Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Tìm hiểu và quan sát các yếu tố chỉ màu sắc kiểu như: xanh xanh, đo đỏ...

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.78 KB, 10 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tìm hiểu và quan sát các yếu tố chỉ màu sắc kiểu như: xanh xanh, đo đỏ...
Và tìm hiểu đặc điểm nghĩa và ngữ dụng của nó
PHẦN MỞ ĐẦU
Trong ngôn ngữ học, nghiên cứu ngữ dụng học là một lĩnh vực tương đối
mới mẻ. Nhưng đây là một việc làm gắn kết với sự nghiên cứu thực tế nói năng,
nên rất phong phú và phức tạp. Ngôn ngữ nào cũng chỉ giới hạn số lượng từ
ngữ, cấu trúc ngữ pháp hay các hình thức kết hợp câu chữ. Nhưng việc vận dụng
ngôn ngữ vào thực tế nói năng của cả cộng đồng ngôn ngữ đó thì sản sinh ra vô
vàn những biến thể với ý nghĩa dụng học khác nhau. Xét ở mặt này thì mỗi cuộc
hội thoại và mỗi phát ngôn sẽ hàm chứa trong đó môt ý nghĩa riêng, với hoàn
cảnh riêng. Như thế thì không một ngôn ngữ nào có thể nghiên cứu hết các
trường hợp riêng này. Muốn tìm hiểu ngữ dụng học của các phát ngôn chỉ cách
là nghiên cứu và tìm hiểu một số kiểu loại ngữ cảnh nhất định. Để có thể từ đó
mà so sánh, phát hiện ra những ý nghĩa dụng học mới trong những trường hợp
khác. Đặc biệt là những từ, cụm từ cùng thuộc một nhóm hay một trường nghĩa
nào đó thì vẫn có thể được nhận diện và nghiên cứu trước, về đặc điểm ngữ
nghĩa của nó trong sử dụng từ trước đến nay.
Ở đây, chúng tôi đi tìm các ngữ cảnh sử dụng các yếu tố chỉ màu sắc kiểu
như: xanh xanh, đo đỏ… để thấy được cách sử dụng chúng và những đặc điểm
ngữ nghĩa cũng như nghĩa ngữ dụng của các yếu tố này.
Tuy nhiên, vì điều kiện thời gian không cho phép, chúng tôi không thể
khảo sát được nhóm yếu tố chỉ màu sắc đó trong nhiều văn bản mà chỉ có thể
quan sát trong ca dao và một số tác phẩm văn học khác. Qua một số quan sát
ban đầu ấy, chúng tôi cũng nhận thấy rằng các yếu tố chỉ màu sắc kiểu đó xuất
hiện không thường xuyên trong các văn bản được tìm hiểu.

Website: Email : Tel : 0918.775.368
PHẦN NỘI DUNG
1. Các yếu tố chỉ màu sắc nói chung trong tiếng Việt
Trước hết phải nói rằng: các yếu tố chỉ màu sắc được sử dụng rất nhiều


trong các văn bản cũng như trong ngôn ngữ hàng ngày. Vì thực tế hầu hết các sự
vật trong thế giới khách quan đều có một màu sắc nhất định. Con người tri nhận
các sự vật đó thi cũng tri nhận cả màu sắc của nó. Hơn nữa sắc màu của một vật
thể cũng rất phong phú nên muốn phân biệt chúng đôi khi cũng phải viện đến
các đặc tính về màu sắc. nhưng vấn đề mà chúng ta quan tâm, tìm hiểu ở đây
không hoàn toàn giống như vậy. Những yếu tố chỉ màu sắc này có đặc điểm là
một từ láy kiểu như: xanh xanh, đo đỏ, vàng vàng…chứ không phải là những
từ đơn chỉ màu sắc hay các từ ghép kiểu: xanh lam, xanh da trời, đỏ thắm,
trắng phau…
Những tính từ chỉ màu sắc có một âm tiết như: xanh, đỏ, tím, vàng…thì
chắc không có nhiều vấn đề phức tạp. Vì đây là những từ chỉ màu sắc cơ bản
nhất. Khi nói đến thì chúng ta chúng ta sẽ hình dung đến một màu sắc nhất định
rồi, không thể gây ra nhiều cách hiểu khác nhau. Dựa vào những màu sắc cơ bản
đó, con người phân biệt ra các màu sắc cụ thể hơn nhưng cũng có vẻ như đã
được định sẵn. Ví dụ đỏ thì có: đỏ tươi, đỏ thậm, đỏ rực…; xanh thì có: xanh
da trời, xanh nước biển, xanh lục…; tím thì có: tím nhạt, tím đen, tím
ngắt…Khi sử dụng những tính từ loại này thì đã quy sự vật vào một màu sắc
nhất định, hướng người tiệp nhận đến màu sắc đó rồi. Ngược lại, những yếu tố
kiểu xanh xanh, đo đỏ, vàng vàng… thì khác. Những yếu tố này có giá trị biểu
hiện khác với ý nghĩa biểu hiện của các tính từ chỉ màu sắc trên. Cũng là gợi lên
tính chất về màu sắc nhưng ở đây, những yếu tố này không mang đến một màu
sắc cụ thể, có thể hình dung rõ ràng. Nó vẫn cho người ta nhận biết màu sắc cơ
bản nhưng bên cạnh đó còn tạo ra nhiều liên tưởng, sự tưởng tượng khác nữa. Vì
thế nghĩa biểu hiện của nó rộng hơn các từ chỉ màu sắc khác. Dưới đây chúng
tôi sẽ dẫn ra một vài ngữ cảnh có sử dụng các yếu tố như thế để phân tích và
hiểu rõ hơn về ngữ nghĩa cũng như nghĩa ngữ dụng của chúng.

Website: Email : Tel : 0918.775.368
2. Các yếu tố chỉ màu sắc có hình thức láy kiểu như: xanh xanh, đo đỏ…
Trước hết, chúng tôi tìm hiểu từ này qua từ điển tiếng Việt. Kết quả là:

trong số các tính từ chỉ màu sắc thì không phải tất cả các hình thức láy đều được
đưa vào. Từ điển tiếng Việt chỉ đưa vào một số từ láy màu sắc như: đo đỏ, tim
tím, trăng trắng và xam xám. Còn các từ khác như: xanh xanh, vàng vàng,
đen đen…thì không được từ điển giải thích. Từ điều này có thể nhận xét rằng:
nếu từ chỉ màu sắc cơ bản là một từ có dấu sắc hoặc hỏi thì sẽ có hình thức láy
được từ điển giải thích, còn các yếu tố màu sắc khác thì từ điển không đưa vào,
dù vẫn được sử dụng trong thực tế ngôn ngữ. Dù thế, nếu có giải thích thì cũng
chỉ rất ít và đơn giản, ví dụ: Đo đỏ: ( láy) mức độ ít. Các từ tim tím, xam xám,
trăng trắng cũng như vậy. Như vậy, theo từ điển (của Hoang Phê năm 1996)
thì các yếu tố chỉ màu sắc mà chúng ta đang khảo sát chỉ có tính chất là: biểu
hiện mức độ ít của màu sắc cơ bản. Ví dụ từ đo đỏ làm giảm mức độ đỏ đi.
Nhưng trong những ngữ cảnh cụ thể mà chúng ta sẽ xem xét dưới đây, các từ láy
chỉ màu sắc kiểu này còn có nhiều ý nghĩa khác nữa. chúng ta sẽ cùng phân tích
để thấy rõ điều đó.
1.1. Yếu tố xanh xanh
Nếu tính theo số lượng các màu sắc cơ bản thì chúng ta sẽ thu được các
yếu tố láy là: trăng trắng, đen đen, đo đỏ, xanh xanh, vàng vàng, tim tím,
nâu nâu, xam xám, hồng hồng…và có thể con, nhưng rất ít. Ngay những yếu
tố mà chúng tôi kể ra ở trên cũng không được dùng thường xuyên. Đa số được
sử dụng rất ít. Và qua một số khảo sát nhỏ, chúng tôi thấy yếu tố xanh xanh
được sử dụng nhiều hơn cả. Dưới đây là một số ví dụ có chứa yếu tố này:
Trước hết là trong ca dao. Theo thống kê của một tác giả khi khảo sát các
từ chỉ màu sắc, trong ca dao có 1381 câu có từ chỉ màu sắc. Trong số đó, chúng
tôi chỉ tìm thấy rất ít các từ láy theo kiểu trên, mà nhiều nhất là từ xanh xanh.
Vd 1. Có đêm ra đứng vườn hoa
Nom lên chỉ thấy sao tà xanh xanh
Có đêm tạc đá ghi vàng
Ngày nào em chả nhớ chàng, chàng ơi.

Website: Email : Tel : 0918.775.368

Vd 2. Con chim nho nhỏ
Cái mỏ xanh xanh
Vd 3. Con chim xanh xanh
Nó đỗ nhành cũng xanh xanh
Vd 4. Đào tơ sen ngó xanh xanh
Vd 5. Thứ cà tim tím, thứ cà xanh xanh
Vd 6. Vì mây cho núi nên xa
Mây cao mù mịt, núi nhoà xanh xanh
Vd 7. Bà kia bận áo xanh xanh
Ngồi trong đám hẹ nói hành con dâu
Hay trong một số tác phẩm văn học khác:
Vd 8. Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai.
( Chinh phụ ngâm- Đoàn Thị Điểm)
Vd 9. Sông Tần một dải xanh xanh
Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương Quan
( Kiều- Nguyễn Du)
Vd 10. Buồn trông ngọn cỏ dàu dàu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
( Kiều- Nguyễn Du)
Vd 11. Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa vẫn đứng thẳng hàng
( Viếng lăng Bác- Viễn Phương)
Vd 12. “…một nền trời xanh ngắt một màu. Nhìn lên lá non xanh màu
cốm…làm người đa cảm tưởng tượng như cây cối giơ những khăn tay bé nhỏ
xanh xanh, vàng vàng ra chào mừng, vẫy gọi…”
( Thương nhớ mười hai- Vũ Bằng)
Vd 13. “ Tháng một là tháng cà cuống thịt hầu hết đều có trứng, tách đôi


Website: Email : Tel : 0918.775.368
cái bụng nó mà nhần lấy những chùm trứng xanh xanh, vàng vàng như hoa
cải…’
( Thương nhớ mười hai- Vũ Bằng)
Trên đây là 13 ví dụ, 13 ngữ cảnh có chứa yếu tố xanh xanh. Khi phân
tích các ngữ cảnh này, chúng tôi thấy rằng: tính chất cơ bản của những từ này
vẫn được giữ lại, nhưng bên cạnh đó, một số ngữ cảnh mới đã làm nảy sinh
những tính chất nghĩa mới hoặc thêm vào một nghĩa ngữ dụng nào đó.
Trong các ví dụ: 2,3,4,5,7,12, chúng ta thấy xanh xanh được sử dụng với
ý nghĩa đã được ghi trong từ điển, nghĩa là chỉ tính chất giảm bớt của màu xanh.
Tuy nhiên nó cũng mang lại một số hiệu quả khác nữa. Như ví dụ 3, hai câu ca
dao đều có từ xanh xanh khiến cho mức độ màu sắc được nhân thêm lên, phối
hợp với nhau tạo nên sự hài hoà. Còn ở câu 12, trong ngữ cảnh này, chúng ta tìm
thấy từ non xanh và bé nhỏ, do đó ngữ cảnh này đã cấp thêm cho từ xanh xanh
một tính chất nữa. Đó không chỉ là màu xanh nhạt mà còn thể hiện sự tươi trẻ,
vẻ non tơ của những búp cây non.
Còn với những ngữ cảnh khác, từ xanh xanh mang nhiều nghĩa biểu hiện.
Trong câu 1, 6, 13, thì xanh xanh chưa hẳn đã biểu thị màu sắc xanh. Nó chỉ có
một chút sắc xanh gọi là thôi, và vì người ta khó có thể tìm một từ chỉ màu sắc
chính xác để gán cho các sự vật ấy. Câu 1 tả buổi đêm nhìn sao, lại là sao tà,
màu sắc thật khó xác định. Các ngôi sao trên trời rất nhỏ và xa, đôi khi không
thể nói chính xác nó có màu gì, nó cũng có thể mang màu sắc pha trộn. Và với
khoảng cách đó, con người chỉ có thể nhận biết bằng trực giác thôi.
Ví dụ 6, ngữ cảnh này rõ ràng hơn cho việc phân tích. Do có sự kết hợp
giữa các chủ thể: mây, núi và các tính từ: xa, cao mù mịt giúp chúng ta quy được
đối tượng vào một tính chất do nhìn cảnh vật từ rất xa. Nghĩa là không thể chắc
chắn về màu sắc của các đối tượng. Đặc biệt động từ nhoà cũng khẳng định điều
đó. Vì quá xa, quá cao nên tất cả hình dáng lẫn màu sắc đều nhoà đi, lẫn lộn vào
nhau. Nên tác giả chỉ có thể nhận biết một cách chung chung, một màu sắc của

núi, mây sau khi đã nhoà đi, đó là màu xanh xanh. Chứ cụ thể xanh như thế nào
thì không thể nói. Đấy mới chỉ là nghĩa về góc độ miêu tả, ngoài ra từ láy còn

×