/>TƯ LIỆU CHUYÊN MÔN TIỂU HỌC.
CHUYÊN ĐỀ
ĐỔI MỚI NỘI DUNG, PPDH THEO CHUẨN
KIẾN THỨC KĨ NĂNG, ĐIỀU CHỈNH
NỘI DUNG DẠY HỌC, DẠY PHÂN HOÁ ĐỐI
TƯỢNG HỌC SINH VÀ NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG DẠY HỌC BUỔI 2
MÔN TIẾNG VIỆT LỚP 4, LỚP 5.
HẢI DƯƠNG – NĂM 2015
/> />LỜI NÓI ĐẦU
Trong giai đoạn xã hội hóa và hội nhập quốc tế hiện nay,
nguồn lực con người Việt Nam trở nên có ý nghĩa quan trọng,
quyết định sự thành công của công cuộc phát triển đất nước.
Giáo dục ngày càng có vai trò và nhiệm vụ quan trọng trong việc
xây dựng thế hệ người Việt Nam mới, đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội. Đảng và nhà nước luôn quan tâm và chú trọng
đến giáo dục. Với chủ đề của năm học là “Tiếp tục đổi mới quản
lý và nâng cao chất lượng giáo dục” đối với giáo dục phổ thông.
Mà trong hệ thống giáo dục quốc dân, thì bậc tiểu học là bậc nền
tảng, nó có ý nghĩa vô cùng quan trọng là bước đầu hình thành
nhân cách con người cũng là bậc học nền tảng nhằm giúp học
sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn
và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ
bản để học sinh tiếp tục học Trung học cơ sở. Để đạt được mục
tiêu trên đòi hỏi người dạy học phải có kiến thức sâu và sự hiểu
biết nhất định về nội dung chương trình sách giáo khoa, có khả
năng hiểu được về tâm sinh lí của trẻ, về nhu cầu và khả năng
của trẻ. Đồng thời người dạy có khả năng sử dụng một cách linh
hoạt các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp với
đối tượng học sinh. Giáo viên giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong
nhà trường. Làm thế nào để đẩy mạnh sự phát triển giáo dục nói
chung và làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy học trong nhà
trường. Hiện nay chủ trương của ngành là dạy học theo chuẩn
/> />kiến thức kĩ năng của môn học. Đổi mới kiểm tra, đánh giá kết
quả học tập và rèn luyện của học sinh:
- Căn cứ chuẩn kiến thức kỹ năng của chương trình lồng
ghép giáo dục vệ sinh môi trường, rèn kĩ năng sống cho học
sinh.
- Coi trọng sự tiến bộ của học sinh trong học tập và rèn
luyện, động viên khuyến khích không gây áp lực cho học sinh
khi đánh giá. Tạo điều kiện và cơ hội cho tất cả học sinh hoàn
thành chương trình và có mảng kiến thức dành cho đối tượng
học sinh năng khiếu.
Trân trọng giới thiệu cùng quý vị thầy cô giáo, các bậc phụ
huynh và các bạn đọc cùng tham khảo, trải nghiệm tài liệu:
CHUYÊN ĐỀ
ĐỔI MỚI NỘI DUNG, PPDH THEO CHUẨN
KIẾN THỨC KĨ NĂNG, ĐIỀU CHỈNH
NỘI DUNG DẠY HỌC, DẠY PHÂN HOÁ ĐỐI
TƯỢNG HỌC SINH VÀ NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG DẠY HỌC BUỔI 2
MÔN TIẾNG VIỆT LỚP 4, LỚP 5.
Chân trọng cảm ơn!
/> />CHUYÊN ĐỀ
ĐỔI MỚI NỘI DUNG, PPDH THEO CHUẨN
KIẾN THỨC KĨ NĂNG, ĐIỀU CHỈNH
NỘI DUNG DẠY HỌC, DẠY PHÂN HOÁ ĐỐI
TƯỢNG HỌC SINH VÀ NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG DẠY HỌC BUỔI 2
MÔN TIẾNG VIỆT LỚP 4, LỚP 5.
A. Đổi mới nội dung, PPDH, đổi mới việc kiểm tra
đánh giá học sinh theo chuẩn kiến thức, kĩ năng và
dạy học phân hoá đối tượng học sinh môn Tiếng Việt.
Chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Tiếng Việt là yêu cầu
cơ bản, tối thiểu về kiến thức và kĩ năng của các phân
môn: Học vần, Tập viết, Tập đọc, Chính tả, LT và câu,
Tập làm văn mà học sinh cần phải và có thể đạt được.
Chuẩn kiến thức và kĩ năng được cụ thể hoá ở các chủ đề
của môn học theo từng lớp, ở các lĩnh vực học tập cho
từng lớp và cho cả cấp học.
Khi dạy học theo chuẩn kiến thức và kĩ năng, người
GV giúp cho mọi học sinh đều đạt được những yêu cầu
cơ bản (kiến thức, kĩ năng tối thiểu), đồng thời cần phải
giúp cho học sinh khá giỏi vươn lên đạt được những yêu
cầu trên chuẩn (Mục Yêu cầu cần đạt trong tài liệu chỉ là
yêu cầu chuẩn - tối thiểu).
Ở Tiểu học, mỗi lớp học đều có nhiều đối tượng học
sinh. Dạy học theo chuẩn kiến thức và kĩ năng được thực
hiện chủ yếu ở các tiết chính khoá. Do đó, thực chất của
việc dạy học theo chuẩn cũng chính là dạy học phân hoá
đối tượng học sinh. Vì thế, khi lựa chọn nội dung dạy
học, ngoài việc bám sát vào mục tiêu theo " Những yêu
/> />cầu cần đạt", người GV cần lựa chọn nội dung dạy học
sao cho đảm bảo tính "vừa sức" để mọi học sinh đều
được phát huy khả năng chủ động, sáng tạo của bản thân,
sao cho mọi học sinh đều có thể được học và học được,
tránh sự nhàm chán trong tiết học.
Đối với học sinh lớp 4- 5, việc dạy phân hoá đối
tượng học sinh càng trở nên đặc biệt coi trọng. Tuy nhiên,
cho dù lựa chọn nội dung nào thì GV cũng cần bám sát
chuẩn kiến thức, kĩ năng. Trên cơ sở đó nâng dần mức độ
khó của từng nội dung, từng mảng kiến thức trong từng
môn học, tránh lan man, sa đà, vượt quá chương trình ,
yêu cầu quy định.
Chẳng hạn:
+ Tiết Luyện từ và câu lớp 4 - tuần 7: Cách viết tên
người, tên địa lí Việt Nam. Yêu cầu cần đạt chuẩn là: học
sinh (TB, Yếu) nắm được quy tắc viết hoa tên người, tên
địa lí VN; biết vận dụng quy tắc đã học để viết đúng một
số tên riêng VN. Tuy nhiên, đối với học sinh K - G, các
em cần thực hiện thêm yêu cầu: Tìm trên bản đồ và viết
tên các quận, huyện, thị xã và danh lam thắng cảnh, di
tích lịch sử ở tỉnh hoặc thành phố của em.
+ Tiết Tập làm văn lớp 4 tuần 2: Tả ngoại hình của
nhân vật trong bài văn kể chuyện. HS TB- Y chỉ cần
thực hiện yêu cầu cần đạt: HS hiểu: Trong bài văn kể
chuyện, việc tả ngoại hình của nhân vật là cần thiết, thể
hiện tính cách của nhân vật, kể lại được một đoạn của
câu chuyện Nàng tiên ốc có kết hợp tả ngoại hình bà lão
hoặc nàng tiên. HS K - G kể lại được toàn bộ câu chuyện
/> />Nàng tiên ốc có kết hợp tả ngoại hình của hai nhân vật:
bà lão và nàng tiên.
Để thực hiện tốt việc Đổi mới nội dung, PPDH, đổi
mới việc kiểm tra đánh giá học sinh theo chuẩn kiến
thức, kĩ năng và dạy học phân hoá đối tượng học sinh,
CBQL và GV cần lưu ý một số vấn đề sau:
I. Yêu cầu dạy học bám sát Chuẩn kiến thức, kĩ
năng
1. Yêu cầu chung :
1.1- Xác định mục tiêu bài học. Chú trọng dạy học
nhằm đạt được các yêu cầu cơ bản và tối thiểu về kiến
thức, kĩ năng, đảm bảo không quá tải và không quá lệ
thuộc hoàn toàn vào SGK. Mức độ khai thác sâu kiến
thức, kĩ năng trong SGK phải phù hợp với khả năng tiếp
thu của HS.
1.2. Đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính chủ
động, tích cực, tự giác học tập của HS. Chú trọng rèn
luyện phương pháp tư duy, năng lực tự học, tự nghiên
cứu ; tạo niềm vui, hứng khởi, nhu cầu hành động và thái
độ tự tin trong học tập cho HS.
1.3. Trong dạy học thể hiện được mối quan hệ tích
cực giữa GV và HS, giữa HS với HS ; tiến hành dạy học
thông qua việc tổ chức các hoạt động học tập của HS, kết
hợp giữa học tập cá thể với học tập hợp tác, làm việc theo
nhóm, chú trọng đến việc rèn luyện các kĩ năng, năng lực
hành động, vận dụng kiến thức, tăng cường thực hành và
gắn nội dung bài học với thực tiễn cuộc sống, chú trọng
đến việc sử dụng có hiệu quả phương tiện, thiết bị dạy
học được trang bị hoặc do GV và HS tự làm ; quan tâm
/> />đến ứng dụng công nghệ thông tin, chú trọng đến việc
động viên, khuyến khích kịp thời sự tiến bộ của HS trong
quá trình học tập ; đa dạng hoá nội dung, các hình thức,
cách thức đánh giá và tăng cường hiệu quả việc đánh giá.
2. Yêu cầu đối với cán bộ quản lí cơ sở giáo dục
2. 1- Nắm vững chủ trương đổi mới giáo dục phổ
thông của Đảng, Nhà nước ; nắm vững mục đích, yêu
cầu, nội dung đổi mới thể hiện cụ thể trong các văn bản
chỉ đạo của Ngành, trong Chương trình và SGK, phương
pháp dạy học (PPDH), sử dụng phương tiện, thiết bị dạy
học, hình thức tổ chức dạy học và đánh giá kết quả giáo
dục.
2. 2- Nắm vững yêu cầu dạy học bám sát Chuẩn kiến
thức, kĩ năng trong CTGDPT, đồng thời tạo điều kiện
thuận lợi cho GV, động viên, khuyến khích GV tích cực
đổi mới PPDH.
2. 3- Có biện pháp quản lí, chỉ đạo tổ chức thực hiện
đổi mới PPDH trong nhà trường một cách hiệu quả.
Thường xuyên kiểm tra, đánh giá các hoạt động dạy học
theo định hướng dạy học bám sát Chuẩn kiến thức, kĩ
năng đồng thời với tích cực đổi mới PPDH.
2. 4- Động viên, khen thưởng kịp thời những GV
thực hiện có hiệu quả đồng thời với phê bình, nhắc nhở
những người chưa tích cực đổi mới PPDH, dạy quá tải do
không bám sát Chuẩn kiến thức, kĩ năng.
3. Yêu cầu đối với giáo viên
3.1. Bám sát Chuẩn kiến thức, kĩ năng để thiết kế bài
giảng, với mục tiêu là đạt được các yêu cầu cơ bản, tối
thiểu về kiến thức, kĩ năng, dạy không quá tải và không
/> />quá lệ thuộc hoàn toàn vào SGK. Việc khai thác sâu kiến
thức, kĩ năng phải phù hợp với khả năng tiếp thu của HS.
3.2. Thiết kế, tổ chức, hướng dẫn HS thực hiện các
hoạt động học tập với các hình thức đa dạng, phong phú,
có sức hấp dẫn phù hợp với đặc trưng bài học, với đặc
điểm và trình độ HS, với điều kiện cụ thể của lớp, trường
và địa phương.
3. 3. Động viên, khuyến khích, tạo cơ hội và điều kiện
cho HS được tham gia một cách tích cực, chủ động, sáng
tạo vào quá trình khám phá, phát hiện, đề xuất và lĩnh hội
kiến thức. Chú ý khai thác vốn kiến thức, kinh nghiệm, kĩ
năng đã có của HS. Tạo niềm vui, hứng khởi, nhu cầu
hành động và thái độ tự tin trong học tập cho HS. Giúp
HS phát triển tối đa năng lực, tiềm năng của bản thân.
3. 4. Thiết kế và hướng dẫn HS thực hiện các dạng
câu hỏi, bài tập phát triển tư duy và rèn luyện kĩ năng.
Hướng dẫn sử dụng các thiết bị dạy học. Tổ chức có hiệu
quả các giờ thực hành. Hướng dẫn HS có thói quen vận
dụng kiến thức đã học vào giải quyết các vấn đề thực
tiễn.
3.5. Sử dụng các phương pháp và hình thức tổ chức
dạy học một cách hợp lí, hiệu quả, linh hoạt, phù hợp với
đặc trưng của cấp học, môn học ; nội dung, tính chất của
bài học ; đặc điểm và trình độ HS ; thời lượng dạy học và
các điều kiện dạy học cụ thể của trường, địa phương.
II. Yêu cầu kiểm tra, đánh giá bám sát Chuẩn
kiến thức, kĩ năng
1. Quan niệm về kiểm tra, đánh giá
/> />- Kiểm tra và đánh giá là hai khâu trong một quy trình
thống nhất nhằm xác định kết quả thực hiện mục tiêu dạy
học. Kiểm tra là thu thập thông tin từ riêng lẻ đến hệ
thống về kết quả thực hiện mục tiêu dạy học. Đánh giá là
xác định mức độ đạt được về thực hiện mục tiêu dạy học.
- Đánh giá kết quả học tập thực chất là việc xem xét
mức độ đạt được của hoạt động học của HS so với mục
tiêu đề ra đối với từng môn học, từng lớp học, cấp học.
Mục tiêu của mỗi môn học được cụ thể hoá thành các
chuẩn kiến thức, kĩ năng. Từ các chuẩn này, khi tiến hành
kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn học, cần phải thiết
kế thành những tiêu chí nhằm kiểm tra được đầy đủ cả về
định tính và định lượng kết quả học tập của HS.
2. Yêu cầu kiểm tra, đánh giá
- Kiểm tra, đánh giá phải căn cứ vào Chuẩn kiến
thức, kĩ năng của từng môn học ở từng lớp ; các yêu cầu
cơ bản, tối thiểu cần đạt về kiến thức, kĩ năng của HS sau
mỗi giai đoạn, mỗi lớp, mỗi cấp học.
- Kiểm tra, đánh thể hiện được vai trò chỉ đạo, kiểm
tra việc thực hiện chương trình, kế hoạch giảng dạy, học
tập của các nhà trường. Cần tăng cường đổi mới khâu
kiểm tra, đánh giá thường xuyên, định kì; đảm bảo chất
lượng kiểm tra, đánh giá thường xuyên, định kì chính
xác, khách quan, công bằng ; không hình thức, đối phó
nhưng cũng không gây áp lực nặng nề. Kiểm tra thường
xuyên và định kì theo hướng vừa đánh giá được đúng
Chuẩn kiến thức, kĩ năng, vừa có khả năng phân hoá cao ;
kiểm tra kiến thức, kĩ năng cơ bản, năng lực vận dụng
/> />kiến thức của người học, thay vì chỉ kiểm tra học thuộc
lòng, nhớ máy móc kiến thức.
- Kết hợp thật hợp lí các hình thức kiểm tra, tự luận
và trắc nghiệm nhằm hạn chế lối học tủ, học lệch, học vẹt
; phát huy ưu điểm và hạn chế nhược điểm của mỗi hình
thức.
- Đánh giá chính xác, đúng thực trạng. Đánh giá thấp
hơn thực tế sẽ triệt tiêu động lực phấn đấu vươn lên ;
ngược lại, đánh giá khắt khe quá mức hoặc thái độ thiếu
thân thiện, không thấy được sự tiến bộ, sẽ ức chế tình
cảm, trí tuệ, giảm vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo của
HS.
- Đánh giá kịp thời, có tác dụng giáo dục và động
viên sự tiến bộ của HS, giúp HS sửa chữa thiếu sót. Đánh
giá cả quá trình lĩnh hội tri thức của HS, quan tâm tới
mức độ hoạt động tích cực, chủ động của HS trong từng
tiết học tiếp thu tri thức mới, ôn luyện cũng như các tiết
thực hành.
- Đánh giá kết quả học tập, thành tích học tập của HS
không chỉ đánh giá kết quả cuối cùng, mà cần chú ý cả
quá trình học tập. Cần tạo điều kiện cho HS cùng tham
gia xác định tiêu chí đánh giá kết quả học tập với yêu cầu
không tập trung vào khả năng tái hiện tri thức mà chú
trọng khả năng vận dụng tri thức trong việc giải quyết các
nhiệm vụ phức hợp. Có nhiều hình thức và độ phân hoá
cao trong đánh giá.
- Kết hợp thật hợp lí giữa đánh giá định tính và định
lượng : Căn cứ vào đặc điểm của từng môn học và hoạt
động giáo dục ở mỗi lớp học, cấp học, quy định đánh giá
/> />bằng điểm kết hợp với nhận xét của GV hay đánh giá
bằng nhận xét, xếp loại của GV.
- Kết hợp đánh giá trong và đánh giá ngoài.
Để có thêm các kênh thông tin phản hồi khách quan,
cần kết hợp hài hoà giữa đánh giá trong và đánh giá
ngoài. Cụ thể là cần chú ý đến :
+ Tự đánh giá của HS với đánh giá của bạn học, của
GV, của cơ sở giáo dục, của gia đình và cộng đồng.
- Kiểm tra, đánh giá phải là động lực thúc đẩy đổi
mới PPDH. Đổi mới kiểm tra, đánh giá tạo điều kiện thúc
đẩy và là động lực của đổi mới PPDH trong quá trình dạy
học, là nhân tố quan trọng nhất đảm bảo chất lượng dạy
học.
B. Dạy học theo hướng điều chỉnh nội dung dạy
học:
Thực hiện nghiêm túc Công văn số 5842/ BGD và
ĐT ngày 1/9/2011, Công văn số 1047/SGD- ĐT ngày
20/9/2011 và Công văn số 198/PGD- ĐT Bình Giang
ngày 28/11/2011 về việc thực hiện nội dung điều chỉnh
cho từng môn học, từng tiết học với từng nội dung học
tập, tránh sự quá tải về kiến thúc để tăng cường việc rèn
kĩ năng và lồng ghép các nội dung giáo dục (kĩ năng
sống, BVMT, Tiết kiệm năng lượng, BVTNMT biển đảo,
), trong từng tiết dạy.
Đối với môn Tiếng Việt lớp 4-5, NDĐC ở các phân
môn theo hướng sau:
/> />- Phân môn Tập đọc: Chú ý yêu cầu đọc hiểu, trả lời
các câu hỏi tìm hiểu bài, giọng đọc phù hợp với nội dung
bài.
- Phân môn Chính tả: Thay hoặc bớt ngữ liệu dài và
khó cho các bài tập chính tả.
- Phân môn Tập làm văn: Thay một số nội dung, đề
bài sao cho gần gũi với học sinh. Không dạy một số bài
khó.
- Phân môn Kể chuyện:
+ Kể chuyện đã nghe, đã đọc: Có thể cho học sinh
kể lại chuyện trong SGK hoặc nghe GV đọc, kể tại lớp
rồi kể lại.
+ Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia:
Không dạy một số bài khó.
- Phân môn Luyện từ và câu: Các bài dạy khái niệm
mới chỉ yêu cầu nhận diện, chưa yêu cầu hiểu bản chất
khái niệm.
Về cơ bản, những NDĐC nêu trên là phù hợp. Tuy
nhiên đối phân môn Luyện từ và câu, yêu cầu điều chỉnh
ở một số bài " Thêm trạng ngữ cho câu (tuần
31,32,33,34) có sự mâu thuẫn với hướng điều chỉnh.
Trong tất cả các bài đó, NDĐC đều có ghi: Không
dạy phần nhận xét, Không dạy phần ghi nhớ. Phần luyện
tập chỉ yêu cầu tìm hoặc thêm trạng ngữ ( Không yêu
cầu nhận diện trạng ngữ gì). Thực tế giảng dạy, nếu GV
hoàn toàn thực hiện theo yêu cầu đó thì học sinh sẽ rất
khó thêm trạng ngữ phù hợp để thành câu văn hoàn
chỉnh, hợp nghĩa. Vì thế, khi dạy những bài này, GV
không nên yêu cầu học sinh học phần "ghi nhớ" một cách
/> />máy móc nhưng cần cho học sinh nhận biết đó là trạng
ngữ chỉ thời gian (Trả lời cho câu hỏi Khi nào?), chỉ nơi
chốn(Trả lời cho câu hỏi Ở đâu?), chỉ mục đích (Trả lời
cho câu hỏi Để làm gì?), chỉ nguyên nhân (Trả lời cho
câu hỏi Vì sao?) hay chỉ phương tiện (Trả lời cho câu hỏi
Bằng gì?).
C. Nâng cao chất lượng dạy học buổi 2
Việc nâng cao chất lượng dạy học buổi 2 môn Tiếng
Việt lớp 4-5 cũng như môn Toán và một số môn học
khác, mỗi nhà trường cần thực hiện nghiêm túc công văn
số 115/ SGD và ĐT Hải Dương ngày 17/11/2008 V/v tiếp
tục thực hiện có hiệu quả việc dạy học 2 buổi /ngày.
Theo đó, GV được phân công dạy các tiết tăng cần
chịu trách nhiệm về chất lượng và đánh giá kết quả học
tập của học sinh lớp mình, của môn học và tiết học mà
mình đảm nhiệm. Nội dung các tiết tăng cần đảm bảo
củng cố nội dung thực hành kiến thức, kĩ năng đã học
trước đó, giúp đỡ học sinh hoàn thành nhiệm vụ học tập
để đạt " chuẩn", tạo điều kiện để học sinh khá giỏi được
bồi dưỡng năng lực học tập cá nhân. Ban giám hiệu và tổ
chuyên môn cần thường xuyên kiểm tra, giám sát việc
thực hiện của GV trong việc soạn giảng, lên lớp. Khi
soạn bài, yêu cầu giáo viên phải chọn lọc, xây dựng được
hệ thống câu hỏi và bài tập phù hợp với đối tượng học sin
trong lớp trên cơ sở chuẩn kiến thức và kĩ năng theo định
hướng " Học sinh còn yếu, còn hổng kiến thức ở nội dung
nào thì được hướng dẫn luyện tập thực hành owpr nội
dung đó sao cho tất cả học sinh đạt được yêu cầu cơ bản
/> />về kiến thức và kĩ năng theo quy định", tránh việc chỉ sử
dụng vở bài tập các môn học để cho học sinh làm bài theo
kiểu dạy học đại trà, loại bài luyện tập, thực hành.
Hiện nay, việc dạy học buổi 2 môn Tiếng Việt được
thực hiện bằng một số hình thức sau:
- Dạy theo lớp: Mỗi lớp đều có đủ các đối tượng học
sinh
- Dạy theo nhóm học sinh: Mỗi khối lớp tập trung
học sinh lại rồi chia thành các nhóm : G - K, TB và yếu
Tuy theo cách phân chia học sinh trong mỗi khối
trong mỗi nhà trường mà giáo viên lựa chọn các kiến thức
và kĩ năng cho phù hợp và có hiệu quả.
Chẳng hạn:
- Với cách chia thứ nhất: Vì mỗi lớp đều có đủ các
đối tượng học sinh nên trong mỗi bài tập hay mỗi nội
dung ôn tập cần có sự phân hoá để tất cả học sinh đều
được hoạt động. Khi soạn bài, người GV cần đặc biệt chú
ý sắp xếp nội dung dạy học trong mội bài tập theo các
mức độ từ dễ đến khó. Sau mỗi bài tập cần củng cố, khắc
sâu và mở rộng KT, KN cần thiết cho HS.
- Với cách chia thứ hai: GV có thể lựa chọn nội
dung bồi dưỡng theo từng phân môn hay từng mảng kiến
thức, theo chuyên đề nào đó (Có thể ôn tập kiến thức của
tháng trước, năm trước).
Chẳng hạn: Trước khi cho HS lớp 5 ôn tập về đại từ,
quan hệ từ, GV có thể cho HS ôn tập kĩ về DT, ĐT, TT .
- Đối với HS TB- Yếu: GV chỉ cần đưa ra những
ngữ liệu đơn giản dạng vận dụng thực hành kiến thức ở
buổi 1, yêu cầu học sinh xác định đúng từ loại.
/> />VD: Gạch một gạch dưới danh từ, hai gạch dưới tính
từ trong câu sau:
Quyển sách này rất đẹp. (DT: quyển sách , TT: đẹp)
- Đối với HS KG: Từ việc giúp HS nhận biết cách
phân loại dựa vào khái niệm đến việc chỉ ra những dấu
hiệu về khả năng kết hợp của từng từ loại. Cao hơn nữa là
việc xác định từ loại của một từ nào đó trong câu khác
nhau.
VD: Ông ấy đang suy nghĩ . (suy nghĩ là động từ)
Những suy nghĩ của ông ấy thật sâu sắc. (suy
nghĩ là danh từ)
Từ việc GV củng cố sâu hơn về DT, ĐT, TT, HS sẽ
chuyển sang ôn tập về đại từ, quan hệ từ, để hoàn thiện
mảng kiến thức về " Từ loại" ở lớp 4,5
Bởi lẽ, trong môn TV lớp 4 - 5 có 3 phân môn
được coi là khó dạy là: Tập đọc (thường bị thiếu thời gian
do việc tìm hiểu nội dung ở các em còn hạn chế) , phân
môn LT- Câu (Khó xác định đúng một số KT), phân môn
Tập làm văn (vốn từ của HS hạn chế, khả năng viết văn
yếu, ) đòi hỏi GV ngoài sự nhiệt tình, say mê với công
việc thì cần phải có kiến thức thật chắc chắn và có hệ
thống, đặc biệt khi dạy và BDHSG phân môn LT- Câu.
Nếu không bản thân GV sẽ rất dễ nhầm lẫn, không làm
chủ khi lên lớp, khó xử lí những tình huống xảy ra.
Tóm lại: Để nâng cao chất lượng dạy học buổi 2
đối với môn Tiếng Việt lớp 4,5, CBQL ở mỗi nhà trường
cần có cách sắp xếp TKB, phân công nhiệm vụ và chọn
hình thức phân chia học sinh như thế nào sao cho phù
hợp với năng lực , điều kiện của mỗi GV sao cho có hiệu
/> />quả cao nhất. Giáo viên cần nhiết tình, tích cực học tập để
nâng cao kiến thức, phương pháp giảng dạy sao cho có
hiệu quả nhất. Trong khi soạn bài hay lên lớp, GV cần
nghiên cứu kĩ nội dung ôn luyện của từng tiết để lựa chọn
các hình thức tổ chức dạy học một cách phù hợp: dạy học
cá nhân, tổ chức nhóm, cần chuẩn bị đầy đủ trang thiết bị,
đồ dùng phù hợp cho cách tổ chức của mình sao cho đạt
hiệu quả nhất. Ban giám hiệu nhà trường cần chỉ đạo sát
sao việc bồi dưỡng cho GV về kiến thức, về phương pháp
giảng dạy, kết hợp tổ chuyên môn tăng cường dự giờ,
kiểm tra đánh giá chất lượng dạy học của mỗi GV được
phân công. Đồng thời có sự động viên khuyến khích kịp
thời các thầy cô có kinh nghiệm hay và có thành tích
trong việc nâng cao chất lượng BDHSG, PĐHS yếu ở
buổi 2, chính là góp phần nâng cao chất lượng dạy học
trong mỗi nhà trường.
D. Việc sử dụng SGK và các tài liệu tham khảo
- SGK, Chuẩn KT, KN và Điều chỉnh NDDH: Là tài
liệu cơ bản. Gv căn cứ vào nội dung bài học được thiết kế
trong SGK, bám sát chuẩn KTKN và những nội dung
điều chỉnh của từng bài theo định hướng của Bộ GD- ĐT
và sự thống nhất của GV trong khối, trong tổ chuyên môn
và được sự kí duyệt của BGH.
- Vở bài tập TV: Hầu hết các bài tập, câu hỏi được
trình bày trong VBT có nội dung trùng lặp với SGK, GV
có thể coi đó như phiếu học tập để học sinh hoàn thành
một số nội dung học tập ngay tại các tiết của buổi học thứ
nhất.
/> />- Vở Ôn luyện và kiểm tra: Hệ thống bài tập được
sắp xếp đan xen các kiến thức, kĩ năng của các phân môn:
Chính tả, LT – Câu, Tập làm văn theo từng tuần, có nội
dung kiểm tra khả năng đọc hiểu của HS, GV có thể tuỳ
từng đối tượng học sinh mà lựa chọn đưa vào ND giảng
dạy sao cho phù hợp và có hiệu quả ở các tiết tăng.
- Các loại sách tham khảo khác như các sách nâng
cao, Để học tốt Tiếng Viêt, GV có thể nghiên cứu, sử
dụng cho đối tượng học sinh khá giỏi.
/>