Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Mối quan hệ giữa Triết học và khoa học máy tính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.59 KB, 22 trang )

Mối quan hệ giữa Triết học và khoa học máy tính 1
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 2
PHẦN NỘI DUNG 4
2. Phép biện chứng và phép siêu hình với khoa học máy tính 11
3. Mối quan hệ giữa triết học và khoa học máy tính 16
3.1. Khoa học máy tính là một thế giới vật chất 16
3.2. Thế giới vật chất tồn tại khách quan 17
3.3. Sự vận động và phát triển của thế giới vật chất 18
3.4. Nguồn gốc vận động, phát triển của sự vật và hiện tượng 20
PHẦN KẾT LUẬN 21
TÀI LIỆU THAM KHẢO 22
Mối quan hệ giữa Triết học và khoa học máy tính 2
PHẦN MỞ ĐẦU
Lịch sử hình thành và phát triển hơn hai nghìn năm của triết học và khoa
học tự nhiên nói chung và khoa học máy tính nói riêng đã cho thấy hai lĩnh vực
tri thức ấy luôn có mối liên hệ mật thiết với nhau mà còn chứng minh rằng, triết
học duy vật biện chứng tìm thấy ở khoa học tự nhiên những cơ sở khoa học
vững chắc để khái quát nên những nguyên lý, quy luật chung nhất của mình,
còn khoa học tự nhiên lại tìm thấy trong triết học duy vật biện chứng thế giới
quan, phương pháp luận đúng đắn, sắc bén để đi sâu nghiên cứu giới tự nhiên.
Việc nghiên cứu và nắm vững mối quan hệ này có vị trí và vai trò rất quan
trọng trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, đặc biệt trong công tác giảng dạy
và nghiên cứu các môn lý luận chính trị nói chung, triết học nói riêng, cũng như
trong nghiên cứu, giảng dạy các ngành khoa học tự nhiên.
Trong những năm gần đây, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại
phát triển như vũ bão, cũng như những biến động cách mạng lớn lao làm thay
đổi tận gốc rễ bộ mặt của cuộc sống xã hội, đòi hỏi các nhà triết học và các nhà
khoa học chuyên môn giải quyết đúng đắn và kịp thời những yêu cầu lý luận và
thực tiễn cấp bách. Sự giải đáp này chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở nắm
vững và vận dụng một cách đúng đắn và sáng tạo thế giới quan và phương pháp


luận triết học của chủ nghĩa Mác - Lênin. Do đó việc nghiên cứu những vấn đề
về mối quan hệ giữa triết học và khoa học cụ thể và vấn đề về chức năng phương
pháp luận của triết học đối với các khoa học cụ thể có ý nghĩa quan trọng.
Vào hè năm 1965, nói chuyện ở Ủy ban Khoa học kỹ thuật Nhà nước,
đồng chí Phạm Văn Đồng dặn dò: “Các đồng chí cần tự rèn luyện và giúp người
khác rèn luyện phương pháp và tác phong con người làm công tác khoa học và
kỹ thuật, phương pháp suy nghĩ, phương pháp làm việc, phương pháp nghiên
cứu, phương pháp giải quyết vấn đề, phương pháp trình bày, … và tác phong
điều tra, nghiên cứu, tác phong chính xác, …”. Đối với Nhà trường đồng chí nói:
“Ở trường Đại học, điều chủ yếu là học phương pháp bên cạnh việc học được
Mối quan hệ giữa Triết học và khoa học máy tính 3
điều này điều nọ. Điều này điều nọ có người nói là sau 8 - 10 năm, có thể là sau
15 năm sẽ trở nên lạc hậu. Cái còn lại đáng quý là phương pháp. Nếu anh tự vũ
trang được một phương pháp vững mạnh thì anh dùng nó suốt đời vì anh phải
học mãi mãi.” (Bài nói chuyện trước Đại hội Đại biểu lần thứ tư Hội liên hiệp
học sinh đại học Việt Nam). Như vậy, ngay từ những thập niên 1960 -1970, các
đồng chí lănh đạo Đảng và Nhà nước đã thấy rõ được tầm quan trọng của việc
nghiên cứu mối quan hệ giữa Triết học Mác và các khoa học cụ thể, và chỉ có
việc nắm vững, nghiên cứu và vận dụng sáng tạo những tư tưởng về các vấn đề
này của các tác gia kinh điển của Chủ nghĩa Mác - Lênin mới có thể thực hiện
được những vấn đề mà các đồng chí lãnh đạo đã dặn dò.
Triết học tác động vào khoa học tự nhiên nói chung và khoa học máy tính
nói riêng trước tiên là thông qua thế giới quan và phương pháp luận khoa học.
Như chúng ta đã biết, V.I.Lênin đã nói đến ý nghĩa to lớn của phương pháp biện
chứng duy vật của chủ nghĩa Mác đối với khoa học tự nhiên. Chủ nghĩa duy vật
biện chứng, với tính cách là phương pháp luận của khoa học tự nhiên, giúp cho
việc khái quát và giải thích đúng đắn những thành tựu mới của khoa học. Trong
những điều kiện ngày nay, khi khoa học tự nhiên đang ra sức tìm kiếm một lý
luận khái quát mới, những tư tưởng mới, thì việc chú ý đến những vấn đề
phương pháp luận là đặc biệt quan trọng. Con đường để làm phong phú và phát

triển chủ nghĩa duy vật biện chứng chính là ở đây và tác động chủ yếu của nó đối
với sự phát triển của khoa học cũng chính là ở đây. Nếu chúng ta không hiểu
điều này thì cũng có nghĩa là không hiểu gì về vai trò tích cực của triết học cũng
như về con đường phát triển của nó một cách sáng tạo.
Từ những lý do trên nên tôi quyết định chọn chủ đề nghiên cứu về “Mối
quan hệ giữa triết học và khoa học máy tính” làm đề tài tiểu luận của bản thân.
Mối quan hệ giữa Triết học và khoa học máy tính 4
PHẦN NỘI DUNG
1. Mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên
Lịch sử phát triển của triết học cũng như của khoa học tự nhiên đã cho
thấy, không phải bất kỳ trào lưu triết học nào cũng giữ vai trò là thế giới quan và
phương pháp luận đúng đắn đối với khoa học tự nhiên, thúc đẩy khoa học tự
nhiên phát triển, và ngược lại, không phải các thành tựu của khoa học tự nhiên là
cơ sở khoa học để chứng minh cho những luận điểm của mọi trào lưu triết học.
Xuất phát từ hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người ngày một
cao hơn, những hiểu biết về những quy luật vận động của tự nhiên, xã hội ngày
một phát triển, các nguyên lý, các lý thuyết về thiên văn học, toán học, vật lý,
hoá học,… dần dần được tích luỹ với những phát triển của khoa học triết học nói
chung và khoa học cụ thể nói riêng. Thực tế đã cho thấy, càng đi sâu vào nghiên
cứu các hiện tượng khác nhau của tự nhiên, khoa học tự nhiên càng vấp phải
nhiều vấn đề mà tự nó không giải quyết được vì những vấn đề đó tuy gắn bó mật
thiết với khoa học tự nhiên nhưng lại là những vấn đề triết học. Điều này đã
được A. Einstein khẳng định: “Những khó khăn mà vật lý hiện nay đang vấp
phải trong lĩnh vực của mình đã buộc ông ta phải đề cập đến những vấn đề triết
học nhiều hơn so với các nhà vật lý của các thế hệ trước”.
Quan hệ giữa triết học với khoa học tự nhiên, với các khoa học chuyên
biệt nói chung trải qua quá trình lịch sử lâu dài. Vào thời cổ đại, do trình độ
nhận thức còn đang ở điểm xuất phát, tri thức khoa học còn ở tình trạng tản mạn,
sơ khai, nên triết học hầu như là dạng thức lý luận duy nhất, bao trùm, giải quyết
tất cả các vấn đề về tự nhiên, xã hội và tư duy, mà lúc ấy thực ra cũng chỉ là

những phác thảo sơ lược, chưa thấy cụ thể, chưa hoàn thiện. Tính bao trùm ấy
của tri thức triết học khiến nó được xem như “môn khoa học đặc biệt đứng trên
tất cả các môn khoa học khác”. Quan niệm này tồn tại khá lâu trong lịch sử và
Ph. Ăngghen đã gọi hệ thống Hegel là “cái thai đẻ non cuối cùng” theo nghĩa
này. Tuy nhiên, như chúng ta đã biết, cùng với quá trình chuyên biệt hoá tri
Mối quan hệ giữa Triết học và khoa học máy tính 5
thức, triết học, xét về tính chất của nó không còn đóng vai trò là “khoa học của
các khoa học” nữa. Trong thời đại của chúng ta các nhà khoa học có thể trở
thành những triết gia, chứ không phải ngược lại. Ý tưởng “triết học – khoa học
của các khoa học” biểu thị một truyền thống, hơn là thực chất của vấn đề. Ngày
nay, đứng trước sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ, thì những khái niệm, những phạm trù, những tư tưởng, những phương
pháp nghiên cứu mới không ngừng ra đời. Mặt khác, cuộc cách mạng ấy cũng
đang đặt ra hàng loạt vấn đề về phong thái tư duy khoa khọc, về những bước
phát triển mới của nhận thức, của khoa học trong tương lai. Và đứng trước
những đổi thay lớn lao của cách mạng khoa học – công nghệ, đặc biệt là khoa
học tự nhiên hiện đại, thì nhà khoa học không còn có thể chỉ dừng lại ở những
vấn đề chuyên môn hẹp của mình, họ không chỉ vấp phải những vấn đề phương
pháp luận mà cả những vấn đề triết học do chính lĩnh vực của mình đặt ra và
buộc họ phải suy nghĩa để giải quyết. Như Max Born (1882-1970) – nhà vật lý
lý thuyết người Anh, một trong những người sáng lập ra cơ học lượng tử, đã
nhận xét: “Mỗi nhà vật lý đều tin tưởng sâu sắc rằng công việc của ông ta quyện
chặt với triết học, và nếu không có sự hiểu biết nghiêm túc tài liệu triết học thì
đó sẽ là một việc làm hết sức vô ích. Bản thân tôi đã chịu sự chi phối của tư
tưởng đó và tôi cố gắng truyền nó cho học trò của mình”. Lâu nay một số người
quan tâm đến triết học đã có sự ngộ nhận rằng, triết học là một khoa học chỉ
thuộc về nội dung của phạm trù khoa học xã hội – nhân văn. Nhưng ngược dòng
thời gian, chúng ta biết rằng, ngay từ khi mới ra đời, triết học và khoa học tự
nhiên đã không tách rời nhau và được gọi bằng một tên chung: Triết học tự
nhiên, bắt đầu từ khoa học tự nhiên. Nhưng như chính C. Mác và Ph. Ăngghen

đã khẳng định, việc khôi phục triết học tự nhiên theo nghĩa đen của nó, vào thời
kỳ nửa sau của thế kỷ XIX là điều không thể. Bởi vì, khoa học triết học và các
khoa học cụ thể hiện nay đã tồn tại trong môi trường mới với những yêu cầu mới
được đặt ra từ cuộc sống và từ vấn đề học thuật. Tuy vậy, mối liên hệ giữa triết
học và khoa học tự nhiên không vì thế mà giảm đi ảnh hưởng tác động lẫn nhau.
Mối quan hệ giữa Triết học và khoa học máy tính 6
Đặc biệt là mối quan hệ giữa triết học duy vật biện chứng và khoa học tự nhiên
là mối quan hệ qua lại, nương tựa lẫn nhau, thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển.
Có thể nói rằng, từ khi chủ nghĩa duy vật biện chứng ra đời thì mối quan hệ giữa
triết học và khoa học tự nhiên mới thật sự bước sang một giai đoạn mới.
Từ những thành tựu của khoa học tự nhiên hiện đại trong thế kỷ đã tạo
nên những cuộc tranh luận ngày càng gay gắt về sự nhận thức của con người đối
với thế giới. Chính điều này đã buộc các nhà khoa học tự nhiên phải tìm đến với
một thế giới quan triết học đúng đắn để từ đó lý giải những vấn đề cụ thể trong
lý thuyết khoa học của mình. Như Albert Einstein đã viết: “Các kết quả nghiên
cứu khoa học thường gây nên những sự thay đổi trong các quan điểm triết học
đối với những vấn đề vượt ra ngoài phạm vi của những lĩnh vực rất hạn chế của
bản thân khoa học”. Nghiên cứu mối quan hệ giữa triết học duy vật biện chứng
và khoa học tự nhiên chẳng những giúp cho các nhà triết học hiểu biết thêm
những tri thức về khoa học tự nhiên mà còn làm cho họ thấy rõ được cơ sở khoa
học chính xác, khách quan để triết học dựa vào đó khái quát thành những
nguyên lý, những quy luật và những phạm trù triết học. Đồng thời, nghiên cứu
mối quan hệ giữa triết học với khoa học tự nhiên đã giúp cho các nhà khoa học
tự nhiên nhận thức và vận dụng một cách đúng đắn, sáng tạo thế giới quan duy
vật biện chứng và phương pháp luận khoa học vào quá trình nghiên cứu khoa
học tự nhiên, làm cho họ luôn luôn ý thức được rằng, chỉ có cho mình một
phương pháp biện chứng duy vật thì họ mới có thể tiến xa hơn, đi sâu hơn vào
các lĩnh vực mà họ đang và sẽ nghiên cứu. Khi đưa ra nhận định về con đường
phát triển phức tạp của vật lý học V.I.Lênin đã viết: “Vật lý học hiện đại đang và
sẽ đi, nhưng nó đi tới phương pháp duy nhất đúng, đi tới triết học duy nhất đúng

của khoa học tự nhiên, không phải bằng con đường thẳng, mà bằng con đường
khúc khuỷu, không phải tự giác mà tự phát, không nhìn thấy rõ “mục đích cuối
cùng” của mình, mà đi đến mục đích đó một cách mò mẫm, ngập ngừng và thậm
chí đôi khi giật lùi nữa. Vật lý học hiện đại đang nằm trên giường đẻ. Nó đang
đẻ ra chủ nghĩa duy vật biện chứng. Một cuộc sinh đẻ đau đớn. Kèm theo sinh
Mối quan hệ giữa Triết học và khoa học máy tính 7
vật sống và có sức sống, không tránh khỏi một vài sản phẩm chết, một vài thứ
cặn bả nào đó phải vứt vào sọt rác. Toàn bộ chủ nghĩa duy tâm vật lý học, toàn
bộ triết học kinh nghiệm phê phán, cũng như thuyết kinh nghiệm tượng trưng,
v.v… đều thuộc những thứ cặn bả phải vứt bỏ đi ấy”. Nghiên cứu mối quan hệ
giữa triết học và khoa học tự nhiên còn góp cho con người thấy rõ được nguồn
gốc chung của sự nảy sinh triết học và khoa học tự nhiên đó là giới tự nhiên;
giúp cho chúng ta thấy được rằng, sự liên kết giữa triết học và khoa học tự nhiên
là không thể tránh khỏi và sự hợp tác giữa các nhà triết học với các nhà khoa
học tự nhiên là một tất yếu lịch sử. Bởi, nếu không có sự liên kết và hợp tác đó
thì chẳng những triết học và khoa học tự nhiên không thể tiến lên được mà các
nhà triết, các nhà khoa học tự nhiên cũng không thể chiến thắng nổi trong cuộc
đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo vốn đã kìm hãm và trói buộc
sự phát triển của triết học và khoa học tự nhiên.
Trong mối quan hệ giữa triết học duy vật và khoa học tự nhiên, một mặt,
các khoa học cụ thể đem đến cho triết học chất liệu sống, căn cứ vào đó các nhà
triết học nêu lên và luận chứng các quan điểm của mình phù hợp (dù không bao
giờ có tính tuyệt đối) với những biến đổi của lịch sử, và góp phần cùng những
lĩnh vực tri thức khác dự báo, gợi mở những vấn đề của tương lai. Mặt khác,
triết học mà tiêu biểu là chủ nghĩa duy vật biện chứng, đóng vai trò lớn đối với
các nhà khoa học, vai trò đó có thể tìm thấy ở cơ sở thế giới quan và phương
pháp luận của triết học. Như Ph. Ăngghen đã viết: “Những nhà khoa học tự
nhiên tưởng rằng họ thoát khỏi triết học bằng cách không để ý đến nó hoặc phỉ
báng nó… Những ai phỉ báng triết học nhiều nhất lại chính là những kẻ nô lệ
của những tàn tích thông tục hoá, tồi tệ nhất của những học thuyết triết học tồi tệ

nhất. Dù những nhà khoa học tự nhiên có làm gì đi nữa thì họ cũng vẫn bị triết
học chi phối. Vấn đề là ở chỗ họ muốn bị chi phối bởi một thứ triết học tồi tệ
hợp mốt, hay họ muốn được hướng dẫn bởi một hình thức tư duy lý luận dựa
trên sự hiểu biết về lịch sử tư tưởng và những thành tựu của nó”.
Mối quan hệ giữa Triết học và khoa học máy tính 8
Bên cạnh các khám phá thời đại ấy trong khoa học tự nhiên, được cổ vũ
bởi sự phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng của kinh tế, kỹ thuật, mỗi ngành đều để
lại dấu ấn của mình lên các trang vàng của lịch sử, nhất là từ nửa sau thế kỷ
XIX. Những thành tựu của khoa học tự nhiên đã chứng minh được tính chất biện
chứng của các quá trình diễn ra trong tự nhiên. Chính sự phát triển của khoa học
tự nhiên, những thành tựu mới nhất của nó đã khiến cho phương pháp tư duy
siêu hình cần phải được thay thế. Theo Ph. Ăngghen, sự phát triển của khoa học
tự nhiên, những thành tựu mới nhất của nó từ thế kỷ XVI trở đi cho thấy tính tất
yếu của tư duy biện chứng, và chứng tỏ rằng, trong tự nhiên không có những
phạm trù và những quan hệ bất biến. Cũng chính từ việc khẳng định về tính tất
yếu của tư duy biện chứng như đã nêu trên nó giúp chúng ta đi tới khẳng định:
phép biện chứng chính là cơ sở phương pháp luận đối với khoa học tự nhiên,
giúp các nhà khoa học khắc phục những hạn chế trong khi tiếp cận với các vấn
đề lý luận chung. Điều này đã được Ph.Ăngghen luận giải: “Phép biện chứng là
một hình thức tư duy quan trọng nhất đối với khoa học tự nhiên hiện đại, bởi vì
chỉ có nó mới có thể đem lại sự tương đồng và do đó đem lại phương pháp giải
thích những quá trình phát triển diễn ra trong giới tự nhiên, giải thích những mối
liên hệ phổ biến, những bước quá độ từ một lĩnh vực nghiên cứu này sang một
lĩnh vực nghiên cứu khác”. Rõ ràng các nhà khoa học trước hết là những người
đang phải giải quyết những vấn đề cơ bản, những vấn đề có tính chất nền tảng
của khoa học, dù muốn hay không cũng buộc phải tìm đến triết học. Nhưng triết
học, như chúng ta đã biết, có nhiều trường phái khác nhau. Có triết học đúng,
khoa học, cũng có triết học sai lầm, phản khoa học. Vậy, trong tình hình phát
triển như vũ bảo của khoa học như hiện nay, thì thứ triết học nào thực sự là thứ
triết thực sự khoa học có thể đóng vai trò phương pháp luận phổ biến, đáp ứng

được đầy đủ yêu cầu của khoa học? Thực tiễn phát triển của khoa học hiện đại
đã chứng minh rằng, một phương pháp luận như thế chỉ có thể là phép biện
chứng duy vật.
Mối quan hệ giữa Triết học và khoa học máy tính 9
Như chúng ta đều biết, để có thể nhận thức được sự vật, đi sâu vào nghiên
cứu chúng, khám phá những bí ẩn của chúng, thì điều quan trọng đối với người
nghiên cứu là phải có trong tay những phương pháp, tức là các hình thức nắm
vững hiện thực về mặt lý luận và thực tiễn, xuất phát từ những quy luật vận
động của khách thể được nghiên cứu. Phương pháp không phải là những quy
luật vận động trình bày tùy tiện muốn như thế nào cũng được. Ngược lại, bao
giờ nó cũng được xây dựng trên cơ sở các quy luật khách quan của sự vật mà
con người đã nhận thức được. Phương pháp có nhiều loại, tùy thuộc vào tính
chất của các quy luật mà dựa vào đó phương pháp được xây dựng. Đối với
những khoa học riêng biệt chúng ta có quy luật riêng và đi cùng với nó là
phương pháp riêng. Với những quy luật chung hơn tác động trong nhiều nhóm
sự vật thì ta có phương pháp đặc thù. Nếu là quy luật mang tính phổ biến tác
động trong tất cả mọi lĩnh vực của tự nhiên, xã hội và tư duy thì chúng ta có
phương pháp chung nhất, áp dụng được cho tất cả mọi bộ môn khoa học. Một
phương pháp như vậy chỉ có thể là phương pháp biện chứng vì cơ sở khách quan
của nó là quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy do phép biện chứng
duy vật nghiên cứu. Điều đó có nghĩa là, nắm được phương pháp biện chứng,
tức là “phương pháp nắm sự vật và phản ánh sự vật trong tư tưởng, chủ yếu là
trong sự liên hệ, ràng buộc, vận động, phát sinh và tiêu vong của sự vật” nhà
khoa học sẽ có một công cụ hiệu nghiệm để nghiên cứu bất kỳ lĩnh vực khoa học
nào và ngược lại, trong bất kỳ lĩnh vực khoa học nào, người nghiên cứu muốn
đạt được chân lý thì cũng phải áp dụng phương pháp biện chứng. Nhà nghiên
cứu cần phải tuân theo phương pháp đó, không phải vì bị ai đó bắt buộc mà vì
bản thân khách thể nghiên cứu đòi hỏi phải như thế.
Nói như vậy không có nghĩa là chỉ cần nắm vững và vận dụng phương
pháp biện chứng là đã đủ để đạt tới chân lý trong từng lĩnh vực nghiên cứu cụ

thể. Phương pháp biện chứng là phương pháp chung nhất, phổ biến nhất, nhưng
cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu hiện sự tồn tại
của mình, bất cứ cái riêng nào cũng không được bao quát hoàn toàn trong cái
Mối quan hệ giữa Triết học và khoa học máy tính 10
chung. Vì vậy, phương pháp biện chứng cần phải được cụ thể hóa, cá biệt hóa
cho từng khoa học cụ thể.
Việc áp dụng phép biện chứng duy vật có thể diễn ra một cách tự giác,
cũng có thể diễn ra một cách tự phát. Lịch sử của khoa học đã chứng minh nhiều
trường hợp như vậy. Ví như: Từ hiện tượng năng lượng tách ra từ Ra, những
người theo chủ nghĩa Makhơ và thuyết duy năng ở cuối thế kỷ XIX đã rút ra kết
luận: chủ nghĩa duy vật đã bị phá sản. Do đó, họ cho rằng không cần tìm đại
biểu vật chất của các thuộc tính phóng xạ. Nhưng M. Curie – nhà khoa học thiên
tài người Pháp lại đặt vấn đề ngược lại: Khả năng phát ra các tia phóng xạ gắn
liền với cái gì? Với trạng thái vật lý tạm thời của vật thể như sự điện phân hay
đó là một thuộc tính cơ bản của các nguyên tử thuộc loại vật chất đặc biệt? Nếu
nó gắn liền với trạng thái vật lý tạm thời của vật thể thì trong trường hợp đó việc
tìm kiếm các nguyên tố phóng xạ sẽ là vô nghĩa. Nhưng nếu đó là một thuộc tính
cơ bản của các nguyên tử thuộc loại vật chất đặc biệt thì trong khi đo các phóng
xạ (vận động), cần tìm đại biểu vật chất của nó. Qua đây chúng ra thấy,
với những người theo chủ nghĩa Makhơ và thuyết duy năng, những kết luận của
họ chỉ đi tới sự kìm hãm của phát minh khoa học, phản khoa học. Còn với M.
Curie, việc áp dụng phép biện chứng một cách tự phát nhưng lại đi tới phát minh
khoa học. Hay như việc phát minh ra định luật tuần hoàn của các nguyên tố hóa
học của Mendeleev và một ví dụ điển hình khi nói về tác dụng của tư tưởng duy
vật biện chứng tới nghiên cứu khoa học tự nhiên. Điều này đã được Ph.
Ăngghen khẳng định: “Nhờ áp dụng – một cách không có ý thức – quy luật của
Hegel về sự chuyển hóa lượng thành chất, Mendeleev đã hoàn thành một kỳ
công khoa học có thể tự hào đứng ngang hàng với kỳ công của Joseph Le
Verrier (1811-1877) khi ông tính ra quỹ đạo của hành tinh sao Hải vương tinh
mà người ta chưa biết”.

Như vậy, chủ nghĩa duy vật biện chứng nói chung, phép biện chứng duy
vật nói riêng đã góp phần giúp cho các nhà khoa học nhìn nhận được sự vật
đúng như chúng vốn có, nhờ đó giúp nhà khoa học sớm phát hiện ra được sự
Mối quan hệ giữa Triết học và khoa học máy tính 11
thật và xây dựng các lý thuyết phản ánh sự vật một cách chính xác hơn, tránh
được các sai lầm phiến diện, giản đơn hay máy móc, giáo điều trong công tác
nghiên cứu của mình. Điều này càng có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn hiện
nay, khi mà khoa học đã có sự phân ngành ngày càng sâu sắc, khi mà khoa học
tự nhiên đã và đang đi vào những lĩnh vực chuyên môn rất hẹp và do đó dễ nhìn
sự vật một cách phiến diện. Đây cũng là vấn đề hết sức quan trọng trong bối
cảnh của việc tổng hợp tri thức khoa học ngày nay.
2. Phép biện chứng và phép siêu hình với khoa học máy tính
Vào thế kỷ XIX, trong lịch sử triết học và khoa học, người ta nói đến
phương pháp siêu hình là một phương pháp nhận thức khoa học, được đưa vào
khoa học từ nửa cuối thế kỷ XV và là yếu tố thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng
của khoa học. Đó là phương pháp nhận thức áp dụng trong khoa học với nội
dung là tập hợp, phân loại các tài liệu, sau đó mới so sánh, phân tích chia ra từng
loại, từng hạng và tìm mối quan hệ giữa các đối tượng tĩnh tại. Về phương pháp
này, Ph.Ăngghen nhận xét: “Những phương pháp nghiên cứu ấy đồng thời cũng
truyền lại cho chúng ta thói quen là xem xét các sự vật và các quá trình tự nhiên
trong trạng thái cô lập của chúng, ở bên ngoài mối liên hệ to lớn chung, và do đó
không xem xét chúng trong vận động mà là trong trạng thái tĩnh, không xem xét
chúng về căn bản là tiến hóa mà lại vĩnh viễn cố định; không xem xét chúng
trong trạng thái sống mà lại xem xét chúng trong rạng thái chết. Và khi các nhận
xét này được Bêcơn và Lốccơ đem từ khoa học sang triết học thì nó đã tạo ra một
sự hạn chế đặc biệt của những thế kỷ vừa qua, tạo ra phương pháp tư duy siêu
hình”. Như vậy, từ một phương pháp nhận thức khoa học, khi chuyển sang triết
học, đã trở thành một phương pháp tư duy có ý nghĩa phổ biến trong các hoạt
động khoa học thời bấy giờ, và cả trong mọi hoạt động khác của con người. Từ
đó, phương pháp tư duy siêu hình cũng có nghĩa là một quan điểm triết học trong

việc xem xét trạng thái tồn tại của thế giới, quan điểm siêu hình, phép siêu hình
đối lập với quan điểm biện chứng, phép biện chứng.
Quan điểm biện chứng và quan điểm siêu hình là hai cách xem xét trạng
Mối quan hệ giữa Triết học và khoa học máy tính 12
thái tồn tại của thế giới, đối lập nhau nhưng đồng thời cũng là hai cách tiếp cận
thế giới khác nhau: cách tiếp cận toàn bộ và cách tiếp cận trừu tượng hóa.
Về quan điểm biện chứng trong việc xem xét trạng thái của thế giới, lịch
sử triết học cũng đã biết đến nhiều người thời cổ Hy Lạp, trong đó có người đầu
tiên diễn đạt được rõ ràng nội dung là Hêracơlít mà Ph.Ăngghen đã tóm tắt như
sau: “mọi vật đều tồn tại nhưng đồng thời lại không tồn tại, vì mọi vật đều trôi đi,
mọi vật đều không ngừng thay đổi, mọi vật đều luôn luôn ở trong quá trình xuất
hiện và biến đi”. Và tiếp ngay đó, ông đã nói lên nhận xét về giá trị và hạn chế
quan điểm nói trên trong việc nhận thức thế giới: “Nhưng dù đã nắm đúng tính
chất chung của toàn bộ bức tranh các hiện tượng đến thế nào đi nữa, quan điểm
ấy vẫn không đủ để giải thích những chi tiết kết thành toàn bộ bức tranh ấy, và
chừng nào chúng ta chưa giải thích nổi các chi tiết thì chúng ta cũng chưa thể có
một quan niệm rõ rệt về bức tranh chung được”. Và để giải thích được các chi
tiết trong bức tranh chung luôn luôn vận động, biến hóa đó, Arixtốt đã đề ra
nguyên tắc đồng nhất trừu tượng, cơ sở của cách tiếp cận trừu tượng trong việc
nhận thức các đối tượng cụ thể trong hiện thực. Tình hình đó nói rằng, để nhận
thức được đúng đắn thế giới vốn diễn biến một cách khách quan và biện chứng,
cần có sự kết hợp của cả hai: cách tiếp cận nhận thức toàn bộ và biện chứng, trừu
tượng và siêu hình. Chỉ có như vậy mới có thể kết hợp được ưu điểm của cả hai
cách tiếp cận mà Ph.Ăng ghen cũng đã nói: “Nếu về chi tiết, chủ nghĩa siêu hình
là đúng hơn so với những người Hy Lạp, thì về toàn thể, những người Hy Lạp lại
đúng hơn so với chủ nghĩa siêu hình”. Trong thực tế cuộc sống thường ngày và
thường không tự giác, mọi người bình thường đều đã kết hợp sử dụng cả hai
cách tiếp cận trên. Trong khoa học, tình hình cũng như vậy, nhưng do đặc điểm
tư duy lý luận, đã có những vấn đề phức tạp hơn.
Tư duy lý luận trong khoa học bao giờ cũng phải dựa trên các khái niệm

được định nghĩa một cách chặt chẽ. Các khái niệm này phản ánh những đối
tượng khách quan, nằm trong mối quan hệ chằng chịt với những đối tượng khác,
và tất cả luôn luôn ở trong trạng thái vận động, rõ ràng là sự phản ánh này chỉ có
Mối quan hệ giữa Triết học và khoa học máy tính 13
thể được thực hiện trên cơ sở của cách tiếp cận trừu tượng hay siêu hình. Cách
tiếp cận này cho phép trừu tượng hóa các yếu tố, các mối liên hệ hoặc các tác
động qua lại không ảnh hưởng lớn đến trạng thái tồn tại của đối tượng được phản
ánh trong khái niệm. Chẳng hạn, cách thức hoạt động của máy tính điện tử là sự
tác động qua lại giữa các xung nhịp điện từ. Nhưng trong thực tế, đó là sự rung
động của các xung nhịp gây ra sự tỏa nhiệt. Có nghĩa là năng lượng cơ học từ
xung nhịp thứ nhất chuyển sang xung nhịp thứ hai không được bảo toàn, tức là
có hao hụt, do có một phần cơ năng biến thành nhiệt năng. Tuy vậy, những sự
tỏa nhiệt nói trên trong thực tế là rất nhỏ, nhỏ đến mức mà người ta có thể bỏ
qua, việc nghiên cứu cũng không bị ảnh hưởng, các kết luận của nó vẫn được coi
là đúng, vì khi áp dụng vào các tính toán kỹ thuật vẫn đem lại kết quả đúng như
dự đoán.
Như vậy, cách tiếp cận này đưa đến những khái niệm chỉ phản ánh gần
đúng những đối tượng khách quan, dựa trên một cái khuôn chung được quy định
bởi các nguyên tắc siêu hình, rõ ràng là cái khuôn siêu hình này, tức là quan
điểm siêu hình về trạng thái thế giới, không phản ánh đúng trạng thái tồn tại của
thế giới xét toàn bộ, nhưng ở trong một phạm vi nào đó thì nó phản ánh gần
đúng, nên các khái niệm được xây dựng trên cơ sở các quan điểm siêu hình vẫn
được sử dụng làm bậc thang của quá trình nhận thức các đối tượng khách quan
nằm trong phạm vi ấy. Đó là phạm vi của thế giới trung bình.
Phạm vi các hiện tượng của thế giới trung bình mà con người có thể trực
quan được là rất hẹp, các mối liên hệ giữa sự vật thu nhận được qua trực quan
cũng không nhiều, nhưng để có được các khái niệm, con người đã phải áp dụng
cách tiếp cận trừu tượng, siêu hình và cách tiếp cận này phù hợp với quan điểm
siêu hình về trạng thái thế giới. Trong thí dụ nói ở đoạn trên, khi trừu tượng hóa
sự biến dạng và sự tỏa nhiệt trong sự va chạm của hai xung nhịp, sự nghiên cứu

sẽ đơn giản hơn rất nhiều, mặt khác sự trừu tượng hóa đó thì hiện tượng xảy ra
lại phù hợp với quan niệm siêu hình là vận chất và vận động là tách rời nhau.
Trong giai đoạn đầu của sự phát triển của công nghệ thông tin, đặc điểm
Mối quan hệ giữa Triết học và khoa học máy tính 14
của đối tượng nghiên cứu là các sự vật của thế giới trung bình, đã tạo ra sự thống
nhất giữa hai mặt của phép siêu hình, quan điểm về cách tiếp cận nhận thức và
quan điểm về trạng thái, nhờ đó đã thúc đẩy sự phát triển của khoa học máy tính,
đem lại nhiều thành tựu rực rỡ. Đó là biểu hiện tích cực của chủ nghĩa duy vật
siêu hình, trong giai đoạn đầu của sự phát triển của khoa học máy tính.
Nhưng khoa học máy tính càng phát triển, với các đối tượng nghiên cứu là
hình thức vận động của vật chất, bề ngoài rất khác nhau và rất khác với vận động
cơ học, cách tiếp cận nhận thức trừu tượng, siêu hình, tách rời từng dạng vận
động để nghiện cứu đã không phù hợp, đòi hỏi phải chuyển mạnh sang cách tiếp
cận, nhận thức toàn bộ, biện chứng ở những mức độ khác nhau, tùy theo đối
tượng nghiên cứu. Ở đây xuất hiện mâu thuẫn giữa một bên là đối tượng nhận
thức giai đoạn sau cơ học, đòi hỏi phải thay đổi cách tiếp cận nhận thức và một
bên là quan điểm về trạng thái được cố định ở các khái niệm. Về mâu thuẫn này,
Ăngghen cũng đã đề cập tới khi ông nói rằng: “Phương pháp tư duy siêu hình dù
là chính đáng và cần thiết đến đâu đi nữa trong nhiều lĩnh vực, thì sớm hay muộn
thế nào nó cũng vấp phải một hàng rào mà vượt qua hàng rào đó thì nó sẽ trở
thành phiến diện, chật hẹp, trừu tượng và sa vào những mâu thuẫn không thể nào
giải quyết được”.
Để giải quyết những mâu thuẫn trên đã xuất hiện những tư tưởng biện
chứng trong một số nhà triết học và khoa học ngay trong giai đoạn cơ học và tiếp
diễn cho đến thế kỷ XIX khi Mác, Ăngghen sáng lập ra chủ nghĩa duy vật biện
chứng. Nhưng các tư tưởng biện chứng về mặt tự nhiên cũng không thể làm thay
đổi được nền móng đã có. Ph.Ăngghen đã nhận xét: “… nền triết học cận đại, tuy
cũng có những đại biểu suất sắc của phép biện chứng nhưng lại ngày càng sa lầy
vào phương pháp tư duy gọi là siêu hình, …”. Mãi đến khi bùng nổ công nghệ
thông tin, với đối tượng nghiên cứu là thế giới vi mô, có cấu trúc và quy luật vận

động khác hẳn so với thế giới vĩ mô, lúc này hệ thống các khái niệm và quan
điểm cũ và chủ nghĩa duy vật siêu hình bị sụp đổ hoàn toàn. Từ đây, quan điểm
biện chứng về trạng thái tồn tại của thế giới và quan điểm tiếp cận nhận thức toàn
Mối quan hệ giữa Triết học và khoa học máy tính 15
bộ, biện chứng là thống nhất, và chính trên ý nghĩa này mà V.I.Lênin nói rằng
vật lý học hiện đại đẻ ra chủ nghĩa duy vật biện chứng. Tất nhiên, không nên
hiểu sự sụp đổ của hệ thống các khái niệm của vật lý học cổ điển, có nghĩa là sự
ra đời của một hệ thống các khái niệm mới tách rời hoàn toàn các khái niệm cũ.
Ngoài những khái niệm mới được xây dựng do đặc điểm riêng của thế giới vi
mô, nhiều tên gọi các khái niệm trong hệ thống cũ vẫn được duy trì, với điều
kiện là cần hiểu được nội hàm của chúng trên cơ sở của lôgic biện chứng.
Mặt khác, cần nói ngay rằng, trong khoa học máy tính, quan điểm về trạng
thái và quan điểm tiếp cận nhận thức toàn bộ, biện chứng là thống nhất, nhưng
điều đó không có nghĩa là trong ngành khoa học máy tính nói riêng hay trong
khoa học nói chung không còn chỗ nào cho quan điểm tiếp cận nhận thức trừu
tượng, siêu hình. Chính quan điểm về trạng thái biện chứng đòi hỏi phải có sự
kết hợp của hai quan điểm tiếp cận nhận thức siêu hình và biện chứng, bởi vì
trong sự vận động tuyệt đối của thế giới bao giờ cũng có sự đứng im tương đối,
và ở những nơi đó, quan điểm tiếp cận nhận thức trừu tượng, siêu hình vẫn có giá
trị. Chẳng hạn, trong thuyết tương đối hẹp, vẫn áp dụng quan niệm về không
gian đồng chất và đẳng hướng, cơ học lượng tử phi tương đối tính vẫn sử dụng
khái niệm không gian và thời gian tuyệt đối, tách rời nhau.
Tóm lại, khi nói về phép siêu hình và phép biện chứng, với tính cách là
những quan điểm triết học, chúng ta cần phân biệt hai mặt: mặt nói về cách xem
xét trạng thái tồn tại của thế giới, vắn tắt là quan điểm về trạng thái, và mặt nói
về cách tiếp cận nhận thức, vắn tắt là quan điểm về tiếp cận nhận thức. Ở mặt thứ
nhất, hai phép siêu hình và biện chứng là hoàn toàn đối lập, còn ở mặt thứ hai,
hai mặt này nói lên hai cực bao gồm trong đó các mức độ trừu tượng hóa trong
quá trình phản ánh đối tượng nhận thức. Với cách hiểu nói trên, chúng ta có thể
giải thích được các đặc điểm trong lịch sử phát triển của cuộc đấu tranh triết học

trong khoa học máy tính. Khi mà khoa học máy tính ngày càng đạt đến tầm cao
mới thì phép biện chứng càng thể hiện vai trò to lớn của nó, đúng như
Ph.Ăngghen đã nói: “là phương pháp tư duy duy nhất, cao nhất và thích hợp nhất
Mối quan hệ giữa Triết học và khoa học máy tính 16
với giai đoạn phát triển hiện nay của khoa học”.
3. Mối quan hệ giữa triết học và khoa học máy tính
“Vật chất dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người
trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn
tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Các đối tượng khoa học máy tính đều có đặc
điểm như vậy. Thế giới khoa học máy tính như thể một thế giới vật chất thu nhỏ
mà trong có các thông tin như thể vật chất, còn các phương pháp xử lý thông tin
như thể các hiện tượng. Nếu triết học nghiên cứu về sự vận động và phát triển
của sự vật và hiện tượng thì khoa học máy tính nghiên cứu về thông tin và thực
hiện sự tính toán và ứng dụng của chúng trong các hệ thống máy tính. Điều đó
cho thấy rằng khoa học máy tính và triết học có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.
Cụ thể như sau:
3.1. Khoa học máy tính là một thế giới vật chất
Theo chủ nghĩa duy vật, vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết
định ý thức. Điều này cũng giống như trong khoa học máy tính, tất cả các thông
tin đều có trước và tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào cảm giác con
người. Tất cả các thông tin đều có trước những người khám phá ra nó. Chẳng
hạn, hình ảnh, âm thanh, số liệu, các tình huống …. tất cả đã vốn đều có trong
thực tiễn. Thật vậy, ta có mỗi căn nhà thì có một địa chỉ, mỗi người có một số
chứng minh nhân dân, mỗi đường truyền internet có một địa chỉ IP… Sự biến
đổi tăng giảm của giá vàng, sự thay đổi về nhiệt độ, thời tiết, … đó là thông tin.
Như vậy, trước khi con người nắm bắt những thông tin đó thì bản thân nó vẫn
tồn tại một cách khách quan… Con người khám phá, nói chính xác hơn là khám
phá lại.
Con người đã từ nghiên cứu thực tiễn, khái quát hóa nên các đối tượng
ấy…Chỉ khác, là vốn ban đầu, các đối tượng đó chưa được gọi tên . Tất cả

những đối tượng đó đúng như triết học đã nói “tồn tại khách quan, độc lập với ý
thức của con người, không ai sáng tạo ra và không ai có thể tiêu diệt được”.
Mối quan hệ giữa Triết học và khoa học máy tính 17
Trong triết học, phương pháp luận biện chứng là xem xét sự vật, hiện
tượng trong sự ràng buộc lẫn nhau giữa chúng, trong sự vận động và phát triển
không ngừng của chúng. Tất cả quá trình xử lý thông tin cho ra kết quả đều là
phương pháp luận biện chứng. Khi xư lý, đương nhiên các sự vật (thông tin)
được nhà nghiên cứu thuôc lĩnh vực khoa học máy tính dựa trên sự ràng buộc
giữa chúng, và trong sự vận động không ngừng.
Tất cả các thông tin trong lĩnh vực khoa học máy tính đều có mối quan hệ
biện chứng. Ví dụ: thông tin đi được đưa vào máy tính để xử lý thì sẽ được gọi
là dữ liệu. Dữ liệu tồn tại trong máy tính dưới dạng các bit 0 và bit 1.
Trong triết học “thế giới vật chất có trước, phép biện chứng phản ánh nó
là cái có sau. Thế giới vật chất luôn vận động và phát triển theo những quy luật
khách quan”. Đúng như vậy, thông tin là cái có trước còn tất cả các quá trình xử
lý thông tin là cái có sau. Con người có khả năng nhận thức được các quy luật
của các đối tượng đó. Sự nhận thức này là từ phương pháp luận biện chứng đã
nói ở trên. Như vậy, khoa học máy tính và phương pháp luận biện chứng cũng
không thể tách rời nhau, mà chúng phải gắn bó chặt chẽ với nhau.
3.2. Thế giới vật chất tồn tại khách quan
“Ý thức con người của con người (thông qua hoạt động) tuy có ảnh hưởng
đến sự tồn tại và phát triển của giới tự nhiên, song sự tồn tại và phát triển của
giới tự nhiên vẫn tuân theo những quy luật riêng của chúng, con người không
thể quyết định hoặc thay đổi những quy luật đó theo ý muốn chủ quan của
mình”. Trong khoa học máy tính, từ những hoạt động xử lý thông tin đã làm cho
“thế giới khoa học máy tính” phát triển ngày càng nâng cao, nhưng khoa học
máy tính vẫn có sự phát triển theo quy luật chung khách quan không phụ thuộc
vào con người, con người không thể thay đổi được các quy luật đó. Ví dụ các
thông tin “2 đường thẳng phân biệt cùng song song với một đường thẳng thứ 3
thì chúng song song với nhau” thì mãi mãi là như vậy. Đó là một chân lý, dù

muốn dù không, dù có khám phá ra hay chưa khám phá ra con người cũng
Mối quan hệ giữa Triết học và khoa học máy tính 18
không thể thay đổi được. Ngay cả việc Lobasepxki thay đổi các tiền đề của hình
học Ơclit để tạo ra hình học phi Ơclit thì sự hình thành hình học mới cũng rất tự
nhiên theo quy luật khách quan. Xét trên hệ tiền đề mới thì những quy luật mới
trong hình học phi Ơclit ví dụ như “tổng 3 góc trong tam giác không bằng 180°”
cũng là một quy luật tự thân có sẵn. Tất cả quy luật đó không do một lực lượng
thần bí nào tạo ra, nó là những quy luật tự nhiên.
“Con người không thể tạo ra thế giới tự nhiên, nhưng có thể nhận thức
được thế giới tự nhiên và cải tạo được thế giới tự nhiên”. Tất cả các các thông
tin ta thu nhận được đều có quy luật riêng của nó. Tuy nhiên con người có khả
năng nhận thức được, tác động vào nó và khám phá ra nó sớm hơn để nó trở lại
phục vụ cho con người. Vẫn có thể trong quá trình phát triển, con người nhận
thức sai nhưng từ những nhận thức sai đó đôi khi lại mở đường cho quá trình xử
lý thông tin phát triển. Những nhận thức sai đó sẽ thúc đẩy con người tìm ra
chân lý. Việc nhận thức về thông tin cũng đã làm cho con người hiểu rõ hơn về
thế giới vật chất, nâng cao thế giới quan và phương pháp luận biện chứng của
con người.
3.3. Sự vận động và phát triển của thế giới vật chất
Thế giới vật chất luôn luôn vận động và phát triển. Sự vận động và phát
triển đó có thể là sự vận động trong nội tại kiến thức về khoa học máy tính. Khi
thông tin thay đổi thì quá trình xử lý và thông tin cũng thay đổi theo. Ví dụ, khi
ta thu nhận được thông tin về một cơn bão đang có khả năng đổ bộ vào nước ta,
thì ta sẽ tiến hành thu nhận các thông tin từ các vệ tinh để có thông báo tránh
bão về các địa phương kịp thời. Nếu trong quá trình di chuyển bão đổi hướng thì
ta phải cập nhật lại thông tin để kịp thời thông báo đến các địa phương nhằm
giảm thiện hại xuống mức thấp nhất. biện pháp vào tránh . Vì vậy ta cần chú ý
khi xem xét xử lý thông tin trong trạng thái vận động không cứng nhắc để tránh
sai lầm.
Mối quan hệ giữa Triết học và khoa học máy tính 19

Sự vận động phát triển đó còn là sự vận động và phát triển của các kiến
thức khoa học máy tính nói chung. Tất cả các kiến thức khoa học máy tính phát
triển hàng ngày hay ngày thậm chí hàng giờ. Ngược dòng thời gian, ban đầu con
người chỉ biết truyền tin tức trực tiếp từ người này sang người khác, sau đó con
người đã biết sử dụng các công cụ để viết thư cho nhau và được truyền tin bằng
đường bộ đến đường sông, đường không. Nhưng với tốc độ phát triển nhanh
chóng của khoa học máy tính, hiện nay việc truyền thông tin giữa người này đến
người kia cách xa nhau cả nữa vòng trái đất cũng chỉ diễn ra trong vài giây bằng
con đường Internet.
Tất cả điều đó cho thấy cái mới ra đời thay thế cái cũ, cái tiến bộ ra đời
thay thế cái lạc hậu. Nhưng sự thay thế đó không phải là phủ nhận hoàn toàn, mà
là trên cơ sở kế thừa cái cũ. Chẳng hạn, do nhu cầu phát triển của cuộc sống nên
để phát triển phần mềm mới người ta phải sử dụng đã sử dụng các ngôn ngữ lập
trình theo hướng đối tượng dựa trên các ngôn ngữ lập trình hướng chức năng đã
có trước đây. Tất cả sự phát triển đó là tất yếu trong khoa học máy tính, và vì sự
tất yếu đó, nên khi xem xét kiến thức khoa học máy tính phải ủng hộ cái mới,
tránh thái độ bảo thủ. Cụ thể như, hiện nay khi lập trình chương trình ta nghĩ đến
các ngôn ngữ lập trình hướng đối tượng để viết. Nhưng đôi khi, chúng ta lại nghĩ
việc lập trình với các ngôn ngữ theo hướng chức năng sẽ dễ hơn và chúng ta đã
quen làm nên không chịu đổi mới qua ngôn ngữ mới để viết. Đó chính là tư
tưởng bảo thủ, thành kiến cái mới, tiến bộ.
Tất cả sự phát triển và vận động đó cũng gắn liền với sự phát triển và vận
động của tư duy các nhà khoa học máy tính. Sự phát triển không ngừng đó của
khoa học máy tính đã tạo ra sự phát triển về việc ứng dụng Tin học vào các môn
khoa học khác và vào thực tế cuộc sống. Khoa học máy tính ngày càng phát
triển thì khả năng ứng dụng của nó vào thực tiễn ngày càng cao.
Mối quan hệ giữa Triết học và khoa học máy tính 20
3.4. Nguồn gốc vận động, phát triển của sự vật và hiện tượng
Mâu thuẫn là một chỉnh thể, trong đó có hai mặt đối lập vừa thống nhất
với nhau, vừa đấu tranh với nhau. Trong khoa học máy tính, chúng ta vẫn

thường bắt gặp những thông tin mang tính đối lập như quá trình xử lý số âm và
số dương, mệnh đề và phủ định của mệnh đề đó … Ví dụ như nếu như thỏa điều
kiện đó thì chúng ta xử lý như thế nào, còn không thì chúng ta phải có phương
án xử lý khác. Những mặt đối lập liên hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, làm tiền đề
tồn tại cho nhau. Triết học gọi đó là sự thống nhất của các mặt đối lập. Thật vậy,
số thực dương và số thực âm không tồn tại riêng lẻ, nếu không có số thực dương
thì số thực âm cũng không có đồng thời không tồn tại tập số thực và ngược lại.
Mối quan hệ giữa Triết học và khoa học máy tính 21
PHẦN KẾT LUẬN
Nhìn lại tiến trình lịch sử phát triển của triết học duy vật và khoa học tự
nhiên, chúng ta thấy rằng, hai lĩnh vực tri thức này luôn có mối quan hệ qua lại
mật thiết với nhau. Mối liên hệ giữa triết học nói chung, triết học duy vật biện
chứng nói riêng với khoa học tự nhiên là một tất yếu có tính quy luật và ngày
càng phát triển. Chủ nghĩa duy vật biện chứng luôn đặt cho mình nhiệm vụ phải
khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên để làm sâu sắc thêm,
phong phú thêm những nguyên lý, những quy luật của mình. Và mỗi bước ngoặt
của khoa học tự nhiên, trước sự đổ vỡ của những nguyên lý cũ và sự ra đời của
những phát minh mới thì đại đa số các nhà khoa học tự nhiên đều đứng về phía
chủ nghĩa duy vật. Khoa học hiện đại ngày càng chứng tỏ mối liên hệ mật thiết
giữa nó với triết học duy vật biện chứng, chứ không phải với chủ nghĩa duy tâm
và chủ nghĩa duy vật siêu hình. Tuy vậy, vẫn có một số ít những nhà khoa học,
do không nắm vững phép biện chứng, còn chịu ảnh hưởng của các trào lưu triết
học sai lầm, nên thường giải thích những thành tựu mới nhất của khoa học trên
lập trường của chủ nghĩa duy tâm và đưa khoa học tự nhiên đi lệch sang phía
chủ nghĩa duy tâm. Đây chính là lực cản của sự phát triển khoa học.
Vì thời gian thực hiện ngắn, nên tiểu luận này chủ yếu mang tính chất thu
thập một số nhận định của một số nhà nghiên cứu trước, gom nhặt và có sắp xếp
lại để chúng ta có thể có một cái nhìn khái quát về mối liên hệ giữa triết học và
khoa học tự nhiên. Tuy nhiên ở đây chưa tổng kết lại và rút ra những kết luận,
đưa ra những nhận xét hay ý kiến riêng của bản thân. Đề tài này tuy đã được

nghiên cứu từ lâu nhưng không được nhiều người quan tâm đúng mức, hy vọng
rằng, qua tiểu luận này chúng ta sẽ thấy rõ hơn được tầm quan trọng của vấn đề,
đặc biệt là vấn đề về chức năng phương pháp luận của triết học đối với khoa học
tự nhiên nói chung và khoa học máy tính nói riêng.
Mối quan hệ giữa Triết học và khoa học máy tính 22
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học Mác – Lênin của Nhà xuất bản chính trị quốc gia
2. Giáo trình Triết học (Dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không
thuộc chuyên ngành Triết học – Nhà xuất bản chính trị - hành chính.
3. Và một số nguồn trên Internet

×