Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Mở rộng hoạt động cho vay nông nghiệp nông thôn tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (488.79 KB, 82 trang )

Trêng §¹i häc kinh tÕ quèc d©n
   
Tên đề tài
MỞ RỘNG CHO VAY NÔNG NGHIỆP NÔNG
THÔN TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM

1
Hµ néi 06/2013
Table of Contents
LỜI MỞ ĐẦU 2
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỂ CƠ BẢN VỀ MỞ RỘNG CHO VAY TẠI
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 6
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CHO VAY NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN
TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
VIỆT NAM 26
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP MỞ RỘNG CHO VAY TẠI NGÂN HÀNG
NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM 59
TÀI LIỆU THAM KHẢO 79
LỜI MỞ ĐẦU
Nông nghiệp nông thôn đối với Việt Nam được xem là bệ đỡ cho nền kinh tế. từ
năm 2010 đến nay nông nghiệp luôn có những bước đi ổn định vững chắc với mức
tăng trưởng hợp lý. Năm 2010 tốc độ tăng trưởng (GDP) đạt 4,08%, năm 2011 đạt
2,8% năm 2012 đạt 2,6% tuy về tốc độ có giảm nhưng quy mô tổng giá trị tăng. Việt
Nam là một nước có nền nông nghiệp nhiệt đới có nhiều điều kiện tự nhiên để phát
triển, nông nghiệp hiện nay vẫn tồn tại song song hai bộ phận nông nghiệp truyền
thống và nông nghiệp hiện đại, nông nghiệp. Hiện nay tổng số đất đai vùng nông
thôn là 31,3 triệu ha chiếm 95,2% diện tích cả nước. Tổng số dân nông thôn là
2
59.204.800 người chiếm khoảng 75% dân số cả nước. Tuy chiếm số lượng lớn nhưng
việc sản xuất nông nghiệp nông thôn vẫn còn nhỏ lẻ thô sơ, dễ bị ảnh hưởng bởi


những “cú sốc” từ nền kinh tế nước ngoài cũng như từ chính các hiểm họa đến từ
thiên nhiên.
Năm 2013 là năm đánh dấu 5 năm gia nhập WTO của Việt Nam, bước vào giai
đoạn này Việt nam cam kết mở cửa thị trường ở mức độ cao, giảm thuế nhiều cho
các sản phẩm thực phẩm, nông sản chế biến, sản phẩm chăn nuôi như thịt lợn, thịt
bò, sữa. Trong khi đó yêu cầu về sản phẩm nông nghiệp trên thế giới ngày càng khắt
khe khiến cho doanh nghiệp hộ nông dân sản xuất gặp nhiều khó khăn trong việc
cao chất lượng sản phẩm, do thiếu vốn để mở rộng phát triển sản xuất, hoặc áp dụng
các tiến bộ khoa học kỹ thuật. Chính phủ năm 2010 đã ban hành NĐ 41 “Về chính
sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn” nhằm khuyến khích các tổ
chức tín dụng cho vay và đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Bên cạnh đó Ngân hàng nhà nước Việt nam cũng khẳng định từ nay đến năm 2015 sẽ
tiếp tục ban hành các chính sách nâng cao chất lượng tín dụng, tập trung cho nông
thôn
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn là một trong những ngân hàng
tiên phong đi đầu trong lĩnh vực cho vay nông nghiệp nông thôn để trang trải chi phí
đầu tư phát triển sản xuất trong lĩnh vực nông , lâm, ngư, diêm nghiệp. Ngân hàng
Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt nam trong những năm qua, không chỉ đáp
ứng đủ nhu cầu sản xuất kinh doanh bình thường mà còn hướng tới các cơ sở chế
biến lúa gạo, chế biến nông thổ sản, nhằm giúp đỡ sản xuất nông nghiệp việt nam tạo
ra sản phẩm có giá trị cao hơn, đảm bảo, cung ứng đủ vốn vay cho nông nghiệp nông
thôn các chương trình lương thực, thủy sản, cà phê cho vay chi phí mùa vụ, phát triển
đàn gia súc gia cầm, hỗ trợ tổn thất sau thu hoạch theo quyết định 63 của Chính phủ .
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam dư nợ cho vay nông
nghiệp, nông thôn chiếm tỉ lệ gần 70% dư nợ cho vay nền kinh tế, và ngân hàng
cũng nghiêm túc các điều kiện cho vay, mở rộng tín dụng gắn với nâng cao chất
lượng.
3
Mặc dù có rất nhiều những động thái tích cực đến từ phía chính phủ, Ngân
hàng nhà nước Việt Nam, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn để đẩy

mạnh cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn song luồng vốn tín dụng chưa thực
sự chuyển động mạnh về khu vực này. Do bộ phận không nhỏ người sản xuất nông
nghiệp có trình độ chưa cao nên họ nhận thấy thủ tục vốn vay rườm rà, lãi suất trên
thị trường biến động nhiều nên có tâm lý lo ngại không hỏi rõ cán bộ ngân hàng về
những vướng mắc từ đó không muốn đi vay ngân hàng để mở rộng sản xuất . Bên
cạnh đó có một số chính sách chưa thực sự phù hợp với thực trạng nông nghiệp Việt
Nam hiện nay, ví dụ như vấn đề đầu tư máy móc yêu cầu bà con nông dân phải sử
dụng tiền vay mua máy móc của nội, trong khi máy móc của nội chưa thật sự có chất
lượng tốt. Tuy nhiên xét trên quan điểm của Ngân hàng, thì Ngân hàng nông nghiệp
và phát triển nông thôn cũng không thể cho vay khi mà việc đầu tư mở rộng sản xuất
của nông nghiệp không có tài sản bảo đảm, không có giấy tờ hợp lý, hay chứng minh
được khả năng sinh lời. Do đó người nông dân đi vay vốn ngân hàng để phát triển
sản xuất nông nghiệp còn rất nhiều vấn đề cần giải quyết làm sao Ngân hàng cho vay
hợp lý giúp đỡ được người nông dân nhưng cũng cần đảm bảo về khoản cho vay.
Cũng đã có khá nhiều đề tài nghiên cứu khoa học, luận văn thạc sỹ,…về vấn
đề nâng cao chất lượng tín dụng nông nghiệp nông thôn của Ngân hàng Nông nghiệp
và phát triển nông thôn ở các chi nhánh. Tuy nhiên các đề tài này chỉ xét trên một địa
phương , chưa thực sự khái quát vấn đề của toàn bộ hệ thống do các địa phương khác
nhau thì có điều kiện cơ sở vật chất khác nhau, dù đưa ra được các giải pháp nhưng
khó có thể áp dụng trên diện rộng. Hơn nữa các đề tài chỉ đề cập tới vấn đề nâng cao
chất lượng cho vay, phát triển cho vay như vậy là chưa đáp ứng tiềm năng về nhu
cầu vốn của khách hàng cũng như nâng cao nguồn thu nhập cho ngân hàng, theo ý
kiến chủ quan của nhóm nghiên cứu thì nên tiến hành ra giải pháp mở rộng hoạt
động cho vay nông nghiệp nông thôn. Mở rộng là mở rộng cả chiều rộng và chiều
sâu, tức là vừa tăng số lượng và cũng tăng cả chất lượng của khoản vay nông nghiệp
nông thôn.
4
Vì vậy nhóm nghiên cứu quyết định lựa chọn đề tài “ Mở rộng hoạt động
cho vay nông nghiệp nông thôn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông
thôn Việt Nam”

1. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
- Tổng quan về hoạt động cho vay nông nghiệp nông thôn
- Thực trạng cho vay nông nghiệp nông thôn của Ngân hàng nông nghiệp và
phát triển nông thôn trong giai đoạn 2010 – 2012 từ đó phân tích thực trạng mở
rộng cho vay của ngân hàng, qua đó đánh giá những mặt đạt được những mặt chưa
đạt được, rút ra nguyên nhân của thực trạng đó.
- Nêu lên được giải pháp mở rộng hoạt động cho vay nông nghiệp nông thôn tại
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam trong thời gian tới
2. Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu sử dụng các phương pháp duy vật biện chứng duy vật lịch
sử , áp dụng các phương pháp thống kê, quy nạp, tổng hợp, so sánh để làm rõ vấn đề
của đề tài.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu : hoạt động cho vay nông nghiệp nông thôn
- Phạm vi nghiên cứu : Hoạt động cho vay nông nghiệp nông thôn tại hệ thống
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam giai đoạn 2010 – 2012.
4. Kết cấu của đề tài
Chương 1 : Những vấn đề cơ bản về mở rộng hoạt động cho vay nông
nghiệp nông thôn.
Chương 2 : Thực trạng mở rộng cho vay nông nghiệp nông thôn của
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.
Chương 3 : Giải pháp mở rộng cho vay nông nghiệp nông thôn tại
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt nam.
5
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỂ CƠ BẢN VỀ MỞ RỘNG
CHO VAY TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Khái quát cho vay nông nghiệp nông thôn
1.1.1 Nông nghiệp, nông thôn
Nông nghiệp - nông thôn có vị trí quan trọng trong tiến trình phát triển kinh tế -
xã hội. Nước ta với gần 87 triệu dân hơn 70% số dân sống ở nông thôn, nguồn sống

chủ yếu vẫn là thu nhập từ nông nghiệp, tuy thu nhập thấp nhưng dân cư lại đông là
thị trường tiêu thụ lớn cho sản phẩm công nghiệp và dịch vụ.
Nông nghiệp - nông dân - nông thôn như là cái phao cho cả nền kinh tế. Đặc biệt
trong điều kiện kinh tế khó khăn , đây là điều kiện để ổn định kinh tế . Những kết
quả đạt được trong lĩnh vực này trong những năm qua, có thể nói đó cũng là một
trong những kết quả đáng tự hào nhất trong phát triển nền kinh tế của đất nước. Thực
tế năm 2012, ngành nông nghiệp xuất siêu 10,6 tỷ USD, bất chấp những tác động
tiêu cực của khủng hoảng nợ công ở khu vực châu Âu, sự phục hồi chậm của kinh tế
thế giới, khiến giá nhiều loại nông sản liên tục giảm, đặc biệt là những mặt hàng xuất
khẩu chủ lực như gạo, càphê, cao su…, hầu hết các mặt hàng xuất khẩu của nước ta
6
đều tăng mạnh cả về khối lượng và kim ngạch so với năm 2011. Chẳng hạn giá trị
sản xuất nông nghiệp tăng 2,8%, lâm nghiệp tăng 6,4%, thủy sản tăng 4,5%. Đáng
chú ý, xuất khẩu gạo đã ghi thêm kỷ lục mới về khối lượng xuất khẩu với 8,1 triệu
tấn (tăng 13,9%), thu về 3,7 tỷ USD; sản xuất cà phê vừa được mùa, vừa được giá và
xuất khẩu đã vượt Brazil, vươn lên đứng đầu thế giới…Tốc độ tăng trưởng toàn
ngành (GDP) đạt 2,72%.
Có thể khẳng định nông nghiệp, nông dân, nông thôn luôn là vấn đề quan tâm
hàng đầu của Đảng. Trong cả lý luận và thực tiễn, Ðảng ta luôn xác định nông
nghiệp, nông dân, nông thôn ở vị trí tầm chiến lược quan trọng, coi đó là cơ sở và lực
lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, ổn định chính trị, xã hội.
1.1.2 Cho vay nông nghiệp, nông thôn
Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách
hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo
thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. ( Theo Điều 3, quyết định của
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31 tháng 12 năm
2001 về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng)
Cho vay nông nghiệp, nông thôn là hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín
dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời
gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi.

Nền kinh tế nước ta chưa thực sự công bằng đối với lĩnh vực nông nghệp, nông
thôn. Mặc dù Nhà nước đã chú trọng đầu tư cho khu vực nông nghiệp, nông thôn,
nông dân, nhưng mới chỉ đáp ứng được hơn 50% nhu cầu, vì vậy chưa phát huy hết
tiềm năng trong nông nghiệp, nông thôn, chưa tương xứng với tỷ lệ dân số Việt Nam
gắn với nông nghiệp, nông thôn, đồng thời, cũng chưa có chính sách, giải pháp hữu
hiệu để huy động được nhiều nguồn lực đầu tư của doanh nghiệp và toàn xã hội cho
khu vực này.
7
Sau gần 3 năm thực hiện Nghị định 41/NĐ-CP về chính sách phục vụ phát triển
nông nghiệp, nông thôn, nhiều hộ gia đình trên cả nước vay vốn để phát triển sản
xuất, kinh doanh. Nghị định 41 cùng các chính sách khác của Nhà nước về hỗ trợ tín
dụng góp phần thay đổi diện mạo sản xuất khu vực nông nghiệp, nông thôn từ manh
mún, nhỏ lẻ sang đầu tư phát triển tập trung, quy mô lớn.
Đặc điểm cho vay nông nghiệp, nông thôn:
Theo quy định của Nghị định số 41/2010/NĐ-CP của Chính phủ : Về chính sách
tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn quy định cụ thể:
• Các tổ chức được thực hiện cho vay phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn
bao gồm:
Các tổ chức tín dụng được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật Các tổ
chức tín dụng;
Các tổ chức tài chính quy mô nhỏ, thực hiện việc cho vay các món tiền nhỏ cho
người nghèo và các đối tượng khác trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn theo quy
định của pháp luật;
Các ngân hàng, tổ chức tài chính được Chính phủ thành lập để thực hiện việc cho
vay theo chính sách của Nhà nước.
• Tổ chức, cá nhân được vay vốn theo quy định tại Nghị định này để phục vụ sản
xuất, kinh doanh và tiêu dùng trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn bao gồm:
- Hộ gia đình, hộ kinh doanh trên địa bàn nông thôn;
- Cá nhân;
- Chủ trang trại;

- Các hợp tác xã, tổ hợp tác trên địa bàn nông thôn;
8
- Các tổ chức và cá nhân cung ứng các dịch vụ phục vụ trồng trọt, chăn nuôi, dịch
vụ tiêu thụ và xuất khẩu sản phẩm nông, lâm, diêm nghiệp và thuỷ sản;
- Các doanh nghiệp chế biến các sản phẩm từ nông nghiệp hoặc kinh doanh trong
các lĩnh vực công nghiệp, thương mại, cung ứng dịch vụ phi nông nghiệp, có cơ sở
sản xuất, kinh doanh trên địa bàn nông thôn.
• Nguyên tắc cho vay
- Các tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính quy mô nhỏ đầu tư tín dụng phục vụ phát
triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống của nhân dân trên nguyên tắc tự
chủ, tự chịu trách nhiệm về hiệu quả đầu tư.
- Các tổ chức tín dụng thực hiện cơ chế bảo đảm tiền vay theo quy định hiện hành
và xác định mức cho vay không có bảo đảm đối với từng đối tượng cụ thể, phù hợp
với đặc điểm kinh doanh của khách hàng và khả năng quản lý rủi ro của tổ chức tín
dụng. Các tổ chức tín dụng thông báo công khai mức cho vay không có bảo đảm
bằng tài sản, điều kiện, thủ tục cho vay cụ thể trên cơ sở tuân thủ các quy định hiện
hành về cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng.
- Các ngân hàng, tổ chức tài chính thực hiện cho vay các đối tượng chính sách và
các chương trình kinh tế theo chỉ định của Chính phủ, được Chính phủ bảo đảm các
điều kiện để thực hiện thông qua các chính sách đối với nông nghiệp, nông thôn,
nông dân trong từng thời kỳ.
- Các tổ chức tài chính quy mô nhỏ cho vay các đối tượng trong lĩnh vực nông
nghiệp, nông thôn thực hiện theo quy định của pháp luật.
• Chính sách hỗ trợ của Nhà nước: Chính phủ có chính sách khuyến khích, hỗ
trợ việc cho vay đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn thông qua các công cụ điều
hành chính sách tiền tệ, chính sách xử lý rủi ro phát sinh trên diện rộng trong lĩnh
vực nông nghiệp, nông thôn và các chính sách cụ thể khác trong từng thời kỳ.
• Lãi suất cho vay:
9
- Các ngân hàng, tổ chức tài chính thực hiện cho vay các đối tượng chính sách, các

chương trình kinh tế ở nông thôn theo chỉ định của Chính phủ thì thực hiện việc cho
vay theo mức lãi suất do Chính phủ quy định.
- Lãi suất cho vay phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn của các tổ chức tín
dụng được thực hiện theo cơ chế tín dụng thương mại hiện hành.
- Những khoản cho vay đối với nông nghiệp, nông thôn của các tổ chức tín dụng
do Chính phủ hoặc các tổ chức cá nhân khác uỷ thác thì mức lãi suất được thực hiện
theo quy định của Chính phủ hoặc theo thoả thuận với bên uỷ thác.
- Các tổ chức tài chính quy mô nhỏ thực hiện việc cho vay theo lãi suất thoả thuận
với khách hàng, phù hợp với quy định của pháp luật.
Ngoài ra, đặc điểm vay vốn nông nghiệp nông thôn (đặc biệt là nguồn, khả năng
trả nợ) phụ thuộc nhiều vào đặc trưng sản xuất nông nghiệp, nếp sống nông thôn
• Thu nhập của các hộ nông dân nói chung là thấp, đời sống của họ còn nhiều
khó khăn. Vì vậy vốn tín dụng còn có hiện tượng sử dụng sai mục đích. Có trường
hợp vốn cung cấp không được đầu tư vào sản xuất, mà dùng vào mua sắm hoặc đánh
bạc nên làm cho đồng vốn phát huy tác dụng kém.
• Đối tượng vay vốn chủ yếu là các hộ gia đình, nên món vay thường nhỏ.
• Đối tượng sản xuất của các hộ sản xuất chủ yếu là cây trồng, con vật nuôi nó
có quy luật sinh trưởng và phát triển riêngtheo thời kì. Tính thời vụ trong sản xuất
nông nghiệp đã làm cho sự tuần hoàn và luân chuyển vốn chậm chạp. Vì vậy cần
thiết phải có lượng vốn dự trữ đáng kể trong thời gian dài cho nên hiệu quả sử dụng
vốn không cao.
• Sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, việc thu hồi
vốn cũng bị các điều kiện tự nhiên tác động; ngoài ra còn tùy thuộc vào giá cả nông
sản trên thị trường.
• Mặc dù nhu cầu vốn lớn, nguồn vốn dành cho phát triển nông nghiệp không
thiếu nhưng các hộ nông dân còn khó tiếp cận với nguồn vốn do không năm đầy đủ
thông tin hoặc không đáp ứng hết các yêu cầu của tổ chức tín dụng.
10
Nông nghiệp nông thôn là lĩnh vực rộng lớn, là mảng tín dụng cần được mở rộng cho
vay vừa là nguồn động lực để đẩy mạnh phát triển Nông nghiệp nông thôn vừa là

nguồn thu nhập ổn định cho ngân hàng thương mại.
1.1.3 Hình thức cho vay nông nghiệp, nông thôn:
Các loại hình cho vay của ngân hàng thương mại thường được phân theo nhiều
tiêu thức tùy thuộc vào mục đích quản lý hay nghiên cứu của các nhà quản lý. Hiện
nay các ngân hàng thường phân loại cho vay theo các tiêu chí sau: Căn cứ vào thời
hạn cho vay, căn cứ vào đối tượng cho vay, căn cứ vào mức độ tín nhiệm khách
hàng , căn cứ vào phương thức cho vay.
1.1.3.1 Căn cứ vào thời hạn cho vay:
Phân chia theo thời hạn cho vay có ý nghĩa quan trọng với ngân hàng vì thời gian
liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng ngân hàng. Theo thời
hạn, ngân hàng thương mại chia cho vay thành 3 loại:
- Cho vay ngắn hạn: là loại cho vay có thời hạn dưới một năm và được sử dụng
để bổ sung thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của doanh nghiệp và phục vụ nhu cầu
sinh hoạt của các cá nhân, dùng để mua sắm tư liệu sản xuất theo mùa vụ của các hộ
sản xuất, đối với NHTM, cho vay ngắn hạn thường chiếm tỷ trọng cao nhất trong
tổng dư nợ. Các loại cho vay này thường có độ rủi ro thấp vì trong thời gian ngắn ít
có biến động xảy ra và nếu có xảy ra thì Ngân hàng dễ dự tính hơn.
- Cho vay trung hạn: Là loại cho vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm, chủ yếu được
sử dụng để mua sắm TSCĐ, cải tiến và đổi mới kĩ thuật, mở rộng sản xuất, xây dựng
các dự án có quy mô nhỏ, có thời hạn thu hồi vốn nhanh. Trong lĩnh vực nông nghiệp
nông thôn, các hộ sản xuất, cá nhân, các trang trại, doanh nghiệp dùng để mua sắm
máy móc thiết bị phục vụ sản xuất, các loại máy chế biến và bảo quản nông sản, hoặc
có thể dùng để mua giống cây con có thời hạn dài, xây dựng các trạng trại có quy mô
nhỏ…
- Cho vay dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm, thường được sử dụng
để cấp vốn cho xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới, các công trình
11
thuộc cơ sở hạ tầng, cải tiến và mở rộng sản xuất với quy mô lớn. Loại cho vay này
có mức độ rủi ro rất lớn vì trong thời gian dài có những biến động xảy ra là không
lường trước được.

1.1.3.2 Căn cứ theo đối tượng vay.
Phân loại theo đối tượng cho vay là cách phân loại phổ biến nhất của các ngân
hàng thương mại. Thông thường tại Hội sở chính cũng như các chi nhánh lớn của
ngân hàng thương mại thường phân ra các phòng khách hàng đặc biệt. Cách phân
loại này nhằm mục đích là để quản lý các khoản cho vay được tốt hơn cũng như
chuyên biệt tiếp cận đối với từng nhóm khách hàng. Các đối tượng cho vay trong nền
kinh tế được chia ra như sau:
- Đối tượng vay là khách hàng cá nhân: Mặc dù số lượng cho vay mỗi cá nhân
là không lớn nhưng số lượng khách hàng cá nhân chiếm tỷ trọng lớn trọng tổng số
khách hàng của ngân hàng. Có thể là vay tiêu dùng để mua sắm trang thiết bị thực
hiện sản xuất và nhìn chung hình thức cho vay của khách hàng cá nhân là vay từng
lần, có tài sản đảm bảo, không xây dựng hạn mức.
- Đối tượng vay là các doanh nghiệp vừa và nhỏ: số lượng các doanh nghiệp
vừa và nhỏ của nước ta đang ngày một gia tăng và ngày một thể hiện vai trò vị thế
trong nền kinh tế thị trường. Có thể nói các doanh nghiệp vừa và nhỏ là những khách
hàng tiềm năng của ngân hàng thương mại.
- Đối tượng vay là các doanh nghiệp lớn: các doanh nghiệp có qui mô lớn, thực
hiện sản xuất kinh doanh với nhu cầu vốn rất lớn. Họ có thể mang lại những hợp
đồng vay vốn thường xuyên cho ngân hàng.
Đối với lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, ngân hàng thương mại có thể chia ra các
đôi tượng vay như sau:
- Cá nhân
- Hộ sản xuất
- Doanh nghiệp
- Tổ vay vốn
12
1.1.3.3 Căn cứ vào độ tín nhiệm khách hàng
Hoạt động cho vay dựa trên cơ sở chính là sự tin tưởng lẫn nhau giữa người cho
vay và người vay để đảm bảo khoản vay có hiệu quả và được thanh toán cả gốc và lãi
đủ và đúng hạn. Tùy vào mức độ tín nhiệm của ngân hàng đối với khách hàng là cao

hay thấp mà ngân hàng sẽ yêu cầu khách hàng phải có tài sản bảo đảm hoặc không
- Cho vay có tài sản bảo đảm: Là loại hình cho vay dựa trên cơ sở các hình thức
bảo đảm như thế chấp, cầm cố, hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba. Ngân hàng
nắm giữ tài sản của người vay để xử lý, thu hồi nợ khi người vay không thực hiên
các nghĩa vụ đã được cam kết trong hợp đồng tín dụng. Đây là nguồn thu dự phòng
trong những trường hợp các nguồn thu chính từ dự án, phương án vay thiếu hụt,
đồng thời cũng là một áp lực nhất định để người vay tuân thủ hợp đồng, giảm thiểu
rủi ro cho ngân hàng.
- Cho vay không có bảo đảm: là loại hình cho vay không có tài sản cầm cố, thế
chấp hoặc không có bảo lãnh của người thứ ba. Việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của
bản thân khách hàng. Hình thức này thường áp dụng với những khách hàng có uy tín
lớn và có khả năng trả nợ cao
1.1.3.4 Phân lạo theo phương thức cho vay:
Trên cơ sở nhu cầu sử dụng vốn vay của từng khoản vay của khách hàng và
khả năng kiểm tra, giám sát của Ngân hàng, NH nơi cho vay thỏa thuận với
khách hàng vay về việc lựa chọn các phương thức cho vay sau đây:
- Cho vay từng lần
Phương thức cho vaỵ từng lần áp đụng đối với khách hàng có nhu cầu vay
vốn từng lần. Mỗi lần vay vốn, khách hàng và NH nơi cho vay lập thủ tục vay
vốn theo quỵ định và ký hợp đồng tín dụng.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng
Phương thức cho vay này áp dụng với khách hàng vay ngắn hạn có nhu cầu
vay vốn thường xuyên, kinh doanh ổn định. NH nơi cho vay sau khi nhận đủ
các tài liệu của khách hàng sẽ tiến hành xác định hạn mức tín dụng.Thời hạn
của hạn mức tín dụng tối đa là 12 tháng tính từ ngày ký kết hạn mức tín dụng.
13
NH nơi cho vay phải quán lý chặt chẽ hạn mức tín dụng, bảo đảm mức dư nợ
ở mọi thời điểm không vượt quá hạn mức tín dụng đã ký kết. Trong quá trình
vay vốn, trả nợ, nếu việc sản xuất kinh doanh có thay đôi và khách hàng có nhu
cầu điều chỉnh hạn mức, Ngân hàng sẽ căn cứ vào nhu cầu vay vốn của khách

hàng, tiến hành thấm định dể xác định hạn mức tín dụng và thời hạn của hạn
mức tín dụng mới.
- Cho vay theo dự án đầu tư
NH cho khách hàng vay vổn đế thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời sống, xây dựng nông
thôn mới. NH sẽ cùng khách hàng ký hợp đồng tín dụng và thỏa thuận mức vốn
đầu tư duy trì cho cả thời gian đầu tư của dự án, phân định các kỳ hạn trả nợ.
Ngân hàng thực hiện giải ngân theo tiến độ thực hiện dự án.Trường hợp khách
hàng đã dùng nguồn vốn huy động tạm thời khác để chi phí cho dự án được
duyệt trong thời gian chưa vay được vốn ngân hàng, thì NHNo nơi cho vay có
thể xem xét cho vay bù đắp nguồn vốn đó.
- Cho vay đồng tài trợ
Việc cho vay đồng tài trợ thực hiện theo quy chế đồng tài trợ của tổ chức tín
dụng do Thống đốc NHNN Việt Nam ban hành, và thoả thuận giữa các tổ chức
tín dụng. Theo đó, một số ngân hàng sẽ cùng cho vay một dự án hoặc một
phương án vay vốn của khách hàng thông qua một ngân hàng làm đầu mối dàn
xếp, phối hợp với các ngân hàng.
- Cho vay trả góp
Ngân hàng và khách hàng thỏa thuận và xác định số lãi tiền vay phải trả
trong suốt thời hạn vay cộng (+) với số nợ gốc được chia ra đế trả nợ theo nhiều
kỳ hạn (ngày, tuần, tháng/kỳ) trong thời hạn cho vav.
- Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng
Ngân hàng sẽ chấp thuận cho khách hàng được sử dụng sổ vốn vay trong
phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hóa, dịch vụ và rút tiền
mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của ngân hàng đó.
14
Khi phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, ngân hàng và khách hàng phải tuân theo
các quy định của Chính phủ và NHNN Việt Nam về phát hành và sử dụng thẻ
tín dụng.
- Cho vay theo hạn mức thấu chi

Ngân hàng sẽ thỏa thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng được chi
vượt số tiền hiện có trên tài khoản thanh toán của khách hàng phù hợp với các
quy định của Chính phủ về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch
vụ thanh toán .
Ngoài ra trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, các ngân hàng còn áp dụng
phương thức cho vay thích hợp với đặc điểm của lĩnh vực này:
- Cho vay lưu vụ:
Hình thức này chỉ áp dụng trong cho vay hộ gia đình, cá nhân vùng chuyên
canh trồng lúa và ở các vùng xen canh trồng lúa với các cây trồng ngắn hạn
khác. Ngân hàng xét cho vay lưu vụ khi hộ gia đình, cá nhân có đủ các điều
kiện: Phải có 2 vụ liền kề; Dự án, phương án đang vay có hiệu quả; Trả đủ số
lãi còn nợ của hợp đong tín dụng trước.
Mức cho vay tối đa bằng mức dư nợ thực tế của hợp đồng tín dụng trước.
Thời hạn lưu vụ không quá thời hạn của một vụ kế tiếp.
Như vậy theo các cách phân loại cho vay theo các tiêu chí trên, so sánh với
kết cấu nguồn vốn huy động, các nhà quản trị ngân hàng có thể đánh giá phân
tích được kết cấu cho vay đã phù hợp với các lĩnh vưc cho vay nói chung và
lĩnh vực nông nghiệp nông thôn nói riêng hay chưa? đã phù hợp với điều kiện
kinh tế, xã hội và các điều kiện, chiến lược của ngân hàng chưa? Từ đó đưa ra
quyết định xem nên tiếp tục hay cố gắng mở rộng cho vay ở đối tượng nào, lĩnh
vực nào, kết cấu thời hạn nào cho hợp lí nhằm mở rộng cho vay cho hiệu quả.
15
1.2 Mở rộng cho vay hộ nông dân
1.2.1 Quan niệm về mở rộng cho vay nông nghiệp nông thôn
Mở rộng cho vay trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn là sự gia tăng về quy mô
dư nợ cho vay các khách hàng thuộc lĩnh vực nông nghiệp nông thôn trên cơ sở đảm
bảo các nguyên tắc hoạt động của ngân hàng thương mại.
Mở rộng cho vay trong lĩnh vực nông thôn được thực hiện thông qua việc tạo mọi
điều kiện để người nông dân, các hộ sản xuất, các cá nhân, các tổ vay vốn trong lĩnh
vực nông nghiệp nông thôn có thể tiếp cận được nguồn vốn vay từ ngân hàng ( mở

rộng số lượng khách hàng), và gia tăng khoản vay cho mỗi hộ khách hàng trên ( mở
rộng dư nợ tín dụng cho mỗi hộ nông dân).
Đối với ngân hàng thương mại, cho vay là hoạt động chính trong việc mang lại thu
nhập cho ngân hàng. Song song với việc mang lại thu nhập cao, những khoản dư nợ
thuộc nhóm nợ xấu lại là vấn đề nan giải của ngân hàng. Chính vì vậy khi đề cập đến
mở rộng cho vay, cần xét đến việc mở rộng như thế nào để vẫn đảm bảo được ba yếu
tố cốt lõi của ngân hàng thương mại trong cho vay là: tính an toàn, tính khả thi và
tính sinh lời.
1.2.2 Chỉ tiêu phản ánh mở rộng cho vay
Muốn xem xét, nhìn nhận, đánh giá một vấn đề, chúng ta cần nghiên cứu vấn đề
đó, lượng hóa nó và thông qua các bộ chỉ tiêu để từ đó đưa đến những kết luận một
cách chính xác nhất có thể. Ngân hàng muốn mở rộng cho vay cần nghiên cứu cụ thể
các kết quả đạt được từng năm, tiến hàng phân tích các chỉ tiêu để đưa ra các kết luận
mở rộng cho vay như vậy đã hiệu quả hay chưa, để rồi từ đó hoạch định các chính
sách tiếp theo.
Mở rộng cho vay nghĩa là việc gia tăng quy mô khách hàng và dư nợ từng khách
hàng ràng buộc trong mối quan hệ với đảm bảo tính an toàn, tính khả thi và sinh lời
của ngân hàng. Để nghiên cứu vấn đề trên chúng ta cần sử dụng kết hợp một số
những chỉ tiêu sau
16
1.2.2.1 Chỉ tiêu thể hiện mức gia tăng khách hàng vay vốn:

Trong đó, H1: mức gia tăng khách hàng vay vốn
Hn: số khách hàng vay vốn trong năm n
Hn-1: số khách hàng vay vốn trong năm n-1
Chỉ tiêu này đánh giá mức gia tăng số khách hàng vay vốn qua từng năm là nhanh
hay chậm.
1.2.2.2 Chỉ tiêu thể hiện mức gia tăng dư nợ cho vay
Trong đó, H2: mức gia tăng dư nợ cho vay
Dn : Dư nợ cho vay năm n

Dn-1: Dư nợ cho vay năm n-1
17
Chỉ tiêu này dùng để so sánh sự tăng trưởng dư nợ tín dụng qua các năm nhằm
đánh giá khả năng cho vay, tìm kiếm khách hàng, tình hình thực hiện kế hoạch cho
vay của ngân hàng. Chỉ tiêu này càng cao thể hiện việc mở rộng cho vay càng nhanh.
1.2.2.3 Chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu cho vay

Tổng các khoản nợ xấu: Là tổng các khoản nợ thuộc các nhóm 3, 4 và 5 theo quy
định tại Khoản 3 Điều 1 Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/4/2007 của
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định
về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt
động ngân hàng của tổ chức tín dụng ban hành theo Quyết định số 493/2005/QĐ-
NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước hoặc Điều 7 Quy định
về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt
động ngân hàng của tổ chức tín dụng ban hành kèm theo Quyết định số
493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
Chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng mở rộng hoạt
động cho hay hộ nông dân của ngân hàng. Tỷ lệ nợ xấu càng cao thể hiện chất lượng
mở rộng cho vay càng kém và ngược lại.
1.2.2.4 Chỉ tiêu tỷ lệ dự phòng rủi ro cho vay
18
Dự phòng rủi ro là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có
thể xảy ra do khách hàng không thực hiện được nghĩa vụ theo cam kết. Dự phòng rủi
ro được tính theo dư nợ gốc và được hạch toán vào chi phí hoạt động của tổ chức tín
dụng. Dự phòng rủi ro bao gồm dự phòng chung và dự phòng cụ thể.
Dự phòng chung là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất chưa
xác định được trong quá trình phân loại nợ và trích lập dự phòng cụ thể và trong các
trường hợp khó khăn về tài chính của các tổ chức tín dụng khi chất lượng các khoản
nợ suy giảm .
Dự phòng cụ thể là khoản tiền được trích lập trên cơ sở phân loại cụ thể các khoản

nợ để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra.
Số tiền dự phòng cụ thể đối với từng khoản nợ được tính theo công thức sau:
R = max {0, (A - C)} x r
Trong đó: R: số tiền dự phòng cụ thể phải trích
A: Số dư nợ gốc của khoản nợ
C: giá trị khấu trừ của tài sản bảo đảm
r: tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể.
Số tiền trích lập dự phòng rủi ro cho vay càng chiếm tỷ lệ lớn trong tổng dư nợ
của ngân hàng chứng tỏ chất lượng cho vay của ngân hàng càng thấp, và mở rộng
cho vay trong trường hợp này là không hiệu quả. Tuy nhiên cũng cần thấy rằng, một
ngân hàng có quỹ dự phòng rủi ro lớn đồng nghĩa với việc sẽ có một rào chắn rủi ro
tốt, tạo thuận lợi cho hoạt động được ổn định, kể cả trong giai đoạn khó khăn. Nhất
là đối với mảng cho vay trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, hoạt động cho vay
thường bị tác động bởi các yếu tố khách quan như thiên tai, lũ lụt, mất mùa…
19
1.2.2.5 Chỉ tiêu thu nhập từ cho vay.
Mở rộng cho vay không phải là chỉ cần gia tăng dư nợ, gia tăng số lượng khách
hàng vay vốn… mà quan trọng là phải đảm bảo khoản cho vay mang lại thu nhập
cho ngân hàng. Việc gia tăng tổng dư nợ sẽ dẫn đến việc gia tăng thu nhập cho ngân
hàng, như vậy có thể thông qua thu nhập để đánh giá về khả năng mở rộng cho vay
cả về số lượng và chất lượng của ngân hàng.
Thu nhập từ cho vay được đánh giá thông qua tỷ lệ thu lãi:
Chỉ tiêu này dùng để đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch tài chính của ngân
hàng, đánh giá khả năng đôn đốc, thu hồi lãi và tình hình thực hiện kế hoạch doanh
thu của ngân hàng từ việc cho vay và mở rộng cho vay.
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến mở rộng cho vay trong ngân hàng thương mại
1.3.1 Nhân tố khách quan
- Chính sách của Chính phủ
Chính sách của chính phủ là một nhân tố tác động rất lớn đến môi trường hoạt
động của cả nền kinh tế. Đối với một đối tượng cụ thể hay một lĩnh vực cụ thể trong

20
nền kinh tế thì chính sách của chính phủ càng thông thoáng, càng hỗ trợ được nhiều
thì càng tạo điều kiện để lĩnh vực đó phát triển.
Nếu xét ngân hàng thương mại trên quan điểm là một thành phần của nền kinh tế
và xét cụ thể hơn là hoạt động cho vay thì khi chính sách tín dụng càng được nới
lỏng thì ngân hàng càng dễ dàng hơn trong việc mở rộng cho vay cho nền kinh tế,
còn nếu chính sách tín dụng càng thắt chặt thì việc cho vay và mở rộng cho vay càng
gặp nhiều khó khăn.
Nếu xét ngân hàng thương mại trên khía cạnh trung gian tài chính thì khi chính
sách của chính phủ càng tạo những điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh tế của
các đối tượng là khách hàng vay thì càng làm cho mạch máu tín dụng càng được
khơi thông, giúp các khách hàng có thể có nguồn thu để đảm bảo khả năng trả nơ cho
ngân hàng, sự khuyến khích, hỗ trợ của chính phủ trong nguồn vốn để phát triển nền
kinh tế vừa giúp cho khách hàng vừa giúp cho hoạt động của ngân hàng giảm thiều
được rủi ro, ổn định và phát triển hơn.
- Môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế hay môi trường kinh doanh là tổng thể các hoạt động kinh tế
của các đối tượng khác nhau trong nền kinh tế, các hoạt động kinh tế này có mối
tương quan ràng buộc, có thể ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến
nhau. Hoạt động ngân hàng thương mại được xem là mạch máu của nền kinh tế
thông qua việc huy động vốn và cho vay trong nền kinh tế. Bất cứ một tác động nào
trong nền kinh tế đều có thể làm cho mạch máu đấy bị ngưng đọng vón cục, không
thể lưu thông dễ dàng được. Vì vậy, sự ổn định của nền kinh tế sẽ có tác động mãnh
mẽ đến hoạt động của ngân hàng đặc biệt là hoạt động cho vay.
Các biến số kinh tế vĩ mô như lạm phát, tốc độ tăng trưởng kinh tế, ảnh hưởng rất
lớn đến việc mở rộng cho vay và chất lượng của các khoản vay. Trong điều kiện kinh
tế ổn định và với một tỷ lệ lạm phát vừa phải, các điều kiện sản xuất, dịch vụ trong
nền kinh tế được đảm bảo, làm ăn có hiệu quả, nhu cầu vốn để cải tiến công nghệ, kĩ
21
thuật mua sắm máy móc mới, mở rộng sản xuất tăng cao cho ngân hàng nên ngân

hàng có thể đẩy mạnh, mở rộng được cho vay. Còn trong điều kiện kinh tế khó khăn,
lạm phát cao, thất nghiệp cao, sản xuất đình trệ thì nhu cầu vay vốn giảm khiến cho
việc cho vay và mở rộng cho vay gặp nhiều khó khăn, nếu ngân hàng cứ mở rộng
cho vay một cách dễ dãi sẽ gặp rủi ro rất lớn cho các khoản cho vay.
- Nhân tố khách hàng
Khách hàng là người lập ra phương án, dự án xin vay và sau khi được ngân hàng
chấp nhận, khách hàng trực tiếp sử dụng vốn vay để hoạt động sản xuất kinh doanh.
Như vậy muốn cho vay được phải dựa trên nhu cầu vốn của khách hàng. Nếu khách
hàng có nhu cầu vốn cao, có thường xuyên tìm đến ngân hàng để vay vốn thì ngân
hàng mới có thể cho vay và đẩy mạnh cho vay được. Nếu khách hàng không có nhu
cầu sản xuất, mở rộng sản xuất, hay không có nhu cầu vốn thì ngân hàng không thể
đẩy mạnh cho vay được.
Khách hàng vay vốn ảnh hưởng đến hoạt động cho vay thông qua những yếu tố
sau:
Về trình độ và nhận thức của khách hàng: trình độ và nhận thức càng cao thì việc
đáp ứng các yêu cầu trong thủ tục vay vốn giúp ngân hàng tiết kiệm các chi phí về
hướng dẫn và giải thích về các thủ tục, hồ sơ vay vốn. Ngược lại nếu trình độ dân trí
còn hạn chế thì ngân hàng thương mại phải tốn kém chi phí hơn trong các khâu này,
và càng thấy phức tạp trong thủ tục vay vốn, càng không đáp ứng được các thủ tục
vay vốn thì khách hàng càng ngần ngại trong việc vay vốn, và thường tìm đến các
nguồn vốn khác để đơn giản hơn trong thủ tục cho vay. Điều này làm cho ngân hàng
không thể mở rộng cho vay được khi số lượng khách hàng có nhu cầu vay vốn giảm.
Về năng lực của khách hàng: năng lực của khách hàng càng cao, càng có những
dự án kinh doanh tốt, hạn chế được rủi ro trong kinh doanh của chính mình. Năng lực
khách hàng càng cao cao càng đánh giá đực những thuận lợi của môi trường kinh
doanh để từ đó vay vốn và sử dụng vốn có hiệu quả. Nếu lượng khách hàng này gia
22
tăng ngân hàng càng có điều kiện, tiền để tốt để mở rộng cho vay. Ngược lại nếu,
khách hàng không có những dự án, những kế hoạch sản xuất kinh doanh tốt, sẽ tạo ra
những bất lợi cho ngân hàng trong hoạt động cho vay.

Về sự trung thực, đạo đức của khách hàng: vấn đề đạo đức và độ trung thực của
khách hàng ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của các khoản vay, nếu ngân hàng mở
rộng cho vay càng nhiều rủi ro sẽ càng lớn. Liệu trong khi đánh giá về đạo đức của
khách hàng không tốt thì ngân hàng có mạo hiểm cho vay và mở rộng cho vay nữa
không?
Về tài sản bảo đảm: quyền sở hữu tài sản là một trong những tiêu chuẩn để được
quyết định cho vay . Một tài sản có tính chất pháp lý rõ rang, dễ quản lý, dễ thanh
khoản và có giá trị cao (trong mối tương quan với món vay) cũng là một yếu tố đảm
bảo hơn cho chất lượng một món vay, hay tài sản bảo đảm giúp ngân hàng dễ dàng
hơn trong việc mở rộng cho vay vì càng an toàn, ngân hàng càng dễ chấp nhận cho
vay hơn. Tuy nhiên, phải nhận thức rõ ràng rằng, hiệu quả dự án, phương án mới là
yếu tố chính để cho vay chứ không phải là yếu tố bảo đảm tốt.
Xét cho cùng thì nhân tố khách hàng là nhân tố quan trọng nhất tác động đến hoạt
động cho vay và mở rộng cho vay của ngân hàng thương mại.
- Môi trường tự nhiên
Môi trường tự nhiên ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất, đến bảo quản và
chế biến sản phẩm…Những biến động bất khả kháng xảy ra trong môi trường tự
nhiên như thiên tai (hạn hán, lũ lụt, động đất), hỏa hoạn làm ảnh hưởng xấu tới hoạt
động sản xuất kinh doanh của khách hàng, đặc biệt lĩnh vực nông nghiệp nông thôn
(ngành sản xuất nông nghiệp, thủy sản, hải sản) chịu ảnh hưởng gần như toàn bộ từ
môi trường tự nhiên. Vì vậy khi môi trường tự nhiên không thuận lợi thì khách hàng
sẽ gặp khó khăn, khả năng tiếp cận nguồn vốn vay giảm, vốn đã vay sử dụng không
hiệu quả, như vậy ngân hàng thương mại sẽ gặp khó khăn trong việc mở rộng cho
vay.
23
1.3.2 Nhân tố chủ quan
Mở rộng cho vay là mục đích hướng tới của khách hàng, nó vừa chịu ảnh hưởng
từ các nhân tố chủ quan từ môi trường bên ngoài ngân hàng, vừa bị tác động từ các
nhân tố chủ quan từ bản thân các ngân hàng thương mại. Các nhân tố chủ quan tác
động tới mở rộng cho vay của ngân hàng thương mại bao gồm những nhân tố sau:

- Chiến lược kinh doanh của ngân hàng thương mại
Trong nền kinh tế thị trường thời mở cửa, việc sản xuất kinh doanh ản phầm, dịch
vụ không hoàn toàn do doanh nghiệp quyết định mà do bởi yếu tố thị trường, vì vậy,
để hạn chế được rủi ro trong kinh doanh, doanh nghiệp phải lập chiến lược kinh
doanh của mình. Chiến lược bao hàm việc ấn định các mục tiêu cơ bản và dài hạn
của doanh nghiệp, đồng thời chọn phương thức hành động và phân phối cac nguồn
lực thiết yếu để thực hiện mục tiêu đó ( theo giáo sư người Mỹ- Chandler). Đối với
ngân hàng việc xây dựng một chiến lược kinh doanh cụ thể là một khâu vô cùng
quan trọng, Ngân hàng phải xác định được mục tiêu trong dài hạn là gì từ đó đề ra
phương thức để thực hiện nó. Trong hoạt động cho vay, ngân hàng sẽ xác định khách
hàng mục tiêu của mình, từ đó sẽ có các cách thức để đẩy mạnh cho vay khách hàng
đó. Như vậy nếu nông nghiệp nông thôn là mục tiêu hướng đến của ngân hàng thì,
lĩnh vực này sẽ được chú trọng để cho vay và mở rộng cho vay.
- Chính sách cho vay của ngân hàng
Chính sách cho vay được hiểu là đường lối chủ trương đảm bảo hoạt động tín
dụng đi đúng quỹ đạo, liên quan đến việc mở rộng hay thu hẹp cho vay. Chính sách
cho vay bao gồm: hạn mức cho vay, kỳ hạn của các khoản vay,lãi suất cho vay, phí
và lệ phí có liên quan, các loại hình cho vay được thực hiện.
Các điều khoản của chính sách cho vay được xây dựng dựa trên nhiều yếu tố
khách quan như đã đề cập ở trên và các yếu tố chủ quan khác như khả năng nguồn
vốn của ngân hàng, mục tiêu hoạt động và nguyên tắc hoạt động của ngân hàng. Khi
các yếu tố này thay đổi chính sách tín dụng cũng thay đổi theo. Đối với mỗi khách
24
hàng, ngân hàng có thể đưa ra các chính sách khác nhau cho phù hợp, đồng thời có
sự linh hoạt trong chính sách cho vay đối với các đối tượng khách hàng đó, điều này
giúp dễ dàng hơn cho khách hàng tiếp cận nguồn vốn và việc mở rộng cho vay của
ngân hàng.
- Quy trình cho vay
Quy trình cho vay là tập hợp những nội dung nghiệp vụ cơ bản, các bước tiến
hành trong quá trình cho vay, thu nợ nhằm đảm bảo an toàn vốn. Nó bao gồm các

bước bắt đầu từ khâu chuẩn bị cho vay, phát tiền vay, kiểm tra trong quá trình cho
vay cho đến khi thu hồi được nợ. Quy trình cho vay được thực hiện nghiêm ngặt sẽ
đảm bảo an toàn cho khoản vay đó, việc mở rộng cho vay với các khoản vay có chất
lượng tốt được đánh giá là mở rộng cho vay có hiệu quả.
Tuy nhiên tùy thuộc vào đối tượng khách hàng, nếu ngân hàng không linh hoạt
trong việc áp dụng quy trình cho vay, có quá nhiều thủ tục hành chính rườm rà,… sẽ
làm cho khách hàng ngần ngại trong việc tìm đến khách hàng để vay vốn, điều này
làm cho việc mở rộng cho vay rất khó thực hiện.
- Công tác tổ chức của ngân hàng
Tổ chức của ngân hàng cần cụ thể hóa và sắp xếp có khoa học, có tính linh hoạt
trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc đã quy định. Ngân hàng được tổ chức một cách
có khoa học sẽ đảm bảo được sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các phòng ban,
giữa các ngân hàng với nhau trong toàn hệ thống cũng như các cơ quan liên quan
khác. Qua đó tạo điều kiện đáp ứng kịp thời các yêu cầu của khách hàng, tăng sự hài
lòng của khách hàng về sự phục vụ của ngân hàng và là nguồn cung cấp vốn khách
hàng nghĩ đến khi có nhu cầu vốn. Đây là điều kiện cơ sở và cũng là động lực để mở
rộng cho vay.
- Tình hình huy động vốn của ngân hàng
25

×