Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

báo cáo tốt nghiệp quản lý rủi ro tín dụng trong cho vay ngắn hạn đối với khách hàng doanh nghiệp tại MB – hoàn kiếm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (520.64 KB, 89 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
BẢNG
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động cơ bản và tạo ra lợi nhuận
chủ yếu cho các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay. Nhưng mặt khác, rủi ro
tín dụng (RRTD) luôn đem lại hậu quả khó lường cho nền kinh tế cũng như chính
bản thân ngân hàng thương mại (NHTM). RRTD ở mức độ cao phản ánh năng lực
hoạt động kinh doanh của NHTM yếu kém, làm giảm uy tín của ngân hàng trên thị
trường tiền tệ trong nước và quốc tế, hạn chế năng lực cạnh tranh. RRTD xảy ra làm
cho NHTM không thu hồi được vốn gốc và lãi vay theo kế hoạch đã đặt ra, là
nguyên nhân dẫn đến rủi ro thanh khoản. RRTD làm chậm tốc độ quay vòng vốn,
mất đi cơ hội kinh doanh, chi phí tăng cao ngoài dự kiến, thậm chí thua lỗ; ngân
hàng bị mất vốn, phải khoanh nợ, giãn nợ, thậm chí phải xóa nợ vay, làm giảm thu
nhập của ngân hàng. RRTD gây thất thoát vốn, có thể đẩy các NHTM vào tình trạng
mất khả năng thanh toán, dẫn tới phá sản. Việc phá sản một ngân hàng có thể dẫn
đến phản ứng dây chuyền, gây nên phá sản các ngân hàng khác và có thể dẫn đến
làm suy sụp toàn bộ nền kinh tế.
Hoạt động của Ngân hàng TMCP Quân Đội cũng không nằm ngoài những
tác động và ảnh hưởng của qui luật chung đó.
Luận văn “ Quản lý rủi ro tín dụng trong cho vay ngắn hạn đối với khách
hàng doanh nghiệp tại MB – Hoàn Kiếm” sẽ đưa ra một số hậu quả trong hoạt động
tín dụng mà Ngân hàng gặp phải và cách thức mà các nhà quản lý ngân hàng thực hiện
để hạn chế và khắc phục những rủi ro đó. Dựa trên thực trạng này tác giả mạnh dạn đề
xuất một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý rủi ro tín dụng.
2. Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ một số vấn đề cơ bản về cơ sở lý luận trong quản lý rủi ro tín
dụng trong cho vay ngắn hạn đối với khách hàng doanh nghiệp của Ngân hàng
thương mại.
Phân tích tình hình hoạt động kinh doanh cho vay ngắn hạn và hoạt động quản


lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Quân Đội – chi nhánh Hoàn Kiếm , từ đó đưa
ra những mặt tích cực cũng như những mặt hạn chế của công tác quản lý này.
1
Đề xuất giải pháp nhằm tăng cường quản lý rủi ro tín dụng có thể áp dụng
trong thực tiễn để tăng cường quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Quân
Đội – chi nhánh Hoàn Kiếm.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: Quản lý rủi ro tín dụng trong ngắn hạn đối với khách
hàng doanh nghiệp của Ngân hàng thương mại.
Phạm vi nghiên cứu: Quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Quân Đội
– chi nhánh Hoàn Kiếm từ năm 2008 đến năm 2011 và các bên có liên quan.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Dựa trên phương pháp duy vật biện chứng, sử dụng phương pháp nghiên cứu
thống kê, so sánh, phân tích… đi từ cơ sở lý thuyết đến thực tiễn nhằm giải quyết và
làm sáng tỏ mục đích đặt ra trong luận văn.
5. Tình hình nghiên cứu :
Vấn đề quản lý và các giải pháp hoàn thiện quản lý rủi ro tín dụng tại ngân
hàng thương mại hiện nay cũng đã có một số tác giả đã nghiên cứu. Tuy nhiên tuỳ
vào thực tế tại từng ngân hàng mà các tác giả nghiên cứu sẽ có những nhận định
phù hợp với từng thời điểm cũng như hoàn cảnh. Đề tài nghiên cứu của học viên
tập trung vào các vấn đề liên quan đến quản lý rủi ro tín dụng trong cho vay ngắn
hạn đối với KHDN tại Ngân hàng TMCP Quân Đội – chi nhánh Hoàn Kiếm nhằm
đề ra các ý kiến hoàn thiện áp dụng cho Ngân hàng TMCP Quân Đội – chi nhánh
Hoàn Kiếm.
6. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn được chia làm 3 chương, cụ thể:
Chương 1: Lý luận chung về quản lý rủi ro tín dụng trong cho vay ngắn hạn
đối với KHDN của Ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng trong cho vay ngắn hạn đối
với KHDN tại Ngân hàng TMCP Quân Đội – chi nhánh Hoàn Kiếm.

Chương 3: Giải pháp tăng cường quản lý rủi ro tín dụng trong cho vay ngắn
hạn đối với KHDN tại Ngân hàng TMCP Quân Đội – chi nhánh Hoàn Kiếm.
2
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG
TRONG CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI KHDN CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Rủi ro tín dụng trong cho vay ngắn hạn đối với khách hàng doanh nghiệp
của NHTM
1.1.1. Hoạt động cho vay ngắn hạn đối với khách hàng doanh nghiệp của NHTM
1.1.1.1. Khái niệm về hoạt động cho vay ngắn hạn của NHTM
Tín dụng xuất phát từ tiếng Latin là “Credium” nghĩa là tin tưởng và vay
mượn. Bất kỳ một loại tín dụng nào cũng thể hiện 2 mặt:
- Người sở hữu một số tiền hoặt hàng hoá chuyển giao cho người khác sử
dụng trong một thời gian nhất định.
- Đến hạn thoả thuận, người sử dụng hoàn trả lại cho người sở hữu một giá
trị lớn hơn, phần giá trị tăng thêm hay cũn gọi là lói suất.
Hoạt động cho vay là một trong 4 loại hình cấp tín dụng của NHTM (tín
dụng gồm: cho vay, cho thuê tài chính, bảo lãnh và chiết khấu). Trong đó, hoạt
động cho vay thường được phân chia về mặt thời gian. Dựa theo tiêu chí này thì cho
vay được chia thành 3 loại: ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Trong đó cho vay ngắn
hạn là hình thức vay có thời hạn dưới 12 tháng. Cho vay trung hạn là hình thức vay
có thời hạn từ 1- 5 năm. Cho vay dài hạn là hình thức vay có thời hạn từ 5 năm trở
lên. Mặc dù việc xác định thời gian nhiều khi mang tính chất tương đối, nhưng việc
phân chia này hết sức có ý nghĩa, nó liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lời
của các khoản vay và khả năng hoàn trả của khách hàng.
1.1.1.2. Nội dung hoạt động cho vay ngắn hạn đối với KHDN của NHTM
- Vì cho vay ngắn hạn thường dùng vào việc đáp ứng nhu cầu thiếu hụt tạm
thời của vốn lưu động trong quá trình sản xuất nên vốn vay ngắn hạn luõn chuyển
cùng chu kỳ sản xuất. Thông thường các khoản vay này được vay dựa theo một thời

3
kỳ theo quan điểm của các nhà quản lý doanh nghiệp. Khi đó, hoạt động cho vay và
thu nợ sẽ diễn ra lúc bắt đầu cho đến khi kết thúc chu kỳ sản xuất. Do đó, việc thu
hồi vốn đối với các khoản vay ngắn hạn thường là nhanh.
- Rủi ro của các khoản vay ngắn hạn thường thấp hơn các khoản vay trung
và dài hạn do đặc điểm hoạt động cho vay này là thời gian cho vay ngắn, thu hồi
vốn nhanh.
- Đa phần, lãi suất thực khoản cho vay ngắn hạn thường thấp hơn lãi suất
cho trung và dài hạn do tính rủi ro thấp hơn như đã đề cập
- Hình thức cấp tín dụng đa dạng: cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức tín
dụng, cho vay theo hạn mức thấu chi, cho vay theo hạn mức dự phòng, với nhiều mục
đích khác nhau nhu cho vay tiêu dùng, cho vay mua hàng dữ trữ, cho vay kinh doanh
bán lẻ, cho vay kinh doanh chứng khóan,…
- Hoạt động cho vay ngắn hạn chiếm tỷ lệ lớn trong hoạt động của NHTM.
Chủ yếu là do nhu cầu thường xuyên của doanh nghiệp thường là nhu cầu vay ngắn
hạn. Với Ngân hàng thì cho vay ngắn hạn giúp các Ngân hàng dễ dàng đảm bảo
được sự phù hợp giữa kỳ hạn giữa nguồn tiền gửi và nguồn tiền vay. Hơn nữa, tính
rủi ro khi cho vay ngắn hạn là thấp hơn nên các đơn đề nghị vay được ngân hàng
chấp nhận dễ hơn.
Các hình thức cho vay ngắn hạn
* Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay: Đây là tiêu chí nhiều ngân hàng áp
dụng để phân chia loại hình cho vay ngắn hạn, nhằm giúp ích trong việc quản lý.
Dựa vào tiêu chí này thì hoạt động cho vay ngắn hạn được phân chia thành cho vay
tiêu dùng và cho vay kinh doanh.
- Cho vay kinh doanh thì mục đích sử dụng vốn vay là sản xuất kinh doanh,
ví dụ cho vay công nghiệp và thương mại, cho vay nông nghiệp, cho vay ngắn hạn
các công trình xây dựng, cho vay các tổ chức tín dụng, cho vay khác: kinh doanh
chứng khoán,…
- Cho vay tiêu dùng thì mục đích sử dụng vốn vay là tiêu dùng. Hoạt động
này bao giờ cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn so với hoạt động cho vay kinh doanh, do

4
khả năng trả nợ phụ thuộc rất nhiều vào khách hàng cá nhân, với rất nhiều khả năng
xảy ra như mất việc, ốm đau,… vì vậy lói suất cho vay tiêu dùng thường cao hơn.
Cho vay tiêu dùng thường được phân thành: cho vay cầm đồ, cho vay đảm bảo bằng
lương hay thu nhập, cho vay đảm bảo bằng tài sản hình thành từ tiền vay,…
* Căn cứ vào tài sản đảm bảo:
- Cho vay có tài sản đảm bảo: Là việc Ngân hàng cho vay vốn mà nghĩa vụ
trả nợ của khách hàng được cam kết bảo đảm thực hiện bằng các hình thức như: sử
dụng tài sản cầm cố, thế chấp, bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ 3. Cầm cố là hình
thức mà người vay phải chuyển quyền kiểm soát tài sản đảm bảo sang cho Ngân
hàng trong thời gian cam kết, thường thích hợp với tài sản mà Ngân hàng kiểm soát
và bảo quản tương đối chắc chắn. Thế chấp là hình thức người vay sẽ chuyển các
giấy tờ sở hữu của tài sản đảm bảo sang Ngân hàng nắm giữ trong thời gian cam
kết. Bảo lãnh bằng bên thứ 3 là việc tài trợ của khách hàng được một bên thứ 3 bảo
lãnh, trong trường hợp khách hàng không có khả năng chi trả thì bên thứ 3 phải là
người chi trả hộ.
- Cho vay không có tài sản đảm bảo: Về nguyên tắc, mọi khoản tín dụng của
ngân hàng phải có đảm bảo. Tuy nhiên với một số khách hàng đặc biệt thì Ngân
hàng có thể cho vay mà không có TSĐB, ví dụ như khách hàng có uy tín trong làm
ăn, thường xuyên giao dịch với Ngân hàng, và tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy
ra tình trạng nợ khó đòi hoặc là một số khách hàng được cấp theo chỉ định của
chính phủ.
* Căn cứ vào hình thức cho vay:
- Thấu chi: Là nghiệp vụ cho vay mà khách hàng có thể được sử dụng vượt
trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình trong một giới hạn nhất định, trong
khoản thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. Hình thức này
tạo cho khách hàng sự chủ động, nhanh chóng, kịp thời khi mà việc dự đoán ngõn
quỹ thường không chính xác. Nó chỉ áp dụng với hình thức tín dụng ngắn hạn,
mang tính chất linh hoạt, thủ tục ít, phần lớn là không có TSĐB, có thể cấp cho cả
doanh nghiệp lẫn cá nhân trong vài ngày, vài tháng dùng để trả lương, chi trả các

5
khoản phải nộp, mua hàng,…Và khách hàng được áp dụng hình thức này là khách
hàng có uy tín cao đối với Ngân hàng
- Cho vay trực tiếp từng lần: Là hình thức khách hàng chỉ được cấp tín dụng
từng lần, không được sử dụng thấu chi trên tài khoản của mình. Do vậy, phổ biến
với các khách hàng không có nhu cầu vay vốn thường xuyên, không có điều kiện để
cấp hạn mức thấu chi.
- Cho vay theo hạn mức: Ngân hàng sẽ thoả thuận cấp một mức tín dụng
dưới yêu cầu hạn mức nào đó, hạn mức này thường được tớnh toán trên cơ sở kế
hoạch kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách, làm sao đủ để khách
hàng đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất kinh doanh của mình. Phù hợp với khách hàng
vay mượn thường xuyên, vốn vay thường xuyên tham gia vào quá trình sản xuất
kinh doanh, kì hạn nợ và thời hạn tín dụng không xác định. Việc thu nợ được thực
hiện ngay sau khi khách hàng có thu nhập.
- Cho vay luân chuyển: Cho vay dựa trên sự luân chuyển của hàng hoá.
Ngân hàng sẽ cho vay để mua hàng sau đó thu nợ khi khách hàng bán được hàng,
cứ như vậy theo suốt nhiều kì luân chuyển của hàng hoá. Việc này yêu cầu cả Ngân
hàng và khách hàng phải tính toán được lượng hàng hoá bán ra và mua vào để dự
đoán dòng ngân quỹ và lượng vốn cần cấp thêm. Áp dụng với khách hàng là thương
nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất thường xuyên phải nhập hàng dữ trữ, chu kì tiêu
thụ ngắn ngày, có quan hệ thường xuyên với Ngân hàng.
- Cho vay trả góp: Hình thức này khách hàng được phép trả gốc và lãi thành
nhiều lần trong một thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Cho vay trả góp với hình thức
vay ngắn hạn thường cho khách hàng là các nhóm có nhu cầu tiêu dùng muốn được
trả định kì lâu dài. Cho vay trả góp có mức rủi ro cao.
Ngoài ra có rất nhiều căn cứ khác:
* Căn cứ vào tính chất cấp vốn
- Cho vay bổ sung vốn: là khoản vay mang tính chất cấp thêm vốn cho khách
hàng, sau khi đã được cấp vốn lần trước
- Cho vay trên tài sản: Ngân hàng cho vay dựa vào một loại tài sản của

6
khách hàng, việc cho vay làm thay đổi hình thái vốn của khách hàng như chiết khấu
giấy tờ có giá, cho vay trên bộ chứng từ hàng xuất,…
* Cho vay theo loại tiền vay: Cho vay bằng nội tệ hay ngoại tệ, tuy thuộc vào
nhu cầu vay của khách hàng.
1.1.2 Rủi ro tín dụng trong cho vay ngắn hạn
1.1.2.1 Khái niệm rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng không chỉ giới hạn ở hoạt động cho vay mà còn có thể xảy ra
trong các hoạt động tín dụng khác như hoạt động bảo lãnh, tài trợ thương mại, cho
thuê tài chính. Rủi ro tín dụng cũng được nhiều học giả nghiên cứu và đưa ra nhiều
quan niệm khác nhau:
Theo A.Saunders và H.Lange định nghĩa “Rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm
tàng khi Ngân hàng cấp tín dụng cho một khách hàng, nghĩa là khả năng các luồng
thu nhập dự tính mang lại từ khoản cho vay của Ngân hàng không thể thực hiện
đầy đủ về cả số lượng và thời hạn”.
Theo Henie Van Greunin Sonja Brajovic Bratanovic: “Rủi ro tín dụng được
định nghĩa là nguy cơ mà người đi vay không thể chi trả tiền lãi hoặc hoàn trả vốn
gốc so với thời hạn đã ấn định trong hợp đồng tín dụng, đây là thuộc tính vốn có
của hoạt động ngân hàng. Rủi ro tín dụng tức là việc chi trả bị trì hoãn, hoặc tồi tệ
hơn là không chi trả được toàn bộ. Điều này gây ra sự cố đối với dòng chu chuyển
tiền tệ và ảnh hưởng tới khả năng thanh khoản của ngân hàng”.
Theo Timothy W Koch cho rằng: “Rủi ro tín dụng là sự thay đổi tiềm ẩn của
thu nhập thuần và thị giá của vốn xuất phát từ việc vốn vay không được thanh toán
hay thanh toán trễ hạn”
Theo Ủy ban Basel, “Rủi ro tín dụng là khả năng mà khách hàng vay vốn
hoặc bên đối tác không thực hiện được các nghĩa vụ của mình theo những điều
khoản đã cam kết”.
Theo qui định tại Điều 2 Quyết định 493/2005/QĐ-NHNNVN ngày
22/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì “Rủi ro tín dụng
trong hoạt động Ngân hàng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động tín dụng

7
của các Ngân hàng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực
hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình theo đúng cam kết”.
1.2 Quản lý rủi ro tín dụng trong cho vay ngắn hạn với KHDN
1.2.1 Khái niệm quản lý rủi ro tín dụng trong cho vay ngắn hạn đối với KHDN
Quản lý là những hành động được tiến hành bởi các nhà quản lý. Những hành
động này được xuất phát từ nhu cầu, mục tiêu chung và hướng vào việc điều hòa các
nguồn lực con người và vật chất sao cho sự hao tổn để đạt các mục đích, mục tiêu
nhất định là thấp nhất có thể.
Theo Decottignise (1981) “Quản lý rủi ro, đó là dự phòng - với chi phí thấp
nhất - các nguồn lực tài chính, cần và đủ tùy theo từng tình huống cụ thể. Đó chính
là kiểm soát và loại trừ nếu có thể bằng cách giảm thiểu hay chuyển giao chúng, tối
ưu hóa cách thức sử dụng các nguồn lực tài chính doanh nghiệp”.
Từ những quan điểm và nội dung như đã đề cập ở trên có thể hiểu: Quản lý
rủi ro tín dụng là một quá trình từ việc hoạch định chiến lược đến việc tổ chức thực
hiện, điều khiển và kiểm soát việc thực hiện chiến lược, phòng ngừa, hạn chế và xử
lý rủi ro trong hoạt động tín dụng mà NHTM đã đề ra.
Hoạt động tín dụng là lĩnh vực mang lại nhiều lợi nhuận nhất nhưng cũng có
rủi ro lớn nhất trong hoạt động Ngân hàng. Hậu quả của rủi ro tín dụng thường có
ảnh hưởng rất lớn, làm thua lỗ, mất vốn, tình hình tài chính xấu đi, làm tổn hại hình
ảnh, uy tín của Ngân hàng, nếu nghiêm trọng có thể dẫn đến phá sản.
Rủi ro tín dụng trong hoạt động Ngân hàng là điều không tránh khỏi, nó tồn
tại khách quan gắn liền với hoạt động cấp tín dụng.
Để hạn chế những rủi ro phải làm tốt từ khâu phòng ngừa cho đến khâu giải
quyết hậu quả do rủi ro gây ra, cụ thể như:
Dự báo, phát hiện rủi ro tiềm ẩn: phát hiện những biến cố không có lợi,
ngăn chặn các tình huống không có lợi đã và đang xảy ra và có thể lan ra phạm
vi rộng. Giải quyết hậu quả rủi ro để hạn chế các thiệt hại đối với tài sản và thu
nhập của Ngân hàng. Đây là quá trình logic chặt chẽ cần có quản lý để đảm bảo
tính thống nhất.

8
Phòng chống rủi ro được thực hiện bởi các nhân viên, cán bộ lãnh đạo Ngân
hàng. Trong Ngân hàng, nhân viên có thể có suy nghĩ và hành động khác, có thể trái
ngược hoặc cản trở nhau. Vì thế cần có quản lý để mọi người hành động một cách
thống nhất.
Quản lý đề ra những mục tiêu cụ thể giúp Ngân hàng đi đúng hướng. Phải có
kế hoạch hành động cụ thể và hiệu quả phù hợp với mục tiêu đề ra.
Đặc điểm cho vay ngắn hạn của khách hàng doanh nghiệp.
Các khoản cho vay ngắn hạn có đặc điểm như sau:
- Cho vay ngắn hạn chủ yếu để đáp ứng nhu cầu vốn thời vụ của doanh
nghiệp, do đó vốn vay ngắn hạn luân chuyển cùng chu kỳ sản xuất kinh doanh của
khách hàng. Hoạt động cho vay và thu nợ diễn ra từ lúc bắt đầu cho đến khi kết thúc
chu kì sản xuất kinh doanh.
- Rủi ro trong cho vay ngắn hạn thường thấp hơn đối với các khoản cho vay
trung và dài hạn do thời gian thu hồi vốn nhanh và mức lãi suất áp dụng cũng thấp
hơn.
- Hình thức cấp tín dụng phong phú: do đối tượng khách hàng khá đa dạng,
do vậy hình thức cấp tín dụng trong cho vay ngắn hạn rất phong phú để có thể đáp
ứng nhu cầu của khách hàng.
-Nguồn vốn nhanh chóng được quay vòng do thời hạn cho vay ngắn
1.2.2 Quản lý rủi ro tín dụng trên cơ sở lý luận của Hiệp ước Basel
Để chuẩn hóa hoạt động của hệ thống các ngân hàng trên thị trường tài chính
quốc tế, thông thường các ngân hàng châu Âu thực hiện 2 công cụ: Đạo Luật châu
Âu đơn lẻ và Hiệp ước Basel. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, những vụ khủng
hoảng xảy ra trên thị trường tài chính thế giới, đặc biệt là những rủi ro phát sinh
trong lĩnh vực Ngân hàng đã khiến Chính phủ các quốc gia trên thế giới đã đặt lại
vấn đề: cải tiến Basel I (1988) thành một Hiệp ước Basel II với mục tiêu tăng cường
các giải pháp kiểm soát rủi ro của hệ thống ngân hàng.
Hiệp ước Basel mới là những tài liệu hướng dẫn mô tả các đề xuất những
quy định nâng cao công tác quản lý rủi ro tín dụng, liên quan đến phạm vi yêu cầu

9
vốn đối với rủi ro hoạt động, đưa ra các biện pháp cải tiến khác nhau đối với hiệp
ước “hiện hữu” và chi tiết hóa “hoạt động thanh tra, giám sát” cũng như đề ra các
trụ cột về “tính kỷ luật của thị trường”. Ba trụ cột của Hiệp ước Basel II gồm:
(1) Trụ cột thứ I: liên quan tới việc duy trì vốn bắt buộc. Theo đó, tỷ lệ vốn
bắt buộc tối thiểu (CAR) vẫn là 8% của tổng tài sản có rủi ro như Basel I. Tuy
nhiên, rủi ro được tính toán theo ba yếu tố chính mà ngân hàng phải đối mặt: rủi ro
tín dụng, rủi ro vận hành (hay rủi ro hoạt động) và rủi ro thị trường. So với Basel I,
cách tính chi phí vốn đối với rủi ro tín dụng có sự sửa đổi lớn, đối với rủi ro thị
trường có sự thay đổi nhỏ, nhưng hoàn toàn là phiên bản mới đối với rủi ro vận
hành. Trọng số rủi ro của Basel II bao gồm nhiều mức (từ 0% -150% hoặc hơn) và
rất nhạy cảm với xếp hạng.
(2) Trụ cột thứ II: liên quan tới việc hoạch định chính sách ngân hàng, Basel
II cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách những “công cụ” tốt hơn so với
Basel I. Trụ cột này cũng cung cấp một khung giải pháp cho các rủi ro mà ngân
hàng đối mặt, như rủi ro hệ thống, rủi ro chiến lược, rủi ro danh tiếng, rủi ro thanh
khoản và rủi ro pháp lý, mà hiệp ước tổng hợp lại dưới cái tên rủi ro còn lại
(residual risk).
Basel II nhấn mạnh 4 nguyên tắc của công tác rà soát giám sát: Thứ nhất, các
ngân hàng cần phải có một quy trình đánh giá được mức độ đầy đủ vốn nội bộ theo
danh mục rủi ro và phải có được một chiến lược đúng đắn nhằm duy trì mức vốn
đó. Thứ hai, các giám sát viên nên rà soát và đánh giá việc xác định mức độ vốn nội
bộ và chiến lược của ngân hàng, cũng như khả năng giám sát và đảm bảo tuân thủ tỉ
lệ vốn tối thiểu; giám sát viên nên thực hiện một số hành động giám sát phù hợp
nếu họ không hài lòng với kết quả của quy trình này. Thứ ba, Giám sát viên khuyến
nghị các ngân hàng duy trì mức vốn cao hơn mức tối thiểu theo quy định. Thứ tư,
giám sát viên nên can thiệp ở giai đoạn đầu để đảm bảo mức vốn của ngân hàng
không giảm dưới mức tối thiểu theo quy định và có thể yêu cầu sửa đổi ngay lập tức
nếu mức vốn không được duy trì trên mức tối thiểu.
(3) Trụ cột thứ III: Các ngân hàng cần phải công khai thông tin một cách

10
thích đáng theo nguyên tắc thị trường. Basel II đưa ra một danh sách các yêu cầu
buộc các ngân hàng phải công khai thông tin, từ những thông tin về cơ cấu vốn,
mức độ đầy đủ vốn đến những thông tin liên quan đến mức độ nhạy cảm của ngân
hàng với rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro vận hành và quy trình đánh giá của
ngân hàng đối với từng loại rủi ro này.
Như vậy, quá trình phát triển của Basel và những Hiệp ước mà tổ chức này
đưa ra, các ngân hàng thương mại càng ngày càng được yêu cầu hoạt động một cách
minh bạch hơn, đảm bảo vốn phòng ngừa cho nhiều loại rủi ro hơn và do vậy, hy
vọng sẽ giảm thiểu được rủi ro. các ngân hàng cần xác định rõ ràng các tiêu chí cấp
tín dụng lành mạnh (thị trường mục tiêu, đối tượng khách hàng, điều khoản và điều
kiện áp dụng ). Ngân hàng cần xây dựng các hạn mức tín dụng cho từng loại khách
hàng vay vốn và nhóm khách hàng vay vốn để tạo ra các loại hình rủi ro tín dụng
khác nhau nhưng có thể so sánh và theo dõi được trên cơ sở xếp hạng tín dụng nội
bộ đối với khách hàng trong các lĩnh vực, ngành nghề khác nhau. Ngân hàng phải
có quy trình rõ ràng trong phê duyệt tín dụng, các sửa đổi tín dụng với sự tham gia
của các bộ phận tiếp thị, bộ phận phân tích tín dụng và phải phân trách nhiệm rạch
ròi các bộ phận tham gia, đồng thời cần phát triển đội ngũ nhân viên quản lý rủi ro
có kinh nghiệm, có kiến thức nhằm đưa ra các nhận định thận trọng trong việc đánh
giá, phê duyệt và quản lý rủi ro tín dụng. Việc cấp tín dụng cần được thực hiện trên
cơ sở giao dịch công bằng giữa các bên, đặc biệt cần có sự cẩn trọng và đánh giá
hợp lý đối với các khoản tín dụng cấp cho các khách hàng có quan hệ.
Duy trì một quá trình quản lý, đo lường và theo dõi tín dụng phù hợp (10
nguyên tắc): các ngân hàng cần có hệ thống quản lý một cách cập nhật đối với các
danh mục đầu tư có rủi ro tín dụng, bao gồm cập nhật hồ sơ tín dụng, thu thập thông
tin tài chính hiện hành, dự thảo các văn bản như hợp đồng vay theo quy mô và
mức độ phức tạp của ngân hàng. Đồng thời hệ thống này phải có khả năng nắm bắt
và kiểm soát tình hình tài chính, sự tuân thủ các giao kèo của khách hàng để phát
hiện kịp thời những khoản vay có vấn đề. Ngân hàng cần có hệ thống khắc phục
sớm đối với các khoản tín dụng xấu, quản lý các khoản tín dụng có vấn đề. Các

11
chính sách rủi ro tín dụng của ngân hàng cần chỉ rõ cách thức quản lý, trách nhiệm
đối với các khoản tín dụng này được giao cho bộ phận nào giải quyết? Ủy ban Basel
cũng khuyến khích các ngân hàng phát triển và xây dựng hệ thống xếp hạng tín
dụng nội bộ trong quản lý rủi ro tín dụng, giúp phân biệt các mức độ rủi ro tín dụng
trong các tài sản có tiềm năng rủi ro của ngân hàng. Như vậy trong xây dựng mô
hình quản lý rủi ro tín dụng, nguyên tắc Basel có một số điểm cơ bản sau: Phân tách
bộ máy cấp tín dụng theo các bộ phận tiếp thị, bộ phận phân tích tín dụng và bộ
phận phê duyệt tín dụng cũng như trách nhiệm rạch ròi của các bộ phận tham gia;
Nâng cao năng lực của cán bộ quản lý rủi ro tín dụng; Xây dựng hệ thống quản lý
và cập nhật thông tin hiệu quả để duy trì một quá trình đo lường, theo dõi tín dụng
thích hợp, đáp ứng yêu cầu thẩm định và quản lý rủi ro tín dụng.
1.2.3. Nội dung cơ bản của quản lý rủi ro tín dụng trong cho vay ngắn hạn
Quản lý rủi ro tín dụng là một hệ thống các phương pháp, các hình thức và các
công cụ được sử dụng để kiểm soát quá trình cho vay (cấp tín dụng) và thu hồi nợ
trong những điều kiện cụ thể của từng thời kỳ nhằm hạn chế tối đa rủi ro tín dụng.
Để hạn chế những rủi ro phải làm tốt từ khâu phòng ngừa cho đến khâu giải
quyết hậu quả do rủi ro gây ra, cụ thể như:
Ngăn chặn nợ xấu phát sinh bằng cách: Dự báo, phát hiện rủi ro tiềm ẩn:
phát hiện những biến cố không có lợi, ngăn chặn các tình huống không có lợi đã và
đang xảy ra và có thể lan ra phạm vi rộng.
Xử lý nợ xấu: Khi có nợ xấu xảy ra thì việc giải quyết hậu quả nợ xấu để hạn
chế các thiệt hại đối với tài sản và thu nhập của ngân hàng. Đây là quá trình logic
chặt chẽ do đó, cần có quản lý để đảm bảo tính thống nhất.
Để chủ động phòng ngừa rủi ro tín dụng có hiệu quả, nhận biết các đặc điểm
của rủi ro tín dụng rất cần thiết và hữu ích. RRTD có những đặc điểm cơ bản sau:
- RRTD mang tính gián tiếp: Trong quan hệ tín dụng, ngân hàng chuyển
giao quyền sử dụng vốn cho khách hàng. RRTD xảy ra khi khách hàng gặp những
tổn thất, thất bại trong quá trình sử dụng vốn. Nói cách khác, những rủi ro trong
hoạt động kinh doanh của khách hàng là nguyên nhân chủ yếu gây ra RRTD của

ngân hàng.
12
- RRTD có tính chất đa dạng và phức tạp: đặc điểm này biểu hiện ở sự đa
dạng, phức tạp của nguyên nhân, hình thức, hậu quả của RRTD do đặc trưng ngân
hàng là trung gian tài chính kinh doanh tiền tệ.
- RRTD có tính tất yếu, tức là luôn tồn tại và gắn liền với hoạt động tín
dụng của NHTM: tình trạng thông tin bất cân xứng đã làm cho ngân hàng không thể
nắm bắt được các dấu hiệu rủi ro một cách toàn diện và đầy đủ, điều này làm cho
bất cứ khoản vay nào cũng tiềm ẩn rủi ro đối với ngân hàng.
1.2.3.1 Nhận dạng rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng của các khoản cho vay thông thường biểu hiện ở việc người
vay đã không thực hiện thanh toán đúng như kế hoạch (một hoặc nhiều lần) hay giá
trị tài sản thế chấp của người vay đã sụt giảm đáng kể. Mỗi khoản cho vay có vấn
đề đều mang những nét đặc thù nhưng chúng đều có những nét chung góp phần
cảnh báo cho ngân hàng về những vấn đề rắc rối đã bắt đầu nảy sinh như:
- Sự trì hoãn bất thường và không có lý do trong việc cung cấp các báo cáo
tài chính và trả nợ theo lịch đã thoả thuận, hoặc chậm chễ trong việc liên lạc với cán
bộ tín dụng.
- Đối với tín dụng doanh nghiệp, là bất cứ sự thay đổi bất thường nào trong
phương thức hạch toán kế toán, kế hoạch trả lương và phụ cấp, giá trị hàng tồn kho,
tài khoản thuế và thu nhập.
- Việc cơ cấu lại nợ hay hạn chế thanh toán cổ tức, hoặc có sự thay đổi vị trí
xếp hạng tín nhiệm.
- Giá cổ phiếu của doanh nghiệp thay đổi bất lợi.
- Thu nhập ròng giảm trong một hoặc nhiều năm, đặc biệt là các chỉ tiêu
như: lãi trên tài sản (ROA); lãi trên vốn cổ phần (ROE); hay thu nhập trước trả lãi
và thuế (EBIT).
- Những thay đổi bất lợi trong cơ cấu nguồn vốn (tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở
hữu), khả năng thanh toán (chỉ tiêu thanh khoản hiện hành) hay mức độ hoạt động
(chỉ tiêu doanh thu/hàng tồn kho).

- Độ chênh lệch của doanh thu hay dòng tiền thực tế so với kế hoạch khi mà
tín dụng đã được cấp.
13
- Thay đổi bất ngờ, không dự kiến và không lý do đối với số dư tiền gửi của
khách hàng tại Ngân hàng.
Để quản lý rủi ro tín dụng hiệu quả thì phải xác định rủi ro hiện tại và rủi ro
tiềm ẩn trong tương lai và nhận biết những rủi ro cho phép. Việc chấp nhận mức độ,
loại rủi ro nào chính là điều kiện quan trọng để điều tiết những tác động tiêu cực
trong quá trình quản lý rủi ro.
Có nhiều phương pháp nhận dạng rủi ro và các phương pháp nhận dạng rủi
ro cần phải được kết hợp với nhau: phân tích các báo cáo tài chính, hợp đồng kinh
doanh của doanh nghiệp, chỉ số thanh khoản, các chỉ số khả năng sinh lời, từ đó
đánh giá được khả năng thanh toán, sinh lời, cấu trúc nguồn vốn của khách hàng,
phân loại khách hàng nhằm ước đoán được các tổn thất có thể xảy ra.
Ngân hàng thực hiện các bước nhận dạng rủi ro: theo dõi, xem xét, nghiên
cứu môi trường hoạt động và quy trình cho vay để thống kê các dạng rủi ro tín
dụng, nguyên nhân từng thời kỳ và dự báo được những nguyên nhân tiềm ẩn có thể
gây ra rủi ro tín dụng.
Để nhận dạng rủi ro, nhà quản lý phải lập được bảng liệt kê tất cả các dạng
rủi ro đa dạng và có thể xuất hiện bằng các phương pháp: lập bảng hỏi nghiên cứu,
tiến hành điều tra, phân tích các hồ sơ tín dụng, đặc biệt quan tâm điều tra các hồ sơ
đã có vấn đề. Kết quả phân tích cho ra những dấu hiệu, biểu hiện, nguyên nhân rủi
ro tín dụng, từ đó nhằm tìm ra biện pháp hữu hiệu để phòng ngừa rủi ro.
Các chuyến thăm khách hàng thường xuyên là cách tốt nhất để phát hiện
nhanh chóng những dấu hiệu này. Những chuyến thăm này luôn phải có việc kiểm
tra tình hình thực tế và sổ sách của khách hàng. Sau đây là những dấu hiệu thường
thấy nhất:
Khách hàng cố ý lảng tránh hoặc thoái thác trả lời cán bộ ngân hàng; Doanh
thu bán hàng giảm; Không đáp ứng được những đơn đặt hàng; Các khoản thu tiền
về chậm; Hàng tồn kho gần như không bán được; Nhờ cậy vào chỉ một khách

hàng hoặc một nhà cung cấp; Áp dụng chính sách chiết khấu bất bình thường; Lưu
chuyển tiền mặt ròng giảm; Lợi nhuận giảm; Giá trị của tài sản giảm;
Một số dấu hiệu có thể là không đáng kể nhưng khi một số dấu hiệu xảy ra,
14
rất có thể khoản vay là có vấn đề. Một cách cụ thể, chúng ta có thể phân loại những
dấu hiệu như sau:
Từ Bảng tổng kết tài sản: Ngân hàng không nhận kịp thời được các báo cáo
tài chính; Chu kỳ các khoản phải thu ngắn đi; Tiền mặt của khách hàng giảm; Giá
trị tuyệt đối và tương đối của các khoản phải thu tăng đột biến; Hệ số tài sản ngắn
hạn tính trên tổng tài sản giảm; Khả năng thanh khoản/vốn lưu động giảm; Những
thay đổi nhanh chóng của tài sản cố định; Các khoản dự trữ tăng mạnh với lượng
lớn; Công ty tập trung đầu tư vào tài sản phi ngắn hạn, nhưng không phải là tài sản
cố định; Mức độ tập trung cao vào tài sản vô hình; Sự thiếu cân đối gia tăng của các
khoản nợ ngắn hạn; Những gia tăng đáng kể của các khoản nợ dài hạn; Những thay
đổi đáng kể trong cơ cấu bảng tổng kết tài sản; Thay đổi tài khoản ngân hàng; Thời
gian trung bình của các khoản phải thu tăng lên; Những thay đổi trong chính sách
mua bán chịu; Xuất hiện thêm các điều kiện gia hạn; Tập trung doanh số vào một
mặt hàng nhất định.
Từ Báo cáo lãi lỗ: Doanh số bán hàng giảm; Doanh số bán hàng gia tăng
một cách nhanh chóng; Mức độ chênh lệch lớn giữa tổng doanh thu và doanh thu
ròng; Tỷ lệ chi phí trên tổng doanh thu tăng lên/mức lãi giảm đi; Doanh thu bán
hàng tăng lên nhưng lợi nhuận giảm đi; Các khoản lỗ từ nợ quá hạn tăng lên; Sự
gia tăng không cân xứng của chi phí quản lý so với mức tăng của doanh thu bán
hàng; Tổng tài sản Có gia tăng so với mức độ tăng của tỷ suất Doanh thu bán
hàng/Lợi nhuận; Xuất hiện các khoản lỗ từ hoạt động kinh doanh;
Từ hoạt động kinh doanh: Thay đổi về phạm vi kinh doanh; Số liệu tài chính
nghèo nàn và quản lý hoạt động kém hiệu quả; Bố trí nhà máy và thiết bị không hợp
lý; Sử dụng kém cỏi nguồn nhân lực; Mất mát những dây chuyền sản xuất chính,
quyền phân phối sản phẩm hoặc nguồn cung cấp; Mất một hay nhiều khách hàng có
năng lực tài chính tốt hoặc mất nhà cung ứng chính; Xuất hiện những vụ mua hàng

tồn kho mang tính đầu cơ nằm ngoài nguyên tắc mua hàng thông thường của công
ty; Kém cỏi trong việc duy trì vận hành và bảo hành máy móc thiết bị; Việc thay thế
những thiết bị máy móc lỗi thời diễn ra chậm chạp; Những dấu hiệu về hàng tồn
15
kho kém chất lượng, lưu hàng tồn kho với số lượng lớn hoặc cơ cấu hàng tồn kho
lưu kho không phù hợp;
Những dấu hiệu liên quan đến giao dịch ngân hàng: Số dư tài khoản tại ngân
hàng giảm; Công tác kế hoạch hoá tài chính cho các nhu cầu về tài sản cố định hoặc
các nhu cầu về vốn lưu động thể hiện sự đơn giản và kém cỏi; Đặt niềm tin/nhờ cậy
nhiều vào các khoản nợ ngắn hạn; Những thay đổi đáng kể ở góc độ thời hạn cho
các đề nghị vay vốn; Xuất hiện ở các khoản vay có nhiều nguồn trả nợ nhưng lại
khó có thể nhận thấy dễ dàng chúng; Xuất hiện những chủ nợ khác, đặc biệt những
chủ nợ nhận tài sản bảo đảm.
Những dấu hiệu liên quan đến quản lý công ty: Thay đổi trong thái độ/ thói
quen cá nhân của những người chủ chốt của công ty; Thay đổi trong thái độ đối với
ngân hàng/cán bộ ngân hàng, đặc biệt là khi họ tạo cảm giác thiếu tính hợp tác;
Không có khả năng thực hiện kế hoạch; Báo cáo và quản lý tài chính kém cỏi; Các
chức năng điều hành và phân công xử lý công việc thể hiện sự chắp vá; Mạo hiểm
khi mua bán, khi thực hiện công việc kinh doanh mới, tại khu vực kinh doanh mới
hoặc với dây chuyền sản xuất mới; Mong muốn và khăng khăng đòi "đánh bạc" với
kinh doanh có những rủi ro quá mức; Đặt giá bán hàng hoá và dịch vụ một cách
không thực tế; Những nhân vật chủ chốt của công ty ốm hoặc chết; Những thay đổi
trong quản lý, quyền sở hữu hoặc những nhân vật chủ chốt; Tính không liên tục của
các dây chuyền tiêu chuẩn sinh lời; Chậm trễ trong việc phản ứng lại với sự đi
xuống của thị trường hoặc các điều kiện kinh tế;
1.3.3.1 Đo lường rủi ro tín dụng
Các nhà kinh tế, các ngân hàng và các nhà phân tích đã sử dụng nhiều mô
hình khác nhau để đo lường rủi ro tín dụng, trong đó có mô hình điểm số Z, mô
hình điểm số tín dụng hay dựa vào hệ thống dữ liệu nội bộ để xác định khả năng tổn
thất tín dụng theo Basel II. Các mô hình lượng hoá rủi ro này có ưu điểm so với

phương pháp truyền thống ở chỗ là, nó cho phép xử lý nhanh chóng một khối lượng
lớn các đơn xin vay, với chi phí thấp, khách quan do đó góp phần tích cực trong
việc kiểm soát đo tín dụng ngân hàng
Mô hình định lượng:
16
Một số ngân hàng đã sử dụng phương pháp chấm điểm khách hàng để lượng
hóa mức độ rủi ro tín dụng người vay. Phương pháp này có ưu điểm là cho phép xử
lý nhanh chóng một khối lượng lớn các đơn xin vay với chi phí thấp và khách quan.
Phương pháp chấm điểm khách hàng sử dụng các số liệu phản ánh những đặc điểm
của người vay để lượng hóa xác suất không trả được nợ và phân loại người vay
thành các nhóm có mức độ rủi ro khác nhau. Để sử dụng phương pháp này, phải xác
định được các tiêu chí về kinh tế và tài chính có liên quan đến rủi ro đối với từng
nhóm khách hành cụ thể.
Hệ thống xếp hạng nội bộ
Hiện nay, hầu hết các ngân hàng hiện đại trên thế giới đều có một hệ thống
xếp hạng nội bộ cho các khoản vay có các mức độ phức tạp khác nhau
Mô hình điểm số Z.
Mô hình điểm số "Z" do E.I.Altman hình thành để cho điểm tín dụng đối với
các công ty sản xuất của Mỹ. Đại lượng Z là thước đo tổng hợp để phân loại rủi ro
tín dụng đối với người vay và phụ thuộc vào:
Trị số của các chỉ số tài chính của người vay (Xj).
Tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của
người vay trong quá khứ.
Từ đó, Altman đã đưa ra mô hình cho điểm như sau:
1 2 3 4 5
1,2 1,4 3,3 0,6 1,0Z X X X X X
= + + + +
Trong đó:
X1: là tỷ số "vốn lưu động ròng/tổng tài sản".
X2: là tỷ số "lợi nhuận giữ lại/tổng tài sản".

X3: Là tỷ số "Lợi nhuận trước thuế và tiền lãi/tổng tài sản".
X4: là tỷ số "thị giá cổ phiếu/giá trị ghi sổ của nợ dài hạn".
X5 : là tỷ số "doanh thu/tổng tài sản".
Trị số Z càng cao, thì người vay có xác suất vỡ nợ càng thấp. Như vậy, khi
trị số Z thấp hoặc là một số âm sẽ là căn cứ để xếp khách hàng vào nhóm có nguy
cơ vỡ nợ cao.
Các ngân hàng có thể sử dụng các mô hình trên hệ thống dữ liệu nội bộ để
17
xác định khả năng tổn thất tín dụng.
Basel II là Hiệp ước quốc tế về tiêu chuẩn an toàn vốn, tăng cường quản lý
toàn cầu hóa tài chính cũng như việc khai thác tối đa tiềm năng lợi nhuận và hạn
chế rủi ro. Theo basel II, các ngân hàng có thể xác định được tổn thất có thể ước
tính với mỗi kì hạn xác định:
EL: Tổn thất có thể ước tính.
EL=PD x EAD x LGD
Trong đó:
PD - xác suất khách hàng không trả được nợ. Cơ sở của xác suất này là các
số liệu về các khoản nợ trong quá khứ của khách hàng, gồm các khoản đã trả, các
khoản trong hạn và khoản nợ không thu hồi được.
LGD- Tỷ trọng tổn thất ước tính;
EAD- Tổng dư nợ của khách hàng tại thời điểm khách hàng không trả được nợ.
EAD = Dư nợ ước tính + LEQ x Hạn mức tín dụng chưa sử dụng bình quân.
Trong đó:
LEQ: là tỷ trọng phần vốn chưa sử dụng có nhiều khả năng sẽ được khách
hàng rút thêm tại thời điểm không trả được nợ
LEQ x Hạn mức tín dụng chưa sử dụng bình quân: chính là phần dư nợ
khách hàng rút thêm tại thời điểm không trả được nợ ngoài mức dư nợ bình quân
Cơ sở xác định LEQ là các số liệu quá khứ do đó không thể tính chính xác
được LEQ của một khách hàng tốt
LGD: Tỷ trọng tổn thất ước tính - đây là tỷ trọng phần vốn bị tổn thất trên

tổng dư nợ tại thời điểm khách hàng không trả được nợ. LGD bao gồm cả các tổn
thất khác phát sinh khi khách hàng không trả được nợ, đó là lãi suất đến hạn nhưng
không được thanh toán và các chi phí hành chính có thể phát sinh như: chi phí xử lý
tài sản thế chấp, các chi phí cho dịch vụ pháp lý và một sổ chi phí liên quan.
LGD = (EAD-Số tiền có thể thu hồi)/EAD
Số tiền thu hồi là các khoản tiền mà khách hàng trả và các khoản tiền thu
được từ xử lý tài sản thế chấp, cầm cố. LGD cũng có thể coi là 100% tỷ lệ vốn thu
hồi được.
Có 3 phương pháp chính để tính LGD:
Một là: Market LGD: Ngân hàng có thể xác định tỷ trọng tổn thất của một
khoản vay căn cứ vào giá của khoản vay đó sau một thời gian ngắn sau khi nó bị
xếp vào hạng không trả được nợ.
Hai là: Workout LGD - Ngân hàng sẽ ước tính các luồng tiền trong tương lai,
18
khoảng thời gian dự kiến thu hồi được luồng tiền và chiết khấu các luồng tiền này.
Ba là: Implied Market LGD - xác định tỷ trọng tổn thất căn cứ vào giá các
trái phiếu rủi ro trên thị trường.
Như vậy ngân hàng sẽ xác định được EL, nếu xác định được chính xác EL
thì sẽ mang lại cho ngân hàng rất nhiều ứng dụng không chỉ đơn thuần giúp ngân
hàng xác định chính xác hơn hệ số an toàn vốn tối thiểu trong mối quan hệ giữa vốn
tự có với rủi ro tín dụng.
Việc xác định được tổn thất ước tính của một khoản cho vay, ngân hàng sẽ
thực hiện được cùng lúc các mục tiêu tăng cường quản lý nhân sự chính là đội ngũ
cán bộ tín dụng, xây dựng hiệu quả hơn quỹ dự phòng rủi ro tín dụng, xác định
được xác suất khả năng vỡ nợ của khách hàng sẽ giúp ngân hàng tái xếp khách hàng
sau khi cho vay.
Mô hình chấm điểm tín dụng:
Mô hình chấm điểm và xếp hạng tín dụng khách hàng là một mô hình ưu việt
dựa trên toàn bộ thông tin được quản lý tập trung trong hệ thống và những thông tin
khác được cập nhật từ bên ngoài.

Nhiều ngân hàng sử dụng mô hình cho điểm để xử lý các đơn xin vay của
người vay. Mô hình cho điểm tín dụng thường sử dụng 7 đến 12 hạng mục, mỗi
hạng mục được cho điểm 1 đến 10. Với mô hình cho điểm tín dụng đã loại bỏ được
tính chủ quan trong quá trình cho vay và giảm đáng kể thời gian quyết định tín dụng
của ngân hàng. Tuy nhiên, mô hình này cũng có những nhược điểm như: không thể
tự điều chỉnh một cách nhanh chóng để thích ứng kịp thời với những thay đổi trong
nền kinh tế và những thay đổi trong cuộc sống gia đình, có thể sẽ bỏ sót những
khách hàng tiềm năng, làm giảm lòng tin của cộng đồng vào dịch vụ ngân hàng
1.2.3.2 Kiểm soát rủi ro tín dụng
Kiểm soát rủi ro là những hoạt động tập trung vào việc ngăn chặn hay làm
giảm thiểu những tổn thất, những ảnh hưởng không mong đợi có thể xảy ra. Nhằm
kiểm soát rủi ro tín dụng, nhà quản lý ngân hàng có thể sử dụng các biện pháp:
Đa dạng hóa danh mục đầu tư: Đa dạng hóa danh mục đầu tư là việc bỏ
vốn đầu tư vào các lĩnh vực khác nhau, các ngành nghề khác nhau, các khách hàng
khác nhau có độ rủi ro khác nhau dựa trên những tỷ lệ đầu tư không giống nhau
19
trên thị trường, xây dựng một cơ cấu tài sản hợp lý để có thể phân tán rủi ro hay hạn
chế tối đa rủi ro đầu tư. Đa dạng hoá danh mục đầu tư trong hoạt động tín dụng của
Ngân hàng tuy không hoàn toàn xoá bỏ hết rủi ro, nhưng nó có thể làm giảm bớt mức
rủi ro theo một nguyên tắc đầu tư "không nên để tất cả trứng vào cùng một rổ".
Có nhiều lý do để giải thích tại sao cần phải đa dạng hóa danh mục đầu tư.
Một cách đơn giản, việc mở rộng phạm vi đầu tư vào nhiều khách hàng, nhiều lĩnh
vực không có nhiều sự liên kết với nhau, các Ngân hàng có thể kiềm chế bớt sự biến
động giá cả với danh mục của mình do thực tế, rất hiếm khi xảy ra trường hợp: tất cả
các ngành đi lên hay đi xuống với cùng một tốc độ và trong cùng một thời kỳ. Do đó,
đa dạng hóa sẽ đảm bảo sự hoạt động ổn định hơn, ít rủi ro hơn cho các Ngân hàng.
Một danh mục đầu tư tốt nhất là danh mục tối ưu về mặt số lượng và chủng
loại, tức là danh mục có kỳ vọng lợi nhuận cao nhất. Các ngân hàng cần nghiên cứu
các hình thức cấp tín dụng khác nhau, các khách hàng khác nhau, các lĩnh vực và
các ngành nghề khác nhau của khách hàng so sánh kỳ vọng lợi nhuận và chọn lựa

các ngành ngề, các khách hàng và các hình thức cấp tín dụng có kỳ vọng lợi nhuận
cao nhất. Điều này phụ thuộc vào nhận định riêng của các Ngân hàng, đòi hỏi các
Ngân hàng phải luôn động não, khả năng tư duy, ý chí và bản lĩnh khi phân tích và
đưa ra quyết định.
Để kiểm soát được rủi ro thì phải phân tán rủi ro, không nên tập trung vốn
quá nhiều vào một loại hình kinh doanh, một vùng kinh tế. Đó là khuyến cáo và
cũng là bài học hết sức có ý nghĩa mà các nhà kinh doanh trước kia rút ra khi họ
gánh chịu những thiệt hại, đổ vỡ do không tuân thủ nguyên tắc này. Không nên dồn
vốn đầu tư vào một hoặc một số khách hàng. Nhiều chuyên gia ngân hàng cho rằng
đa dạng hóa là một trong những giải pháp phòng ngừa rủi ro hữu hiệu nhất trong
quản lý rủi ro tín dụng. Hoạt động tín dụng của NHTM rất đa dạng và mỗi sản
phẩm tín dụng lại có mức độ rủi ro khác nhau nên cần đa dạng hóa các sản phẩm tín
dụng, đa dạng hóa các phương thức cho vay.
Mở rộng tín dụng trung và dài hạn ở mức thích hợp, đảm bảo cân đối thời
hạn cho vay với thời hạn của nguồn vốn tín dụng.
20
Thực hiện đúng quy định về giới hạn cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính,
chiết khấu, bao thanh toán đối với một khách hàng và các tỷ lệ an toàn hoạt động
kinh doanh.
Huy động các nguốn vốn để đầu tư dự án hiện đại hóa công nghệ và thiết bị
phục vụ cho hoạt động kinh doanh, đồng thời khẩn trương đưa công nghệ, thiết bị
mới vào khai thác để phát triển đa dạng các dịch vụ tín dụng, thanh toán và tiện ích
ngân hàng, làm tăng hiệu quả kinh doanh và năng lực cạnh tranh.
Sử dụng các công cụ tín dụng phái sinh
Các công cụ tín dụng phái sinh (credit derivatives): Đây là các hợp đồng tài
chính bảo vệ các Ngân hàng trong trường hợp các khoản nợ không thể được thanh
toán, có thể được sử dụng hiệu quả trong việc giảm rủi ro phát sinh nợ xấu cũng
như giảm rủi ro lãi suất của ngân hàng. Sử dụng công cụ tín dụng phái sinh như:
Hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng (Credit Default Swap – CDS), Hợp đồng quyền
tín dụng (Credit options), Hợp đồng trao đổi tín dụng

Hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng (Credit Default Swap – CDS): bản chất là
một loại hợp đồng phái sinh tín dụng, cho phép bên mua bảo hiểm được thanh toán
phần thiệt hại trong trường hợp xảy ra sự kiện tín dụng (credit event) đối với tài sản
tham chiếu mà 2 bên thỏa thuận trong hợp đồng.
Định kỳ, bên mua sẽ thanh toán một khoản phí cho bên bán (gọi là CDS
spread hay Premium).
Đến kỳ đáo hạn:
- Nếu không có sự kiện tín dụng xảy ra, bên bán sẽ không có nghĩa vụ thanh
toán gì đối với bên mua.
- Nếu sự kiện tín dụng xảy ra, hợp đồng hoán đổi sẽ chấm dứt và bên bán phải
thanh toán một khoản tiền bảo hiểm rủi ro cho bên mua. Có hai kiểu thanh toán:
21
+ Bằng tiền mặt: Bên bán sẽ thanh toán cho bên mua một khoản tiền bồi
thường bằng số tiền gốc trừ đi giá trị thu hồi. Giá trị thu hồi ở đây là giá trị thị
trường của tài sản tham chiếu
+ Bằng hình thức chuyển giao tài sản: bên mua chuyển giao tài sản tham
chiếu cho bên bán để đổi lấy khoản tiền tương đương số tiền gốc của tài sản.
Hợp đồng trao đổi tín dụng: Là hình thức trong đó hai tổ chức tín dụng trao
đổi cho nhau một phần các khoản thanh toán theo các hợp đồng tín dụng của mỗi
bên. Ví dụ, ngân hàng A và ngân hàng B tìm được một trung gian tài chính là công
ty bảo hiểm, đồng ý lập một hợp đồng trao đổi tín dụng cho hai bên. Sau đó, ngân
hàng A sẽ tiến hành chuyển một lượng tiền (giả sử là 100 triệu USD gồm cả gốc và
lãi) mà ngân hàng thu từ những người vay vốn cho tổ chức trung gian. Tương tự,
ngân hàng B cũng chyển một lượng tiền tương ứng (100 triệu USD) giá trị các
khoản thanh toán nợ cho tổ chức trung gian. Tổ chức trung gian cuối cùng sẽ
chuyển những khoản tiền này cho các bên ký kết hợp đồng. Khi tham gia hợp đồng
trao đổi tín dụng, các ngân hàng có thể nâng cao tính đa dạng hoá của danh mục cho
vay, đặc biệt nếu các ngân hàng hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau. Các tổ
chức trung gian khi tham gia hợp đồng trao đổi tín dụng được hưởng một khoản phí
cho dịch vụ trung gian mà họ thực hiện. Tổ chức trung gian cũng có thể thực hiện

đảm bảo cho các bên về việc hợp đồng tín dụng sẽ được hoàn tất để nhận được
những khoản phí bổ sung.
Một dạng khác của hợp đồng trao đổi tín dụng thực hiện phổ biến là Hợp
22
đồng trao đổi toàn bộ thu nhập (total return swap). Hợp đồng này có thể bao gồm cả
những tổ chức tài chính đứng ra đảm bảo cho các bên tham gia một tỷ lệ thu nhập
cụ thể trên các khoản tín dụng của họ. Ví dụ, tổ chức trung gian sẽ đảm bảo cho
ngân hàng A có một tỷ lệ thu nhập trên khoản cho vay kinh doanh cao hơn mức lãi
suất trái phiếu dài hạn của Chính phủ là 3%. Như vậy, ngân hàng A đã đổi những
khoản thu nhập rủi ro từ khoản tín dụng lấy những thu nhập ổn định hơn. Hợp đồng
trao đổi toàn bộ thu nhập có thể được xây dựng dựa trên một khoản cho vay thương
mại mà ngân hàng A mới thực hiện. Ngân hàng A sau đó đồng ý thanh toán cho
ngân hàng B toàn bộ các khoản thu từ món vay này bao gồm cả gốc và lãi và các
những khoản tăng (giảm) giá trị thị trường của khoản cho vay. Về phần mình, ngân
hàng B sẽ cam kết thanh toán cho ngân hàng A lãi suấ LIBOR cộng với một lãi suất
bổ sung và thanh toán cho ngân hàng B mức giảm giá trị thị trường của khoản vay.
Về bản chất, ngân hàng B đã chấp nhận toàn bộ rủi ro tín dụng và cả rủi ro lãi suất
(nếu khoản cho vay có lãi suất thả nổi hay giá trị của khoản vay nhạy cảm với
những biến động của lãi suất thị trường) gắn với khoản cho vay của ngân hàng A,
điều này như thể ngân hàng B là người cho vay. Hợp đồng này có thể bị chấm dứt
sớm nếu người vay vốn mất khả năng thanh toán.
Hợp đồng quyền tín dụng (Credit options): Hợp đồng quyền tín dụng là công
cụ bảo vệ ngân hàng trước những tổn thất trong giá trị tài sản tín dụng, giúp bù đắp
mức chi phí vay vốn cao hơn khi chất lượng tín dụng của ngân hàng giảm sút. Ví
dụ, nếu một ngân hàng lo ngại về chất lượng tín dụng của một khoản cho vay 100
triệu USD mới được thực hiện, ngân hàng sẽ có thể ký hợp đồng quyền tín dụng với
một tổ chức kinh doanh quyền (option dealer). Hợp đồng này sẽ đảm bảo thanh toán
toàn bộ khoản cho vay nếu như khoản cho vay này giảm giá đánh kể hoặc không
thể được thanh toán. Nếu như khách hàng vay vốn trả nợ như kế hoạch, ngân hàng
sẽ thu được những khoản thanh toán như dự tính và hợp đồng quyền sẽ không được

sử dụng, như vậy ngân hàng sẽ mất toàn bộ chi phí trả trên hợp đồng quyền. Ngân
hàng cũng thực hiện các hợp đồng quyền tương tự để bảo vệ danh mục đầu tư trong
trường hợp những tổ chức phát hành không thể hoàn thành trách nhiệm thanh toán
23

×