
hình thành trên mảnh đất nóng bỏng của cuộc chiến đấu.Thơ ông sớm có
một dáng dấp riêng. Với những nét độc đáo của mình trong kiểu cảm, kiểu
nghĩ, kiểu nhìn và nhất là kiểu nói, thơ Thanh Thảo đã gây nhiều chú ý
cho độc giả và giới phê bình văn học.
Có khá nhiều bài phê bình, nghiên cứu về thơ cũng như trường ca
của Thanh Thảo.Nhiều bài đã giới thiệu nhà thơ chủ yếu như một gương

mặt thành viên của đội ngũ thơ trẻ. Mai Hương trong bài Nghĩ về đóng góp
của đội ngũ trẻ trong thơ chống Mĩ in trên tạp chí Văn học số 1 năm 1981
đã đánh giá Thanh Thảo là một trong những cây bút tiêu biểu cho khuynh
hướng tăng cường chất chính luận, khái quát cho thơ ca chống Mĩ. Nhà thơ
Vũ Quần Phương với Thơ hôm nay đăng trên tạp chí Văn nghệ Quân đội số
6 năm 1982 khi nói về các nhà thơ trẻ chống Mĩ cũng nhắc đến Thanh Thảo
“Họ biết nhìn thẳng vào mình, vào thế hệ mình mà cất lên tiếng hát. Khi
...
3
Thanh Thảo viết Bài ca ống cóng … thì cũng là lúc thơ của lớp trẻ phát
hiện ra mình”.
Khi so sánh Những người đi tới biển của Thanh Thảo và Đường tới
thành phố của Hữu Thỉnh trên báo văn nghệ số 24 –815 năm 1979 nhà thơ
Tế Hanh đã đưa ra nhận định “Họ giống nhau ở chất nghệ thuật, nghệ thuật
của sự sống, của cuộc chiến đấu. Thanh Thảo viết phóng khoáng, có khi
lỏng lẻo. Hữu Thỉnh thì chắc chắn nhưng đôi khi hơi khô”. Bích Thu trong
Tạp chí văn học số 5, số 6 năm 1985 lại khẳng định Thanh Thảo là gương
mặt thơ tiêu biểu sau 1975.
Với trường ca Những người đi tới biển và tập thơ Dấu chân qua
trảng cỏ sự hiện diện của Thanh Thảo trong phong trào thơ chống Mĩ như
là sự tiếp sức trong đội ngũ những người làm thơ thuộc thế hệ thứ ba trên
chặng đường sáng tạo.Thơ Thanh Thảo là tiếng nói thâm trầm, thấm thía về
hiện thực chiến tranh.
Nhìn chung, các bài viết tuy dài ngắn khác nhau song phần nào đề
cập được nét chung nhất về thơ Thanh Thảo : Thơ Thanh Thảo có chiều
sâu, có cách nói độc đáo về người lính và thế hệ mình, về nhân dân.Tuy có
đề cập gián tiếp và động chạm đến một vài khía cạnh nào đó về hình ảnh
người lính và nhân dân trong tương quan so sánh với các nhà thơ khác như
Nguyễn Đức Mậu, Hữu Thỉnh …song chưa có công trình nào nghiên cứu
trực diện và riêng biệt về hình tượng nhân dân và người chiến sĩ trong thơ

Thanh Thảo.Trong tập tiểu luận phê bình Những vẻ đẹp thơ của Nguyễn
Đức Quyền (Nhà xuất bản – Hội văn học nghệ thuật Nghĩa Bình năm
1980), tác giả có một vài phác hoạ về Thanh Thảo và thơ anh “Thơ chống
Mĩ đến Thanh Thảo đã lắng vào chiều sâu, cái xô bồ của chiến tranh, cái
tàn bạo của giặc Mĩ, cái gian khổ của người lính được Thanh Thảo nhìn
với cái nhìn trầm tĩnh lạ thường”. Cũng nói về thơ Thanh Thảo, tác giả Lại
...
4
Nguyên Ân trong Dấu chân những người lính trẻ và thơ Thanh Thảo (Văn
học và phê bình – NXB Tác phẩm mới, 1984) đã đưa ra những nhận xét
khá sâu sắc “Thanh Thảo đã tìm được khá nhiều cung bậc, nhiều sắc thái để
tô đậm nét vô danh, bình thường ở những người lính cùng thế hệ. Và những
nét vô danh bình thường này như báo trước một thầm thì gì nưã, một xác
nhận về đạo đức của thế hệ, hơn nữa một thứ tuyên ngôn…”. Cũng viết về
người lính, Thuỵ Kha với Lời quê góp nhặt (NXB Hội nhà văn 1999) lại
nhấn mạnh đến chất dân tộc. “Thanh Thảo đã tấu lên khúc ca lính Việt
trong thơ mình”.Bích Thu thì khẳng định “Thanh Thảo đã đem đến thực
đơn tinh thần mới mẻ và độc đáo khi đi sâu phát hiện khám phá chân dung
tinh thần của một thế hệ người lính trong giai đoạn chiến tranh khốc liệt mà
hào hùng của dân tộc ….Thơ Thanh Thảo là tiếng nói thâm trầm về trách
nhiệm và số phận của thế hệ mình trước Tổ quốc, nhân dân”.Cũng trên
hướng khám phá ấy, Phong Lan tiếp tục khẳng định “Những năm tháng
cùng đồng đội vượt Trường Sơn đến chiến trường Đông nam bộ , tự sống
nhiều năm cuộc sống người chiến sĩ, của nhân dân…thơ Thanh Thảo đã tìm
và gắng thể hiện không phải vẻ đẹp bên ngoài dễ dãi và dễ thấy mà là một
vẻ đẹp thực chất lấp lánh ẩn sâu bên trong cái vỏ xù xì, bình dị của đời
thường, của những con người, những vùng đất và những năm tháng không
thể nào quên”( Một tiếng thơ đáng quí - Văn nghệ quân đội số 8 năm
1980).Đặc biệt tư tưởng nhân dân trong thơ Thanh Thảo đã được giáo sư
Trần Đăng Suyền phát hiện với những suy nghĩ mới mẻ qua Hình tượng

nhân dân trong trường ca Những ngọn sóng mặt trời đăng trên báo văn
nghệ tháng 6 năm 1983. “Tư tuởng nhân dân được khơi sâu và phong phú
hơn. Nó đánh dấu một bước tiến mới trong tư tưởng thẩm mỹ của anh”. Có
thể nói những suy nghĩ về nhân dân là sợi chỉ đỏ xuyên suốt những sáng tác
của Thanh Thảo.
...
5
Những ý kiến trên đây của các nhà nghiên cứu thực sự là những phát
hiện mới mẻ về thơ và hình tượng người lính, nhân dân trong thơ Thanh
Thảo.Điều đó có ý nghĩa khai phá, định hướng cho chúng tôi khi tìm hiểu
đề tài. Luận văn cố gắng kế thừa và chọn lọc, nâng cao những vấn đề mà
các nhà nghiên cứu đã nêu ra trên cơ sở đó tìm hiểu một cách toàn diện, hệ
thống hình tượng thơ Thanh Thảo. Tìm hiểu hệ thống hình tượng đó là một
trong những cách tiếp cận giúp người đọc nắm bắt được đặc trưng nghệ
thuật thơ ông, qua đó khẳng định những đóng góp mới mẻ của nhà thơ đối
với thơ ca Việt nam thời kì chống Mĩ cứu nước.
III. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu
1. Phạm vi nghiên cứu
Trên những chặng đường sáng tác của mình, Thanh Thảo làm thơ,
trường ca, viết tiểu luận phê bình. Tuy nhiên, để tìm hiểu hình tượng nhân
dân và người chiến sĩ trong thơ ông, người viết chủ yếu nghiên cứu các tác
phẩm ông viết về đề tài chiến tranh như tập thơ Dấu chân qua trảng cỏ và
một số trường ca tiêu biểu Những người đi tới biển, Những ngọn sóng
mặt trời, Những nghĩa sĩ Cần giuộc, Bùng nổ của mùa xuân.
2. Phương pháp nghiên cứu
Nhìn nhận vấn đề trên cơ sở lí luận thi pháp học hiện đại, bám sát
đặc trưng thể loại, nghiên cứu vấn đề từ hai chiều lịch đại và đồng đại, luận
án sử dụng phối hợp nhiều phương pháp nghiên cứu: phưong pháp nghien
cứu phân tích tác phẩm, phương pháp so sánh, phương pháp tiếp cận hệ
thống.

...
6
2.1.Phương pháp nghiên cứu phân tích tác phẩm.
Sử dụng phương pháp này để chỉ ra giá trị thẩm mỹ của tác phẩm,
cái đặc sắc và sự kết tinh cái đẹp của hiện thực đời sống và sáng tạo hình
tượng độc đáo của nhà thơ.
2.2.Phương pháp so sánh.
So sánh thơ viết về nhân dân và người chiến sĩ trong thơ chống
pháp, thơ của các nhà thơ cùng thời, từ đó thấy được mối liên hệ qua lại,
ảnh hưởng, đặc biệt thấy được cái riêng khi viết về hình tượng này trong
thơ Thanh Thảo
2.3 Phương pháp hệ thống.
Tìm hiểu thế giới hình tượng thơ Thanh Thảo trên cơ sở tổng thể
hàm chứa các yếu tố, nghiên cứu sự thống nhất về cấu trúc của chúng,
khám phá tính toàn vẹn nội tại của chỉnh thể tác phẩm.
IV. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 chương:
Chương I: Khái quát về xu hướng sáng tạo của các nhà thơ trẻ nói
chung, Thanh Thảo nói riêng trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Mĩ
cứu nước.
Chương II: Hình tượng nhân dân trong thơ Thanh Thảo
Chương III: Hình tượng người chiến sĩ và mối quan hệ độc đáo giữa
hình tượng nhân dân và chiến sĩ trong thơ Thanh Thảo.

...
7
B. Phần nội dung
Chương i : Khái quát về xu hướng sáng tạo của các nhà thơ trẻ nói
chung, thanh thảo nói riêng trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Mĩ

cứu nước.

I. Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước và sự phát triển của phong trào
thơ trẻ.
Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, giải phóng Miền Nam, bảo vệ
miền Bắc, thống nhất tổ quốc là một thử thách vô cùng ác liệt, cũng là một
chiến công vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Cuộc chiến đấu ấy đã liên kết mọi
người Việt nam trong một ý chí chung, một vận mệnh chung. Với quyết
tâm phi thường, cả đất nước cùng ra trận Ba mươi mốt triệu dân- Tất cả
hành quân – Tất cả thành chiến sĩ (Tố Hữu). Việt Nam được coi là lương
tâm của thời đại , là “ vàng của lòng người hôm nay”. Hơn lúc nào hết,
truyền thống yêu nước của dân tộc được phát huy cao độ với tinh thần
không có gì quý hơn độc lập tự do, hễ còn một tên xâm lược trên đất nước
ta thì ta phải tiếp tục chiến đấu quét sạch nó đi (Hồ chí minh). Vì vậy, cuộc
kháng chiến chống Mĩ cứu nước trở thành cuộc kháng chiến toàn dân, toàn
diện .Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong suốt mười năm(1964- 1975) nhân
dân đã đồng tâm hiệp lực, vững vàng từng bước đi lên với mục đích cao cả
Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng giặc Mĩ xâm lược.
Dường như là một quy luật trong lịch sử dân tộc cuộc kháng chiến
càng ác liệt thì thơ ca càng phát triển mạnh mẽ và đóng góp không nhỏ vào
sự nghiệp đấu tranh bảo vệ Tổ quốc. Thơ chống Mĩ trên trận tuyến ác liệt
chống kẻ thù hung bạo đã lan toả khắp bề rộng của cuộc kháng chiến toàn
dân, đi vào chiều sâu tâm hồn và tình cảm của người đang chiến đấu. Đó là
nền thơ thống nhất những mảng thơ sáng tác trong những hoàn cảnh chiến
...
8
đấu khác nhau thành một bức tranh toàn cảnh, thành thế trận hiệp đồng của
một nền thơ chống Mĩ, góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc
như báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng tại đại hội lần
thứ IV tháng 12/ 1976 đã nhấn mạnh “Năm tháng sẽ trôi qua nhưng thắng

lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp chống Mĩ cứu nước mãi mãi được ghi
vào lịch sử dân tộc như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu
tuợng về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng…”
Hiện thực nóng bỏng, sôi động của cuộc kháng chiến đã dội vào
trong thơ. Trong những năm khói lửa chiến tranh ác liệt, thơ càng phát triển
mạnh mẽ và sung sức. Thơ trẻ chống Mĩ đã gắng sức vươn lên xứng đáng
với tầm vóc của dân tộc và thời đại. Nếu giá trị của một nền thơ phụ thuộc
vào việc nó đáp ứng được yêu cầu của thời đại ấy đến đâu và nó có khả
năng sống qua nhiều thời đại hay không thì về cơ bản thơ trẻ thời kì chống
Mĩ đã đáp ứng đựơc hai yêu cầu hết sức khắt khe này. Thời kì này, thơ
được coi là binh chủng mũi nhọn, có tính xung kích, đã nhanh chóng nhập
cuộc vào cuộc kháng chiến chống Mĩ không một chút ngỡ ngàng, không
phải mất thời gian chuyển mình, lên tiếng kịp thời trước mọi biến cố lịch
sử. Như một người lính cũ đã trải qua những rèn luyện thử thách để có tinh
thần thường trực chiến đấu, thơ có mặt ngay ở vị trí chiến đấu của mình
trong đội quân văn nghệ nhập mình vào cuộc kháng chiến vĩ đại đang mở
ra trong cả nước, trên khắp các mặt trận. Lịch sử thơ ca dân tộc chưa bao
giờ lại có một cuộc sống sôi nổi và phong phú đến thế. Thơ trẻ đã ghi lại
nhiều hình ảnh về đất nước, con người Việt nam trong những năm tháng
sục sôi đánh Mĩ. Đó là tinh thần chiến đấu dũng cảm hi sinh quên mình vì
sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Cuộc chiến đấu anh hùng của dân tộc chính là cơ sở sáng tạo của một
nền thơ trong đó có sự trưởng thành của đội ngũ thơ trẻ. Họ là những nhà
...
9
thơ có tuổi đời còn trẻ nhưng sáng tác thơ đã tạo được dấu ấn của mình
trong đời sống văn học. Các nhà thơ tìm đến thơ ca như sự tự nhận thức,
khám phá, thể hiện về đất nước, về nhân dân và về chính thế hệ mình. Họ
viết về đồng đội, về nhân dân, họ ngợi ca và tìm cách lí giải chiến thắng
bằng cái nhìn của những người trong cuộc, những nhà thơ áo lính. Chỉ

trong vòng mười năm, nền thơ chống Mĩ đã liên tiếp xuất hiện những
gương mặt thơ trẻ như Nguyễn Mĩ, Bằng Việt, Xuân Quỳnh, Phạm Tiến
Duật, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Duy, Thanh Thảo, Hữu thỉnh v.v. Đó là
những gương mặt tiêu biểu đem lại vinh quang cho cả thế hệ thơ trẻ thời kì
kháng chiến chống Mĩ. Không so le đứt đoạn giữa lớp trước, lớp sau, các
thế hệ nhà thơ cùng có mặt bên nhau trên trận tuyến chống Mĩ. Từ thế hệ
nhà thơ lớp trước như Tố Hữu, Chế Lan Viên đã có tầm cao tư tưởng mới,
giàu kinh nghiệm hơn trong con mắt nhìn, trẻ trong tâm hồn, khoẻ trong
sức viết, cùng một lớp nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống
Pháp như Chính Hữu, Trần Hữu Thung… thơ viết đều tay, phong thái chắc
khoẻ, khẳng định sức đi lên của mình, đến lớp nhà thơ trẻ như Nguyễn
Duy, Lưu Quang Vũ, Thanh Thảo …đã mang đến tiếng nói mới mẻ, duyên
dáng, khoẻ khoắn về người lính, về nhân dân anh hùng cho nền thơ ca
chống Mĩ. Cuộc kháng chiến giữ nước vĩ đại ấy đã trở thành nguồn cảm
hứng của trơ trẻ, là cánh đồng không bao giờ bạc màu, càng lật xới càng
màu mỡ. Cuộc chiến tranh bảo vệ đất nước đã trở thành cái nền tảng đạo
đức, khí phách anh hùng, cung cấp những mẫu mực hành vi cho nhân vật
văn học.
Trưởng thành trong lòng cuộc chiến đầy ác liệt , các nhà thơ áo lính
đã có cái nhìn sâu sắc về chiến tranh, về vị trí nhà thơ Vóc nhà thơ đứng
ngang tầm chiến luỹ. Bên dũng sĩ đuổi xe tăng ngoài đồng và hạ trực thăng
...
10
rơi (Chế Lan Viên). Họ cũng ý thức về vai trò, sự xuất hiện kịp thời của
thế hệ mình. Đó là khi Phạm Tiến Duật dõng dạc lên tiếng:
Ta đi hôm nay đã không là sớm
Đất nước hành quân mấy chục năm rồi
Ta đến hôm nay cũng chưa là muộn
Đất nước còn đánh giặc chưa thôi
Từ sự ý thức ấy, họ cố gắng khắc hoạ những gương mặt cụ thể, những con

người mang được dấu ấn, tầm vóc của thời đại.
Trung tâm của thơ trẻ chống Mĩ chính là hình tuợng người chiến sĩ
cầm súng đánh giặc, bảo vệ Tổ quốc. Chính khoảng cách sử thi và cảm
hứng lãng mạn đã khiến cho các nhà thơ trẻ nhìn về người lính bằng cái
nhìn cảm phục và ngưỡng mộ. Họ là anh bộ đội cụ Hồ, là cô thanh niên
xung phong là chiến sĩ lái xe, là anh nuôi quân, là cô giao liên…ở khắp các
chiến trường đang từng giờ, từng phút đối đầu với kẻ thù tàn bạo . Nhà văn
Chu Lai đã nhấn mạnh về hình tượng người lính “Người lính đòi hỏi văn
học phản ánh họ như cái họ vốn có. Cứ phản ánh họ trung thành với trái
tim lành lặn, thiện chí nhất”. Đây có thể coi là thành tựu đáng kể, đóng góp
trong việc xây dựng diện mạo cuộc kháng chiến cũng như cắt nghĩa những
thắng lợi vĩ đại của dân tộc. Mặt khác, hình tượng người chiến cách mạng
trở nên sinh động hơn trong thơ qua sự tiếp thu, phát triển những thành tựu
đạt được trong suốt mấy chục năm qua. Rất nhiều tác phẩm thơ được giải
thưởng trong phong trào thơ chống Mĩ không nằm ngoài mạch cảm hứng
về người lính như: Những người đi tới biển của Thanh Thảo, Đường tới
thành phố của HữuThỉnh , Đất nước hình tia chớp của Trần Mạnh Hảo…
Những năm tháng đầu tiên của cuộc kháng chiến chống Mĩ, người
lính trẻ hiện lên tràn đầy lạc quan, yêu đời trên đường ra trận trong thơ Lưu
...
11
Quang Vũ, Bằng Việt. Họ bước vào cuộc chiến mà tâm hồn tràn ngập chan
chứa tình cảm và những hình ảnh đầy chất lãng mạn. Chia tay là mô típ
quen thuộc của thơ ca và ám ảnh trong tâm trí người đọc là những đêm
hành quân:
Bên cửa sông làng xóm quây quần
Không ai khóc vì anh không muốn khóc
Nén tiếng nấc chuyển thành cơn gió lốc
Đoàn con trai đi tòng quân
(Đêm hành quân- Lưu Quang Vũ)

Với người lính, hành trình ra chiến trường là những chặng đường
hành quân không mệt mỏi. Tuy nhiên, đây còn là những cụôc hành quân
trong tâm tưởng với rất nhiều kỉ niệm của tuổi thơ. Từ một tiếng gà gáy
trưa, từ âm thanh râm ran của tiếng ve, từ một bờ tre đến một chú sẻ đồng
ngơ ngác…tất cả đều có thể làm xao động tâm hồn trong sáng của những
chàng lính trẻ.
Đường hành quân ra trận
Gặp con chim sẻ đồng
Một tiếng chim nho nhỏ
Vang vọng mãi trong lòng
(Con sẻ đồng – Văn Thảo Nguyên)
Họ nhìn chiến tranh còn đơn giản, một chiều, thơ mộng:
Những hố cá nhân tròn trặn xinh sao
Hẳn là để trồng cây sau kháng chiến
Hàng cây số hào giao thông ẩn hiện
Sẽ khơi làm mương máng mai sau.
...
12
Cảm nghĩ thiêng liêng của họ trong những năm tháng cả nước bốn
mươi thế kỉ cùng ra trận là Tổ quốc và nhân dân. Tuy nhiên sự cảm nhận
về đất nước, nhân dân trong tâm hồn những người lính trẻ vẫn còn mang
tính lí tưởng sách vở :
Đất nước bốn ngàn năm không nghỉ
Những đạo quân song song cùng lịch sử
Đi suốt thời gian, đi suốt không gian
Sừng sững dưới trời anh dũng hiên ngang
( Nam Hà)
Điều này cũng thật dễ hiểu vì trong những bài thơ thời kì này, nhà
thơ đang ở vai trò của người chứng kiến, người ngoài cuộc.
Chiến tranh khốc liệt hơn, nhận thức được bộ mặt nham hiểm, âm mưu

và tội ác của kẻ thù, các nhà thơ rời vị trí quan sát của mình để xung trận. Họ
ra trận thật sự và thành người trong cuộc. Các nhà thơ trẻ trong quân đội đã
trở thành những gương mặt tiêu biểu của thơ ca giai đoạn này. Thơ Vương
Trọng, Hoàng Nhuận Cầm, Nguyễn Duy, Nguyễn Đức Mậu đã đáp ứng đòi
hỏi hơn bao giờ hết của đời sống là phải dựng lên được tầm vóc của cuộc
chiến tranh giải phóng và hình ảnh của thế hệ cầm súng hôm nay. Các nhà thơ
có khả năng thâm nhập rất nhanh chóng vào những vấn đề cơ bản của thời
đại. Hình tượng người chiến sĩ được miêu tả xác thực hơn với những chi tiết
cụ thể, gần gũi của đời sống mà vẫn không kém phần tinh tế, mềm mại :
Pháo thủ mặt gầy da đen nhẻm
Mũ sắt hai cân có lửa bừng
Muốn nguôi cơn khát cơn say nắng
Tán chuyện chanh chua với khế rừng
...
13
(Khát – Nguyễn Đức Mậu)
Nhận thức về chiến tranh, về thế hệ mình của người chiến sĩ được
nâng lên một bước. Họ biết gắn bó giữa tình cảm riêng tư với tình cảm
chung của dân tộc, thể hiện quan niệm về tình yêu, hi sinh mất mát nhưng
không được cắt nghĩa như ở giai đoạn sau này mà chủ yếu hướng về ý
nghĩa anh hùng cao cả :
Đời ông đời cha đã đánh giặc theo nhau
Càng thương đến đời con cha càng phải gắng
Dân tộc dám hi sinh cả một thế kỉ tròn để làm nên chiến thắng
Thì không lứa tuổi nào được một phút chùn chân.
(Bằng Việt)
Có thể thấy, người lính lái xe trong thơ Phạm Tiến Duật dưới vẻ
ngoài hồn nhiên, ngang tàng :
Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già

Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
(Tiểu đội xe không kính)
Cho đến anh lính trẻ măng trong thơ Hoàng Nhuận Cầm, tinh tế và
hồn nhiên đến nỗi nằm trên đồi vẫn say sưa đến xốn xang với tiếng chim kể
chuyện :
Mũ tai bèo khẽ nghiêng nghiêng
Nghe lăn lăn những tiếng chim xuống hầm
...
14
Tất cả đều đã ý thức sâu sắc về trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với
vận mệnh của dân tộc.ý thức thế hệ ở người lính đã phát triển là kết quả của
một quá trình nhập cuộc của các nhà thơ trẻ. “Chiến trường đã trở thành
điểm hội tụ cảm xúc, suy nghĩ của mọi người làm thơ. Nhưng với người
chiến sĩ nhận thức cuộc đời này bằng sự sống chết của chính mình thì từ
điểm hội tụ ấy các anh nhìn mọi vấn đề của cuộc sống dưới một ánh sáng
mới nghiêm khắc hơn và cũng trong sáng, rạng rỡ hơn’’ { II.29}
Những năm cuối của cuộc chiến tranh, trong phong trào thơ trẻ,
người lính hiện lên với những rung cảm trữ tình, thâm trầm suy tư sâu sắc
về Tổ quốc, nhân dân. Họ thấm thía hơn với thực tế chiến đấu, có thời gian
hơn để suy cảm về chặng đường chiến đấu và số phận của thế hệ mình.Sở
dĩ như vậy vì các nhà thơ trẻ thời kì này đã đi sâu vào khám phá, lí giải
những vấn đề lớn của dân tộc. Họ chiêm nghiệm và đi đến xác nhận lại
những chân lí, những khái niệm được đặt ra: sức mạnh nhân dân, sức mạnh
của thế hệ mình:
Và cứ thế nhân dân thường ít nói
Như mẹ tôi lặng lẽ suốt đời
Và cứ thế nhân dân cao vời vợi
Hơn cả những ngôi sao cô độc giữa trời.
(Thanh Thảo)

Thế hệ chúng tôi bùng ngọn lửa chính mình
Soi sáng đường đi tới.
(Thanh Thảo)
Nhìn chung trong thơ trẻ chống Mĩ, gương mặt tinh thần của người
lính, con người lí tưởng của tuổi trẻ vẫn được hình dung ở sự kiên trung
...
15
quả cảm và ý chí cao cả nhưng nhận thức đã được đẩy đến độ sâu sắc ở tính
mục đích của hành động, quan niệm bộc lộ trên lối sống, trên những ứng
xử cụ thể. Đó là kết quả của những năm tháng các nhà thơ trẻ đã sống hết
mình với nhân dân, đất nước.
Không chỉ viết về người lính, thơ trẻ chống Mĩ còn khẳng định vai
trò quan trọng của nhân dân trên tiến trình nhận diện lịch sử. Từ năm 1964
khi đế quốc Mĩ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, cuộc kháng chiến chống
Mĩ cứu nước của dân tộc ta bước sang một giai đoạn mới gay go, căng
thẳng và vô cùng ác liệt. Phản ánh hiện thực cuộc kháng chiến chống Mĩ
cứu nước là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của văn học nói chung và
thơ ca nói riêng trong thời kỳ này. Đó không chỉ là đòi hỏi của thời đại mà
còn là sự thôi thúc bên trong của chính các nhà thơ. Nhanh nhạy và kịp
thời, nền thơ hiện đại nóng bỏng tính thời sự, hừng hực tinh thần "nhập
cuộc". Suốt những năm tháng chiến tranh, các thế hệ nhà thơ trẻ đã tiếp
bước nhau trên những trận tuyến chống quân thù với cảm hứng chủ đạo là
thể hiện khát vọng độc lập tự do và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con
người Việt Nam, dân tộc Việt Nam trong thời kỳ chống Mĩ. Để phát hiện
vẻ đẹp tâm hồn, sức mạnh của con người và toàn dân tộc, thơ trẻ chống Mĩ
đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử qua việc xây dựng hình tượng nhân dân anh
hùng.
Trước không khí hào hùng đầy chất sử thi của thời đại mới các nhà
thơ áo lính có một nhu cầu hết sức tự nhiên là muốn tổng kết, nhận diện lại
lịch sử một cách sâu sắc, trọn vẹn hơn. Muốn đáp ứng được nhu cầu lớn ấy,

một bài thơ trữ tình, những trang nhật ký... không thể chuyển tải hết cảm
xúc và tình cảm của nhà thơ. Trong thời đại mới này thơ không chỉ tự bằng
lòng đóng khung trong những bức tranh gọn hẹp, những cảm xúc ngắn gọn
mà có khát vọng vươn dài, nới rộng để khám phá và biểu hiện tầm vóc sử
...
16
thi của cuộc sống. Chính vì vậy, các nhà thơ đã tìm đến trường ca, một thể
loại có nhiều ưu thế trong việc chiếm lĩnh và phản ánh cả một khoảng
không gian, thời gian rộng lớn để dựng lên những chân dung và tính cách
hoàn chỉnh của người anh hùng, của nhân dân, của đất nước trong thời đại
chống Mĩ. Có thời gian nhìn lại những chặng đường đã qua, cùng với vốn
sống thực tế quý báu trong cuộc chiến trường kỳ nắm bắt thể tài ưu việt để
chuyển tài nội dung, các nhà thơ thế hệ thứ ba đã có một cái nhìn khá sâu
sắc trong việc tổng kết và nhận diện lịch sử. Lịch sử được nhìn nhận trong
nhiều chiều của thời gian, không gian, có mất mát hy sinh nhưng cũng cao
quý, tươi đẹp, có những trang hào hùng những chiến công nhưng cũng có
nhiều trang đầy máu và nước mắt.
Hơn bao giờ hết, nhân dân trở thành hình ảnh không thể thiếu trong
tiến trình nhận diện lại lịch sử. Con đường trở về với nhân dân chính là con
đường về với lịch sử. Chặng đường ấy có thể là Con đường của những vì
sao (Nguyễn Trọng Tạo) nhưng cũng có thể là cuộc hành trình đầy thử
thách, nghiệt ngã của Những người đi tới biển (Thanh Thảo). Bởi vì khi tới
biển, đâu phải là đã bình an về tới biển đâu phải là yên nghỉ. Khát vọng
được hiểu nhân dân Những ước muốn thèm khát đơn sơ. Cứ day dở bên
này bên nọ. Các nhà thơ trẻ đã nhận ra nhân dân chính là những con người
đã sáng tạo nên lịch sử của dân tộc. Họ là những người bình dị, vô danh
luôn thầm lặng hy sinh không ai nhớ mặt đặt tên nhưng đã làm nên đất
nước.
Tư tưởng nhân dân vốn là một đặc điểm cơ bản của văn học cách
mạng và văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong mỗi thời kỳ,

tư tưởng ấy đều có những cách thể hiện khác nhau. Trong thơ ca chống Mĩ,
tư tưởng này trở thành nguồn cảm hứng dồi dào, vô tận cho các nhà thơ
khai thác. Họ đã xây dựng hình tượng nhân dân với tấm lòng biết ơn vô
...
17
hạn, những người đã đùm bọc cưu mang mình. Đồng thời bày tỏ lòng cảm
phục những gương hy sinh kiên cường anh dũng.
Sương nắng nghìn đời là hai tiếng nhân dân
Những gương mặt tôi chưa từng gặp mặt
Những câu chuyện nghe muốn dàn nước mắt
Những ngọn đèn vang núi vắng canh đêm.
( Vũ Quần Phương)
Từ hình tượng nhân dân, các nhà thơ nhìn ra sức mạnh của dân tộc:
Nhân dân căm hờn như núi dựng chông
Nhân dân yêu thương đồng dâng gạo trắng
Bom đạn giặc từ trời cao ném xuống
Nhân dân từ mặt đất trồi lên
(Con đường của những vì sao - Nguyễn Trọng Tạo)
Có thể nói, nhận thức về đất nước luôn gắn liền với nhận thức về
nhân dân. Đây cũng là một trong những nét nổi bật trong thơ trẻ thời kỳ
chống Mĩ. Điều đó càng chứng tỏ sức tìm tòi sáng tạo của thơ ca gắn liền
với cuộc sống chiến đấu của dân tộc. “Trước đây thơ được giới trẻ ưa thích
phần lớn vẫn là những bài thơ ngọt ngào, trong ấy có sự tinh tế của một hồn
thơ nhạy cảm, có quá nhiều tuổi thơ và kỉ niệm nhưng còn ít ỏi những hình
ảnh và âm hưởng của cuộc sống thực rộng lớn. Bây giờ đọc thơ trẻ, chúng
ta mừng là không chỉ bắt gặp tuổi trẻ của mình trong đó mà còn cảm nhận
được cái hơi thở, cái không khí và dáng hình của cuộc sống thời đại mình
một cách chân thực và sinh động. Chính là những người tù chiến trường đã
thấy được chất thơ của sức sống tạo hình của cuộc chiến đấu” {I.6}.
...

18
Cuộc kháng chiến chống Mĩ một lần nữa thể hiện sức mạnh vô tận,
phẩm chất cao cả và những hi sinh vô cùng to lớn của nhân dân. Đây cũng
chính là cơ sở hiện thực cho sự trưởng thành của đội ngũ các nhà thơ trẻ,
trong đó có nhà thơ Thanh Thảo.
II. xu hướng sáng tạo hình tượng thơ Thanh thảo
Hình tượng nghệ thuật là sản phẩm của phương thức chiếm lĩnh
thể hiện và tái tạo hiện thực theo quy luật của nghệ thuật {1.4}. Nói một
cách khác hình tượng nghệ thuật là sự tái hiện đời sống nhưng không phải
là sự sao chép y nguyên mà tái hiện có chọn lọc sáng tạo. Khác với các loại
hình nghệ thuật khác tồn tại trực tiếp trên chất liệu, có thể quan sát từng
đường nét, hình khối như hình tượng nghệ thuật điêu khắc trên gỗ đá, hình
tượng hội hoạ trong tranh, hình tượng múa trên động tác, hình tượng thơ ca
bao giờ cũng tồn tại trong đời sống tình cảm, cảm xúc của con người .
Vì vậy, hình tượng thơ chính là hình tượng mang cảm xúc “Thơ
chính là ấn tượng còn lại mãi trong đời tác giả, thơ là những ám ảnh của
tâm hồn” (Nguyễn Trọng Tạo). Thanh Thảo quan niệm thơ “Thơ là chiếc lá
cháy lặng lẽ” chứ không phải là “những bó hoa mang tới chúc tụng”, thơ là
hạt giống. Có thể nói chính hình tượng thơ anh đã thâm trầm, âm ỉ thu hút
chất liệu của đời sống để rồi lại thôi thúc trí tưởng tượng của nhà thơ,
nhằm tái tạo chất liệu và đưa nó lên bình diện thẩm mỹ. Bằng lòng say mê
cuộc sống, bằng tài năng của mình với những câu thơ được cấu tạo một
cách gợi cảm, nhà thơ đã khiến hình tượng thơ ca có năng lực ghi nhận cái
tiêu biểu trong thực tế xã hội và trong đời sống tinh thần con người. Hình
tượng thơ Thanh Thảo đọng lại mãi trong lòng người đọc bởi nhà thơ đã
trải qua một quá trình lao động thật miệt mài, nghiêm túc.
Càng ý thức được điều đó, Thanh thảo càng cố gắng tích luỹ vốn
sống bằng cách hoà mình vào cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ, ác liệt của
...
19

dân tộc. Nhà thơ có lần tâm sự anh và thế hệ anh “ đã mất máu và mất
những tháng năm tuổi trẻ để “nhìn rõ mặt mình”, để xác lập vị trí của mình
trong văn học. Đó là thế hệ “tự ý thức” như bây giờ các nhà phê bình vẫn
gọi.”{I.21}.Trong thế giới nghệ thuật thơ mình, Thanh Thảo đã xây dựng
nên một hệ thống hình tượng nghệ thuật đầy sức sống. Với quan niệm
“chiến tranh không làm nhiệm vụ sàng lọc thơ nhưng chiến tranh đẩy sâu
thơ về phía con người, dìm thơ vào số phận con người. Chiến tranh là một
phần của đời anh, phần nhiều cảm xúc nhất, đau xót nhất nhưng cũng đáng
tự hào nhất” (Văn Nghệ – thơ số 22 tháng 4 năm 2005), Thanh Thảo đã đưa
thơ mình gần gũi hơn với số phận con người, với cái sống và cái chết của
người lính, với nỗi đau và khát khao được chia sẻ hạnh phúc. Nhà thơ đã
xây dựng hình tượng cảm xúc trong thơ với vô vàn những chi tiết ngổn
ngang, bề bộn, phức tạp, sống động của hiện thực chiến trường. Bom đạn
huỷ diệt sự sống nhưng không làm mất đi chất trẻ trung, trong sáng của
hình tượng người chiến sĩ và hình tượng nhân dân trong thơ anh. Đó là kết
quả của quá trình thâm nhập , hoà mình vào cuộc sống chiến đấu đầy gian
khổ ác liệt của dân tộc.
Thanh Thảo - Hồ Thành Công, quê ở Đức Tân, Mộ Đức, tỉnh Quảng
Ngãi, một trong những nhà thơ khá nổi bật trong đội ngũ các nhà thơ trẻ thế
hệ thứ ba trong phong trào thơ trẻ chống Mĩ. Sở trường của ông là ở thể
loại trường ca với hơi thơ dài, giàu chất triết lí khái quát với mạch ngầm
cảm xúc tuôn chảy trữ tình bên cạnh những tập thơ với nhiều khám phá
độc đáo và giàu sáng tạo.Thanh Thảo đã tạo đựơc cho mình một ấn tượng
riêng trong làng thơ.
Thời kì Thanh Thảo bước vào cuộc chiến đấu ngoài mặt trận, đó là
thời kì cuối những năm 60 của thế kỉ XX khi cuộc kháng chiến chống Mĩ
bước vào giai đoạn khốc liệt nhất. Thanh Thảo cùng nhiều nhà văn nhà thơ
...
20
khác khoác ba lô vào chiến trường, tự nguyện làm người chiến sĩ trong cuộc

chiến đấu vì Tổ quốc. Các anh thực sự là đồng đội của những người chiến sĩ,
lăn lộn trong chiến hào, trong từng chiến dịch, vừa cầm súng vừa sáng tác
nghệ thuật. Những bài thơ đã ra đời trong chiến hào, trên đường hành quân,
bên bếp lửa rừng trong lán lứa chiến khu, giữa hai loạt bom, phút im lặng giữa
hai trận đánh, hay cuộc chống càn, qua những trận sốt rét và những cơn đói
triền miên. Điều đó thực sự là những viên gạch đặt móng cho một thời đại văn
học. Với cá nhân Thanh Thảo, lửa chiến trường đã tôi luyện ý chí và nung nấu
những suy nghĩ, tác động mạnh mẽ đến tình cảm, cảm xúc của nhà thơ.
Từ đỉnh cao của những chiến công vang dội trong nhiều tháng năm
oanh liệt của cuộc chiến đấu, tầm nhìn và nhận thức của Thanh Thảo được
mở rộng. Thơ Thanh Thảo là tiếng nói của một thế hệ sinh ra và lớn lên
trong lòng nôi của cách mạng, là tiếng nói những người trực tiếp xung kích
trên mặt trận chống quân thù. Nhà thơ trở thành một trong những gương
mặt tiểu biểu của phong trào thơ trẻ chống Mĩ cứu nước.
Sự hiện diện của Thanh thảo trong thời kì cuối của cuộc kháng chiến
chống Mĩ cứu nước là sự tiếp sức trong đội ngũ các nhà thơ trẻ. Song
Thanh Thảo vẫn đem đến một tiếng thơ mới mẻ, một dáng dấp riêng cho
thơ ca kháng chiến chống Mĩ.
Phản ánh hiện thực trong những năm chiến tranh, các nhà thơ đều có
xu hướng tập trung khắc hoạ hình tượng người lính, hình tượng Tổ quốc
nhân dân. Những hình tượng nghệ thuật này không còn là vấn đề mới mẻ,
tuy nhiên đến Thanh Thảo, hình ảnh người chiến sĩ quân giải phóng và
nhân dân anh hùng vẫn có nét độc đáo và một sức sống bền vững, có khả
năng được củng cố và phát triển trong những giai đoạn lịch sử sắp tới. Trên
cái nền cơ bản là người lính yêu nước có tinh thần quả cảm không sợ gian
khổ hy sinh, Thanh Thảo tiếp tục thể hiện hình tượng nhân dân và người
...
21
chiến sĩ với thế giới nội tâm sâu sắc, với ý thức mãnh liệt về thế hệ mình.
Hình ảnh người lính là hình ảnh tập trung nhất, rõ nét nhất của con người

Việt Nam trong chiến đấu. Trong cuộc chiến trường kì và gian khổ đó,
nhân dân Việt Nam đã chịu đựng biệt bao hy sinh tổn thất…
Lấy hiện thực cuộc sống sôi động, khắc nghiệt của chiến trường làm
nền, Thanh Thảo đã xây dựng bức chân dung người lính và nhân dân Việt
Nam theo chiều dài lịch sử đẹp và đầy sức ám ảnh. Đây chính là cái đẹp đã
được chọn lọc, kết tinh và thăng hoa từ cuộc sống, thể hiện cái nhìn hiện
thực sắc sảo của nhà thơ .
Từ những bài thơ đầu tay năm 1974 trên tạp chí Tác phẩm mới cho
tới nay, hành trình thơ của Thanh thảo vẫn tiếp tục. Theo dấu chân của
những nhà thơ lớp trước, nhà thơ cũng hướng ngòi bút của mình vào hiện
thực khốc liệt của cuộc chiến. “ Những vùng trời, vùng đất trong thơ Thanh
Thảo cũng khá nhiều nhà thơ khác trong giai đoạn này đựơc mở ra gần như
thuận chiều với sự mở ra, đi tới của những bước chân người lính trẻ cùng
thế hệ họ” [ II. 38] . Trực tiếp cầm súng chiến đấu, lăn lộn với nhân dân
vùng sát nách giặc, thấm thía với những gian khổ thiếu thốn ngoài mặt
trận… nhà thơ đã có những suy cảm sâu xa về từng chặng đường chiến
đấu, từng gương mặt con người. Phản ánh cuộc đấu tranh đó vừa là trách
nhiệm, vừa là niềm say mê, là nơi thử sức lâu dài của Thanh Thảo.
Thơ Thanh Thảo đi sâu khám phá chân dung của thế hệ trẻ “ Những
bài thơ của các nhà thơ lớp trước viết về người lính trẻ đã gây xúc động
trong lòng người đọc. Nhưng phải đến thơ Thanh Thảo thì bức chân dung
tinh thần của cả một thế hệ trẻ cấm súng mới thực sự hoàn chỉnh. Họ là anh
bộ đội, là những cô gái thanh niên xung phong ở khắp các chiến trường
đáng Mĩ và có thể gọi bằng một cái tên chung : Người lính” [ III. 49]
...
22
Sau tập thơ Dấu chân qua trảng cỏ được tặng thưởng của Hội nhà
văn và trường ca Những người đi tới biển được dư luận đánh giá cao, bộ
ba trường ca Những ngọn sóng mặt trời (Những nghĩa sĩ Cần Giuộc, Bùng
nổ của mùa xuân, trẻ con ở Sơn Mĩ) đã đánh dấu bước tiến mới của Thanh

Thảo cả về tư tưởng lẫn nghệ thuật.
Với Dấu chân qua trảng cỏ và Những người đi tới biển, Thanh
Thảo đã khắc hoạ hình ảnh người lính trẻ trong vẻ đẹp mộc mạc thô sơ mà
hực sáng, trong ý thức về trách nhiệm, số phận của thế hệ mình trước Tổ
quốc, nhân dân qua giọng thơ thâm trầm sâu lắng.
Từ hình ảnh :
Những thằng lính trẻ măng
quân phục xùng xình
chen bám ở bậc toa như chồi nụ
(Một người lính nói về thế hệ mình)
Đầy trẻ trung, đầy chất sống ngày lên đường ra trận, trên mỗi chặng đường
hành quân, người chiến sĩ lại được tác giả miêu tả rất đặc biệt:
Chúng con đi như những dòng sông chảy xiết
Chúng con đi rung từng trận gió rừng
Cả thế hệ xoay trần đánh giặc
Mặc quần đùi khiêng pháo lội qua bưng
(Những ngôi sao của mẹ)
Chính họ đã đưa ra một tuyên ngôn cho cuộc đời mình:
Những tráng ca thuở trước
Còn hát trong sách thôi
Những thanh gươm yên ngựa
...
23
Giờ đã cũ mèm rồi
Bài ca của chúng tôi
Là bài ca ống cóng
….
Mang lẽ đời đơn giản
Nói được tới ngày mai
(Bài ca ống cóng)

Cũng bởi một lý do:
Không ai có thể chọn để được sinh ra
Nhưng chúng tôi đã chọn cánh rừng phút giây năm tháng ấy
Những người lính của Thanh Thảo đã tấu lên khúc nhạc lính Việt trong thơ
thật độc đáo.
Thơ Thanh Thảo có khả năng khơi dậy những suy nghĩ của người
đọc bởi vì đó là thơ của một tâm hồn giàu suy tưởng, đầy chất trí tuệ.
Trước một sự vật, sự việc nhỏ bé cũng như trước những vấn đề lớn của
cuộc sống con người, nhà thơ bao giờ cũng khao khát muốn hiểu biết một
cách thấu đáo và Thanh Thảo muốn thơ mình góp phần lý giải mọi vấn đề
đó.
Với sự xuất hiện liên tục các trường ca Những ngọn sóng mặt trời,
Bùng nổ của mùa xuân, Những nghĩa sĩ Cần giuộc, qua cái nhìn trầm tĩnh
sắc sảo, nhà thơ như muốn tiếp cận lịch sử, trở về với cội nguồn sâu xa nhất
làm nên sức mạnh của dân tộc, từ đó thấy được vai trò quan trọng của nhân
dân. Có thể nói những suy nghĩ về nhân dân là sợi chỉ đỏ xuyên suốt những
sáng tác của Thanh Thảo và được thể hiện tập trung hơn, sâu sắc hơn trong
Những ngọn sóng mặt trời . Nhân dân chính là đông đảo những nghĩa sĩ
...
24
Cần Giuộc, những du kích BaTơ và hàng vạn những con người như Tám
Hùng, BaTốt, như cô gái giao liên, như người xã đội trưởng vùng ven,
những người mẹ anh hùng: mẹ Khơ me, mẹ Quảng Bình…. đã tạo nên
dáng hình xứ sở. Trong trường ca Bùng nổ của mùa xuân, tác giả thể hiện
khát vọng tự do mãnh liệt không sức mạnh nào dập tắt nổi của nhân dân.
Trong nhân dân mỗi con người đều ẩn kín một ngọn lửa. Cách mạng là
ngọn gió thổi bùng đúng lúc ngọn lửa đó. Trường ca Trẻ con ở Sơn Mĩ ,
qua hình tượng những em bé bị giặc Mĩ giết hại, đã thể hiện sức sống mãnh
liệt của nhân dân đồng thời gửi gắm niềm hy vọng vào thế hệ tương lai.
“Hình ảnh lũ sát nhân bị chìm đi, và những đứa trẻ lại trở về tái sinh bất

diệt trong lòng nhân dân… Tuy đề tài, cấu tứ cụ thể khác nhau song những
trường ca của Thanh Thảo đều dựng lên hình tượng nhân dân hùng vĩ có
chiều dài hơn suốt một thế kỉ” [ II.43]. Qua các trường ca ấy, Thanh Thảo
hiểu thêm nhân dân cao vòi vọi của dân tộc mình.
Sau 1975, Thanh Thảo mở rộng phạm vi ngòi bút của mình khắc hoạ
những cung bậc đa thanh của đời sống thường nhật sau chiến tranh để tìm
ra những giá trị đích thực của đời sống. Tuy nhiên, người viết không có ý
định đi sâu nghiên cứu mảng thơ này nên chỉ nhắc đến để bạn đọc dễ hình
dung hơn diện mạo thơ của Thanh Thảo.
Theo thiển ý của người viết, thành công và những sáng tạo mới mẻ
của Thanh Thảo tập trung vào đề tài về chiến tranh là chủ yếu. Người viết
sẽ tiếp tục triển khai vấn đề này ở các chương tiếp theo.

×