Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

TÁC ĐỘNG CỦA MỨC ĐỘ ĐỘC LẬP NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG ĐẾN VIỆC THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ TIỀN TỆ LẠM PHÁT MỤC TIÊU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.47 KB, 29 trang )

1
Tiểu luận môn tài chính quốc tế
TÁC ĐỘNG CỦA MỨC ĐỘ ĐỘC LẬP NGÂN HÀNG TRUNG
ƯƠNG ĐẾN VIỆC THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ TIỀN TỆ LẠM
PHÁT MỤC TIÊU
Tác giả: Sami Alpanda, Adam
Honig
Tháng 5 -2011
Tóm tắt
Bài viết này xem xét những lợi ích của lạm phát mục tiêu trong cả nền
kinh tế tiên tiến và nền kinh tế mới nổi. Chúng tôi không phát hiện ra tác động
đáng kể trong nền kinh tế tiên tiến và chỉ tìm thấy những lợi ích nhỏ trong nền
kinh tế mới nổi, phù hợp với nghiên cứu trước đây. Tuy nhiên, khi chúng tôi phân
biệt các tác động của lạm phát mục tiêu dựa trên mức độ độc lập của ngân hàng
trung ương , chúng tôi thấy lạm phát mục tiêu có ảnh hưởng lớn trong nền kinh tế
mới nổi với mức độ độc lập thấp của ngân hàng trung ương. Do đó, kết quả của
chúng tôi cho rằng mức độ độc lập của ngân hàng trung ương không phải là
một điều kiện tiên quyết để thực hiện thành công lạm phát mục tiêu. Hơn
nữa, chúng tôi cung cấp bằng chứng cho thấy một trong những kênh thông
qua lạm phát mục tiêu nhằm làm giảm lạm phát trong nước đối với các nước có
mức độ độc lập của ngân hàng trung ương thấp là giảm thâm hụt ngân sách sau
khi thông qua chính sách lạm phát mục tiêu.
I. Giới thiệu:
Ngày càng có nhiều nước đã thông qua chế độ lạm phát mục tiêu (IT) như
là một chiến lược của chính sách tiền tệ. Xu hướng này bắt đầu vào đầu những
năm 1990 với một số ít các nền kinh tế tiên tiến. Vào giữa những năm 1990, đã
có nhiều hơn các nước công nghiệp theo đuổi chính sách này, và cuối những năm
1990 và đầu những năm 2000, các ngân hàng trung ương của các nền kinh tế mới
2
nổi đã bắt đầu áp dụng IT. Tính ra hiện đang ở mức 8 nền kinh tế tiên tiến và 13
quốc gia thị trường mới nổi áp dụng. Các ngân hàng trung ương thực hiện khuôn


khổ chính sách tiền tệ mới này vì nhận ra được các lợi ích mà nó mang lại. Các
lợi ích này bao gồm đạt được mức lạm phát thấp hơn và biến động của lạm phát
thấp hơn, trong khi duy trì tính linh hoạt đủ để phản ứng trước những cú sốc kinh
tế vĩ mô và khả năng để ổn định sản lượng. Một vài nền kinh tế mới nổi, đã thực
hiện khuôn khổ chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu và đang sử dụng lạm phát
mục tiêu như neo danh nghĩa của họ thay cho chế độ tỉ giá hối đoái cố định.
Khi số lượng của các nước đã áp dụng IT tăng lên, do đó, cũng có các tài
liệu cố gắng xác định theo thực nghiệm các ảnh hưởng của IT đến lạm phát
trung bình, sự biến động lạm phát, tăng trưởng trung bình, và sự biến động tăng
trưởng. Nghiên cứu ban đầu tập trung vào các nước công nghiệp (c.f. Ball và
Sheridan, 2005) và nói chung, chỉ tìm thấy ít bằng chứng rằng chính sách lạm
phát mục tiêu cải thiện hiệu suất kinh tế vĩ mô. Nhiều nghiên cứu gần đây cho cả
hai nền kinh tế (bao gồm các nền kinh tế mới nổi) và hướng tới tìm thấy bằng
chứng mạnh mẽ hơn về các tác động tích cực của IT (Batini và Laxton, 2007;
Goncalves và Salles, 2008; Lin và Ye, 2009; Mishkin và Schmidt-Hebbel,
2007). Tuy nhiên, Brito and Bystedt (2010), bằng cách sử dụng hệ thống ước tính
GMM trái ngược với phương pháp difference-in-difference thường được sử dụng
trong Ball và Sheridan (2005), có được kết quả hơi khác nhau. Họ tìm thấy một
tác động nhỏ của IT đến lạm phát trung bình, biến động lạm phát và biến động
tăng trưởng và cung cấp bằng chứng cho thấy tăng trưởng trung bình thấp dưới
IT. Khảo sát các tài liệu, Ball (2010) nói rằng bằng chứng về tác dụng có lợi của
IT trong nền kinh tế mới nổi mạnh hơn ở các nước tiên tiến là chưa thuyết phục.
Trong bài này, chúng tôi cố gắng giải thích việc thiếu bằng chứng mạnh
mẽ bằng cách lập luận rằng tất cả các nền kinh tế mới nổi là không giống nhau và
IT có thể phát huy ở 1 số nước tốt hơn một số nước khác. Đặc biệt, các ngân
hàng trung ương khác nhau về mức độ độc lập ngân hàng trung ương (CBI), và
điều này có thể tương tác với một chính sách IT để tạo ra kết quả kinh tế vĩ mô
3
khác nhau. Do đó, khi sự phân biệt này không được thực hiện, kết quả kết luận
cho các tác động của IT trong một tập hợp của các nước là không thuyết phục do

trong tập hợp các nước nghiên cứu có cả các quốc gia mà IT không có hiệu lực.
Có các quan điểm trái ngược là, liệu CBI có làm cho IT có hiệu quả hơn
hay ít hiệu quả hơn? Một trong những quan điểm đó là sự độc lập của ngân hàng
trung ương có thể là một điều kiện tiên quyết cho thành công của IT (Mishkin,
2000; 2004; Eichengreen et al, 1999, Friedman và Ötker-Robe, 2010). Ví dụ IT
có thể không thành công trong việc đạt được lạm phát thấp nếu các ngân hàng
trung ương có thể bị áp lực bởi các chính trị gia làm tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn
hoặc phát hành tiền để bù đắp thâm hụt tài chính lớn. Tương tự như vậy, CBI
thấp có thể ngụ ý rằng các điều kiện tiên quyết khác là không còn. Chúng bao
gồm lạm phát mục tiêu là mục tiêu ưu tiên của chính sách tiền tệ, sự vắng mặt
của sự thống trị tài chính (sự thiếu vắng các giới hạn trong chi tiêu của chính
phủ), khả năng hạn chế sự đô la hóa, và cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ có
hiệu quả, sự minh bạch, và sự chịu trách nhiệm của NHTW (Batini và Laxton,
năm 2007, Friedman và Ötker-Robe, 2010)
1
. Trong trường hợp này, IT có thể sẽ
ít hiệu quả trong các môi trường CBI thấp. Chúng tôi gọi nó là "hiệu ứng điều
kiện tiên quyết."
Tuy nhiên, có những bất đồng là liệu trong thực tế, những điều kiện tiên
quyết có cần cho thành công của IT không hay chỉ đơn giản là những yếu tố
mong muốn đạt được. Chắc chắn nhiều ý kiến sẽ đồng ý rằng những yếu tố này
làm cho bất kỳ chế độ tiền tệ nào cũng thành công hơn. Hơn nữa, những lý lẽ này
đã khẳng định rằng IT có thể thúc đẩy sự phát triển của một số các yếu tố này
(Batini và Laxton, năm 2007, Friedman và Ötker-Robe, 2009; Mishkin, 1999). Vì
vậy, IT có thể thành công hơn so với chế độ tiền tệ khác khi những yếu tố này
thiếu và có phạm vi rộng để cải thiện. Trong phạm vi những yếu tố này đang
thiếu ở các nước với CBI thấp, chúng ta có thể mong đợi để xem hiệu ứng lớn
1 Chúng tôi thảo luận điều kiện tiên quyết sau CBI để cho thấy được sự tương quan nhưng ít có khả năng
chúng xảy ra mối quan hệ nhân quả.
4

hơn của IT. Chúng tôi gọi là "hiệu ứng cải thiện" của CBI thấp. Ngược lại, khi
các yếu tố này đã có sẵn, nó có thể đóng góp phần nhỏ cho IT cải tiến.
Như là một ví dụ khác của hiệu ứng này, CBI thấp có hàm ý là sự tín
nhiệm ngân hàng trung ương không cao và không neo lại lạm phát kỳ vọng, cho
thấy rằng IT có thể có một tác động lớn (Bernanke và cộng sự, 1999; Mishkin,
1999; Svensson, 1997), trong khi đó nếu một ngân hàng trung ương có uy tín, nó
không cần độ tin cậy và neo của kỳ vọng lạm phát đi kèm với IT (Ball, 2010;
Goncalves và Salles, 2008). Một lần nữa, chúng tôi sẽ mong đợi để xem hiệu ứng
mạnh mẽ của IT ở các nước không có các ngân hàng trung ương độc lập.
Tác động của CBI thấp đến hiệu quả của IT phụ thuộc vào độ mạnh của
các hiệu ứng điều kiện tiên quyết và hiệu ứng cải thiện
22
. Bằng cách phân tích
theo thực nghiệm ảnh hưởng của CBI về việc thực hiện của chính sách IT chúng
tôi hy vọng làm sáng tỏ cuộc tranh luận này. Để thẩm định trước kết quả của
chúng tôi, chúng tôi không tìm thấy bằng chứng về tác dụng có lợi của IT ở các
nước tiên tiến, các nước đang nổi lên với mức độ cao của CBI. Tuy nhiên chúng
tôi, phát hiện các lợi ích lớn ở các nước đang phát triển với mức độ thấp của
CBI. Những kết quả này nghi ngờ về quan điểm cho rằng CBI là một điều kiện
cần thiết cho hiệu quả IT. Hoàn toàn trái ngược, IT chỉ có hiệu quả khi các ngân
hàng trung ương không phải là độc lập, cho thấy hiệu ứng cải thiện là quan trọng
hơn hiệu ứng điều kiện tiên quyết. Do đó, các nền kinh tế mới nổi không nên chờ
đợi CBI cao trước khi việc ứng dụng IT như là một chiến lược chính sách tiền tệ.
Sau đó chúng tôi điều tra các kênh thông qua nó, các nền kinh tế mới nổi
làm tăng hiệu quả IT trong việc làm giảm lạm phát. Đặc biệt, chúng ta xem xét
nhiều khía cạnh mà các nước có CBI thấp có nhiều cơ hội để cải tiến các khía
cạnh đó hơn so với các nước CBI cao bằng việc áp dụng IT. Ví dụ, thông qua IT
có thể mang lại một sự gia tăng lớn hơn thực tế hoặc lý thuyết trong CBI cho các
2 Một quan điểm trung lập thứ ba lập luận rằng CBI và các điều kiện tiên quyết đã đề cập khác là quan
trọng cho sự thành công của bất kỳ chiến lược chính sách tiền tệ nào và không nghiên về ủng hộ hoặc

cản trở IT, do đó sự vắng mặt của những điều kiện này không nên ảnh hưởng đến việc áp dụng
IT (Carare et alnăm 2002, IMF, năm 2006,Truman, 2003).
5
nước có CBI thấp như các chính trị gia trở nên có trách nhiệm hơn trong cam kết
của họ để lạm phát thấp (Mishkin, 1999; Batini và Laxton, 2007). Và có lẽ quan
trọng hơn, kể từ khi tiếp tục tài trợ thâm hụt ngân sách thông qua việc tạo ra tiền
sẽ gây nguy hiểm cho việc đạt được các mục tiêu lạm phát, IT có thể mang về kỷ
luật tài chính lớn hơn và giảm thâm hụt ngân sách trong các nước có CBI thấp,
(IMF, 2006) .IT cũng có thể có hiệu quả trong việc hạn chế sự đô la hóa, tăng
cường hiệu lực của chính sách tiền tệ và khả năng làm giảm lạm phát (Mishkin,
2003). IT cũng có liên quan với những cải tiến nhanh chóng trong cơ sở hạ tầng
kỹ thuật của ngân hàng trung ương áp dụng nó (Batini và Laxton, 2007) và tăng
tính minh bạch và trách nhiệm của NHTW (Mishkin và Schmidt-Hebbel, năm
2001).
Mặc dù chúng tôi có thể không tách riêng việc xác định tất cả các kênh
này do những giới hạn dữ liệu, nhưng chúng tôi tìm thấy bằng chứng rằng sự suy
giảm trong thâm hụt ngân sách như là một kênh quan trọng. Đặc biệt, có một sự
giảm đáng kể thâm hụt ngân sách trong nước có CBI thấp sau khi áp dụng IT,
nhiều hơn so với trong nước có CBI cao. Và khi chúng tôi kiểm soát vai trò của
thâm hụt ngân sách trong hồi quy chuẩn, chúng tôi không còn thấy rằng IT
là hiệu quả trong các nước CBI thấp. Ngược lại, chúng tôi không tìm thấy bằng
chứng rằng khả năng đô la hóa và phát triển tài chính có lợi như các kênh quan
trọng mà qua đó CBI thấp cải thiện tác động của IT.
Các phần còn lại của bài được trình bày như sau: Phần 2 giới thiệu các dữ
liệu và phương trình hồi quy chuẩn mà chúng tôi sử dụng để kiểm tra tác động
của IT vào kinh tế vĩ mô hiệu suất và vai trò của CBI. Phần 3 trình bày các kết
quả và kiểm tra mạnh mẽ. Phần 4 phân tích các kênh tiềm năng mà qua đó IT ảnh
hưởng đến hiệu suất lạm phát. Phần 5 kết luận.
II. Tác động của lạm phát mục tiêu và vai trò của CBI:
6

Trong phần này, chúng tôi giới thiệu mô hình chuẩn của chúng tôi và các
dữ liệu được sử dụng để kiểm tra tác động của lạm phát mục tiêu trên nền kinh tế
vĩ mô và vai trò của CBI. Chúng tôi xem xét sự hồi quy của một số chỉ số kinh
tế vĩ mô. Y là sự chậm trễ của chính nó, lạm phát mục tiêu là biến giả và nhiều
biến kiểm soát khác. Các đặc điểm kĩ thuật của mô hình của chúng tôi được cho
bởi:
Trong đó i là chỉ số quốc gia và t là chỉ số thời gian, Trong đó i là chỉ số
quốc gia và t là chỉ số thời gian. Các biến kiểm soát bao gồm đo lường mức độ
độc lập của NHTW (CBI), sự tác động qua lại giữa IT và CBI (IT*CBI) và một
biến giả cho thấy lạm phát cao (HIGHINFL). Sự tương tác dài hạn IT*CBI cho
thấy tác động của lạm phát mục tiêu đối với nền kinh tế vĩ mô phụ thuộc vào
CBI. Như đã nói ở trên, CBI có thể làm cho lạm phát mục tiêu nhiều hoặc ít hiệu
quả hơn tùy thuộc vào điều kiện tiên quyết và những hiệu ứng cải thiện, do vậy
các hệ số tương tác là không rõ ràng. Cuối cùng đề cập đến một tác động của
thời gian và là thành phần đặc trưng quốc gia của biến .
Để tạo điều kiện thuận lợi so sánh với kết quả trước đó và để cô lập (bỏ
qua) các thông tin bổ sung được tạo ra bởi các biện pháp của CBI, chúng tôi sử
dụng cùng một phương trình hồi quy (ngoại trừ CBI và thời hạn tương tác của
nó) và đánh giá phương pháp tương tự như Brito và Bystedt (2010). Vì vậy
7
chúng tôi đánh giá các mẫu sử dụng hệ thống ước lượng GMM được phát triển
bởi Arellano và Bover (1995) và Blundell and Bond (1998)
3
.
3 Brito và Bystedt (2010) thảo luận về một số lợi thế của phương pháp này so với phương áp diff-in-diff
sử dụng trong Ball và Sheridan (2005).
8
1. Dữ liệu:
Dữ liệu được sử dụng từ năm 1980 đến năm 2006. Theo như Brito and
Bystedt (2010), chúng tôi lấy trung bình 3 năm cho các dữ liệu, kết quả là một

mẫu với 9 giai đoạn. Điều này làm giảm số lượng biến, và nó cũng cung cấp một
sự hợp lý, vừa cung cấp đủ thời gian cho sự phản ứng châm chạp của các biến vĩ
mô, vừa tách những kết quả của lạm phát mục tiêu khỏi những sự kiện khác xảy
ra gần đó. Mẫu ở đây bao gồm tất cả các nước đã áp dụng lạm phát mục tiêu
cũng như là một nhóm không áp dụng
4
. Nhóm không mục tiêu và các giai đoạn
trước khi áp dụng cho các nước mục tiêu dùng để so sánh. Chúng tôi sử dụng
cùng một tập hợp của các nền kinh tế mới nổi, cả hai targeters và không targeters,
như Brito và Bystedt (2010), người sử dụng sự kết hợp của các mẫu ở Batini và
Laxton (2007) và Goncalves và Salles (2008). Sự khác biệt chỉ là hai trong số các
nước đã không có dữ liệu trên CBI, và vì vậy chúng ta chỉ có 44 nền kinh tế mới
nổi thay vì 46 như của họ. Trong hồi quy riêng biệt, chúng tôi mở rộng mẫu và
bao gồm các nền kinh tế tiên tiến. Nhóm 22 nền kinh tế tiên tiến được lấy từ Ball
(2010)
5
, mẫu kết hợp do đó bao gồm 66 quốc gia.
Trong bài này, chúng tôi xem xét tác động của CNTT vào 4 chỉ số về hiệu
suất kinh tế vĩ mô: lạm phát, tăng trưởng sản lượng, độ lệch tiêu chuẩn của lạm
phát, và độ lệch chuẩn của tăng trưởng sản lượng. Lạm phát và các biện pháp
tăng trưởng sản lượng tăng trưởng được tính theo chỉ số giá tiêu dùng và GDP
thực tế (nhân cho 100). Trung bình và độ lệch chuẩn sau đó được tính cho từng
thời kỳ ba năm. Chỉ số giá tiêu dùng và GDP thực tế được tính lũy kế để giảm sự
ảnh hưởng của các biến không liên quan.
4 Xem danh sách ở phụ lục
5 Sự khác biệt duy nhất là chúng tôi không loại trừ Hy Lạp và Iceland, đã được loại
trừ trong mẫu của Ball bởi vì họ đã trải qua lạm phát hàng nămhơn 20% kể từ năm 1984
9
Thời gian sử dụng cho các nền kinh tế tiên tiến được lấy từ Ball (2010),
thời gian đối với các nền kinh tế mới nổi là từ Brito và Bystedt (2010), người sử

dụng ngày này trong Batini và Laxton (2007). Biến giả lạm phát mục tiêu thể
hiện giá trị là 1 trong thời gian 3 năm, nếu lạm phát mục tiêu diễn ra trong cả ba
năm của thời kì này. Tương ứng, nó được thiết lập bằng hai phần ba hoặc một
phần ba nếu một chế độ diễn ra chỉ hai năm hoặc một năm. Chúng ta có thể giải
thích các hệ số của biến lạm phát mục tiêu, β2 như sau: tất cả các yếu tố khác
không đổi, nếu quốc gia có lạm phát mục tiêu có (-)β có lạm phát ít hơn quốc gia
không có lạm phát mục tiêu ( bỏ qua những tương tác trong dài hạn), hoặc tương
đương, nếu một quốc gia thong qua lạm phát mục tiêu, nó sẽ giảm lạm phát trung
bình bởi phần trăm của β2.
Đối với các biện pháp của ngân hàng trung ương độc lập, chúng tôi xem
xét các chỉ số CBI của Cukierman et al. (1992), được dựa trên các khía cạnh
pháp lý về sự độc lập (LEGAL) và tỉ lệ thay đổi thống đốc (TURNOVER)
6
. Các
chỉ số nói chung là có sẵn cho đến năm 1989 cho cả hai nền kinh tế tiên tiến và
nền kinh tế phát triển và đảm đương một giá trị mỗi thập kỉ. Chúng bao gồm từ 0
đến 1, với giá trị càng cao cho thấy các khía cạnh pháp lý về sự độc lập tốt hơn
và tỉ lệ thay đổi thống đốc thấp hơn.
Chỉ số các khía cạnh pháp lý của sự độc lập đã được mở rộng từ năm 2002
cho 24 nước Mỹ Latinh và Caribbean bởi Jácome và Vázquez (2005), người
cũng đã thêm một số quốc gia vào mẫu và các nước tiên tiến cũng được áp dụng
năm 1999 bởi Siklos (2008). Những chỉ số về thay thế thống đốc cũng dc bổ
sung với các dữ liệu sau năm 1990 từ Crowe và Meade (2007) và Dreher, et
al. (2008).
Có ba điểm liên quan đến những chỉ số này là đáng chú ý. Đầu tiên, như
đã đề cập ở trên, không phải tất cả các quốc gia có lạm phát mục tiêu đều có cùng
một mức độ cao của CBI, và có sự thay đổi đáng kể trong giá trị của biến CBI,
6 TURNOVER là số trung bình của sự thay đổi thống đốc NHTW mỗi năm trong một thập kỉ. Ví dụ, nếu
TURNOVER=0.2 thì trong 10 năm có 2 lần thay đổi thống đốc cho nhiệm kì trung bình 5 năm.
10

điều này có thể được khai thác để xác định vai trò của CBI. Thứ hai, các phương
pháp này cung cấp thông tin bổ sung về CBI ngoài công cụ độc lập. Như thảo
luận trong Batini và Laxton (2007), phần lớn các ngân hàng trung ướng có ít nhất
một công cụ độc lập thep luật định vào thời gian mà lạm phát mục tiêu được
thông qua
7
. Tuy nhiên, có nhiều thiếu sót trong các khía cạnh khác của các ngân
hàng trung ương độc lập được phản ánh qua các biện pháp pháp lý, bao gồm cả
quyền tự do của nghĩa vụ để mua nợ chính phủ, tầm quan trọng của lạm phát
trong những mục tiêu khác và sự an toàn cao cho vị trí thống đốc NHTW. Ngoài
ra, chỉ số TURNOVER cung cấp thông tin thực tế về sự an toàn của ghế thống
đốc. Thứ ba, một vấn đề tiềm năng với chỉ số độc lập (legal) là những gì được
viết ra trong luật pháp có thể rất khác nhau so với thực tế. Điều này đặc biệt đúng
trong các nền kinh tế mới nổi. Tương tự như vậy, các công cụ độc lấp trên luật
pháp không có nghĩa là sự độc lập trên thực tế. Trong thực tế, Cukierman, et
al. (1992) lập luận các biện pháp TURNOVER thích hợp hơn cho nền kinh tế
mới nổi hơn so với các biện pháp pháp lý, trong khi đối với các nước tiên tiến,
các biện pháp pháp lý là chỉ định của CBI. Những vấn đề này được thảo luận
thêm trong phần 3 và 4.
Cuối cùng, tài liệu của chúng tôi bao gồm một biến giả, HIGHINFL, cho
thấy lạm phát trung bình cao ( >40%) trong một khoảng thời gian để kiểm soát
các động lực kinh tế vĩ mô có thể khác nhau ở các nước lạm phát cao (Brito and
Bystedt, 2010; Batini and Laxton, 2007; IMF, 2006). Chúng tôi cũng thực
nghiệm loại bỏ biến lạm phát cao khỏi mẫu trong bảng 3.1.
2. Tóm tắt thống kê:
Thống kê tóm tắt cho tất cả các quan sát, ở các nước có nền kinh tế tiên
tiến và nền kinh tế mới nổi được cung cấp trong Bảng 1. Thời gian mẫu,từ 1980-
7 Công cụ độc lập xảy ra khi các ngân hàng trung ương có toàn quyền điều khiển các thiết lập
của các công cụ chính sách, thường là lãi suất danh nghĩa ngắn hạn, để đạt được
các mục tiêu chính sách. Mục tiêu độc lập trong đó các ngân hàng trung ương thiết

lập các mục tiêu chính sách như mục tiêu lạm phát là không phổ biến, ngay cả trong nền kinh tế tiên
tiến (Debelle vàFischer, 1994).
11
2006, được chia thành các khoảng thời gian ba năm, trong đó có 66 quốc gia, 22
quốc gia tiên tiến, và 44 nền kinh tế mới nổi. Các nước tiên tiến chiếm 27%
trong tất cả các quan sát. Cả các nước tiên tiến và các nền kinh tế mới nổi đã có
một cơ chế lạm phát mục tiêu xấp xỉ 13% thời gian. Các quốc gia mới nổi có tỷ
lệ thay đổi thống đốc ngân hàng trung ương cao hơn, mặc dù các nước này có
thước đo pháp lý đo lường CBI trung bình cao hơn. Điều này nêu ra thực tế rằng
thước đo pháp lý không phản ánh chính xác CBI tại các nền kinh tế mới nổi, như
Cukierman, và cộng sự (1992) đã chỉ ra. Các nền kinh tế mới nổi có tỷ lệ lạm
phát và tỷ lệ tăng trưởng sản lượng cao hơn. Các nước này cũng đã từng trải qua
thời kỳ siêu lạm phát qua các giá trị lạm phát cao mà ta đã thấy.
Bảng 2 trình bày các số liệu thống kê tóm tắt việc phân loại quốc gia (phát
triển hay mới nổi), chế độ tiền tệ (có sử dụng cơ chế lạm phát mục tiêu hoặc
không sử dụng cơ chế lạm phát mục tiêu, được xác định bởi biến IT), và khoảng
thời gian (trước khi áp dụng cơ chế lạm phát mục tiêu (pre-IT) và sau khi áp
dụng cơ chế lạm phát mục tiêu( post-IT)). Đối với quốc gia phát triển (hoặc mới
nổi) không sử dụng cơ chế lạm phát mục tiêu, thời gian trung bình thông qua cơ
chế lạm phát mục tiêu là 1995 (1999), được sử dụng để phân chia mẫu. Đối với
các nước tiên tiến, thời kỳ áp dụng lạm phát mục tiêu đi cùng với lạm phát thấp
hơn, tốc độ tăng trưởng cao hơn, biến động lạm phát và biến động tăng trưởng
thấp hơn. Ở các quốc gia không sử dụng cơ chế lạm phát mục tiêu cũng có sự cải
thiện mặc dù ít hơn. Khuôn mẫu tương tự đối với các nền kinh tế mới nổi, mặc
dù,theo thời gian sự cải thiện đối với các nước sử dụng cơ chế lạm phát mục tiêu
lớn hơn các nước không sử dụng cơ chế lạm phát mục tiêu. Ví dụ, các nền kinh tế
mới nổi có sử dụng cơ chế lạm phát mục tiêu giảm lạm phát trung vị mười điểm
phần trăm, trong khi các nước không sử dụng cơ chế lạm phát mục tiêu chỉ giảm
bốn điểm phần trăm. Điều này làm gợi nhớ kết quả trước đó trong các tài liệu thu
được bằng cách sử dụng phương pháp ước lượng khác biệt trong sự khác

biệt( the difference –in-difference estimator).Tuy nhiên, nhìn vào lạm phát trung
bình trước và sau khi cơ chế lạm phát mục tiêu được thông qua có thể nhầm lẫn
12
và có thể phóng đại tác lợi ích của cơ chế lạm phát mục tiêu . Như đã chỉ ra bởi
Brito và Bystedt (2010), các nước sử dụng cơ chế lạm phát mục tiêu đã trải qua
thời kỳ lạm phát trung bình cao hơn so với chế độ không mục tiêu đến cuối
những năm 1980 nhưng đã thay đổi giữa những năm 1990, trước khi ứng dụng cơ
chế lạm phát mục tiêu, với mức lạm phát thấp hơn so với các nước không áp
dụng cơ chế lạm phát mục tiêu. Mẫu hình lạm phát này có thể gây ra một vấn đề
với phương pháp ước lượng sự khác biệt trong sự khác biệt( the difference-in-
difference estimator) , vốn dĩ dựa trên sự khác biệt về lạm phát trước và sau khi
có áp dụng cơ chế lạm phát mục tiêu.Cuối cùng, Bảng 2 cho thấy các nền kinh tế
mới nổi bắt đầu với lạm phát trung bình và biến động lạm phát cao hơn, sau khi
áp dụng cơ chế lạm phát mục tiêu đã làm giảm những biến này xuống nhiều hơn
so với các nền kinh tế phát triển.
Trong bảng 3, chúng tôi tập trung chú ý vào các nền kinh tế mới nổi và
trình bày các thống kê dựa trên chế độ tiền tệ, khoảng thời gian, và mức độ của
CBI bằng cách sử dụng TURNOVER như là một sự đại diện. Cụ thể, chúng tôi
trình bày các thống kê tóm tắt với TURNOVER dưới và trên mức 0,26. Như đã
được mô tả trong các kết quả trước, TURNOVER bằng 0,26 tương ứng với mức
phân chia ảnh hưởng của IT đến lạm phát trung bình tại mức ý nghĩa 10%. Nó
cũng là giá trị trung bình của TURNOVER (trung vị là 0,20).
Đối với các quốc gia áp dụng IT với TURNOVER thấp/CBI cao, lạm phát
trung bình (trung vị) giảm 11 (8)% điểm sau khi thông qua IT, trong khi đối với
các quốc gia không áp dụng IT, giảm 8 (4)% điểm. Đối với các quốc gia áp dụng
IT với TURNOVER ≥ 0,26, lạm phát trung bình (trung vị) giảm xuống 55 (20)%
điểm, trong khi đối với các quốc gia không áp dụng IT, giảm 22 (5)% điểm. Do
đó, các nước trải qua TURNOVER cao/CBI thấp có lạm phát giảm nhiều hơn
trong bất kể chế độ tiền tệ nào so với các quốc gia CBI cao.
Thứ hai, giữ CBI cố định, qua thời gian, các quốc gia sử dụng IT cải thiện

nhiều hơn các quốc gia không sử dụng IT. Thứ ba, sự khác biệt trong việc cải
thiện theo thời gian giữa các quốc gia sử dụng IT và các quốc gia không sử dụng
13
IT là tốt hơn đối với các quốc gia CBI thấp. Do đó, đối với lạm phát trung bình,
các bằng chứng sơ bộ ban đầu cho thấy rằng ở các nước có CBI thấp, IT làm
giảm lạm phát nhiều hơn so với các chế độ tiền tệ khác.
Lưu ý rằng một mẫu hình tương tự có thể xác định được cho TURNOVER
và thâm hụt ngân sách. Cụ thể, cả TURNOVER và thâm hụt ngân sách đều không
thay đổi hoặc tăng không đáng kể đối với các quốc gia có CBI cao, cho dù các
nước này có áp dụng IT hay không. Đối với các quốc gia CBI thấp, có một sự sụt
giảm thâm hụt ngân sách cho cả hai tập hợp quốc gia có và không có sử dụng IT,
nhưng sự sụt giảm trung bình đối với các nước áp dụng IT (từ thâm hụt 3,2%
thành thặng dư 0,1%) lớn hơn đáng kể so với sự sụt giảm ở các quốc gia không
sử dụng IT (từ thâm hụt 1,1% thành thặng dư 0,8%). Đây là một kết quả, điều
này phù hợp với giả thuyết rằng việc áp dụng IT giúp chính phủ ở các nước có
CBI thấp tăng cường kỷ luật tài khóa, giảm nhu cầu tài trợ thâm hụt ngân sách
bằng việc tạo tiền, và làm giảm tỷ lệ lạm phát trung bình. Ngoài ra, TURNOVER
giảm ở các nước có CBI thấp, theo sau việc thông qua IT nhưng gia tăng (rất
nhỏ) ở các quốc gia có CBI cao. Trong phần 4, chúng tôi đề xuất việc hạ thấp
thâm hụt ngân sách và sự cải thiện mức độ của CBI là các kênh quan trọng mà
qua đó IT thành công trong việc giảm lạm phát ở các nước CBI thấp.
Đối với các quốc gia áp dụng IT với TURNOVER thấp/CBI cao, biến động
lạm phát trung bình (trung vị), giảm 3 (1)% điểm sau khi thông qua IT, trong khi
đối với các nước không áp dụng IT, giảm 4 (2)% điểm. Đối với các quốc gia áp
dụng IT với TURNOVER ≥ 0,26, biến động lạm phát trung bình (trung vị) giảm
19 (3)% điểm, trong khi đối với các quốc gia không áp dụng IT giảm 7 (2)%
điểm. Như với mức lạm phát trung bình, So với các nước CBI cao, các nước có
TURNOVER cao/CBI thấp có sự sụt giảm lớn hơn trong biến động lạm phát với
bất kể chế độ tiền tệ nào. Thứ hai, đối với các nước có TURNOVER thấp, các
quốc gia không áp dụng IT cải thiện hơn (tuy không nhiều) theo thời gian so với

các quốc gia áp dụng IT, trong khi đối với các quốc gia có TURNOVER cao,
14
điều ngược lại đúng. Như vậy, IT thực hiện tốt hơn so với các chế độ tiền tệ khác,
ở quốc gia có CBI thấp.
Đối với các quốc gia áp dụng IT với TURNOVER thấp/CBI cao, sự tăng
trưởng trung bình tăng 1 (1.2)% điểm sau khi thông qua IT, trong khi đối với các
quốc gia không áp dụng IT, tăng 1,2 (1)% điểm. Đối với các quốc gia áp dụng IT
với TURNOVER ≥ 0,26, tăng trưởng trung bình (trung vị) tăng 0,6 (1,4)% điểm,
trong khi đối với các quốc gia không áp dụng IT, tăng 0,4 (1,4)% điểm. Vì vậy
kết quả ban đầu cho thấy cả hai nhóm quốc gia áp dụng IT và các quốc gia không
áp dụng IT trải qua sự gia tăng tương tự trong tăng trưởng, và sự cải thiện không
khác biệt đáng kể với các mức độ khác nhau của CBI.
Cuối cùng, đối với các quốc gia áp dụng IT với TURNOVER thấp/CBI
cao, trung bình (trung vị) biến động tăng trưởng giảm 1,3 (0,8)% điểm, trong khi
đối với các quốc gia không áp dụng IT giảm 1.8 (1.1)% điểm. Ở các quốc gia áp
dụng IT với TURNOVER cao, biến động của tăng trưởng trung bình (trung vị)
giảm 1,2 (1,6)% điểm, trong khi đối với các nước không áp dụng IT giảm 0.5
(0.65)% điểm. Do đó đối với quốc gia có TURNOVER thấp, qua thời gian, các
quốc gia không áp dụng IT cải thiện nhỏ so với các quốc gia áp dụng IT, trong
khi điều ngược lại là đúng đối với các nước có TURNOVER cao. Bằng chứng sơ
bộ như vậy cho thấy rằng IT thể hiện tốt hơn so với các chế độ khác, ở các nước
có CBI thấp.
Bảng 4 trình bày mối tương quan mẫu cho mẫu đầy đủ, các nước phát
triển, và nền kinh tế mới nổi. Với cả nền kinh tế tiên tiến và nền kinh tế mới nổi,
IT tương quan thấp với mức lạm phát trung bình, biến động lạm phát, và biến
động tăng trưởng. Với cả mẫu đầy đủ và các nền kinh tế mới nổi IT tương quan
thấp với tăng trưởng trung bình nhưng với nền kinh tế tiên tiến, IT tương quan
cao hơn với tăng trưởng trung bình. Như dự kiến, LEGAL và TURNOVER có
tương quan âm. Hơn nữa, lạm phát và biến động lạm phát có tương quan âm với
LEGAL cho cả hai nhóm, trong khi chúng tương đương dương với TURNOVER

đối với các nền kinh tế mới nổi, như mong đợi. Tuy nhiên, đối với quốc gia phát
15
triển, dấu hiệu của sự tương quan của cả lạm phát và biến động lạm phát với
TURNOVER lại âm (trái với mong đợi). Như đã thảo luận trong Cukierman và
cộng sự (1992), TURNOVER không phải là một thước đo tốt cho CBI đối với
các nước tiên tiến, trong khi LEGAL không đại diện cho CBI ở các nền kinh tế
mới nổi. Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này trong phần kết quả.
3. Kết quả:
Bảng 5 trình bày kết quả từ sự ước lượng của phương trình (1) không có
chỉ số CBI như một sự so sánh với những phát hiện trước đây.Tuy nhiên,chúng
tôi giới hạn mẫu các quốc gia có dữ liện về CBI
8
. Trong ước lượng GMM chuẩn
của chúng tôi, cả biến IT và biến CBI cùng với biến trễ phụ thuộc được xem như
là các biến hồi quy độc lập đã xác định trước (mặc dù không hoàn toàn ngoại
sinh).
Do đó chúng tôi giả định rằng lạm phát hiện tại không ảnh hưởng sự chấp
nhận lạm phát mục tiêu mặc dù lạm phát trong quá khứ đã ảnh hưởng đến sự
thông qua lạm phát mục tiêu.Trong phần 3.2, chúng tôi xem xét biến IT và biến
CBI như là biến nội sinh.
9
Biến giả HIGHINF đã được xem như một biến nội
sinh trong tất cả các hàm hồi quy.
Kết quả trình bày cho thấy rằng lạm phát mục tiêu, so với các chính sách
tiền tệ khác, trong mẫu nghiên cứu đầy đủ làm giảm lạm phát bình quân khoảng
1.7%, ở các nước tiên tiến khoảng 0.34% (nhưng không có ý nghĩa), và ở các nền
kinh tế mới nổi khoảng 2.0%(P-value=0.11).Kết quả cho cả nền kinh tế phát triển
và nền kinh tế mới nổi trên là phù hợp với đa số các nghiên cứu trước đây. Khi
mà lạm phát mục tiêu được mong đợi cắt giảm biến động lạm phát (Cecchetti và
8

8
Ví dụ, các kết quả đối với các nền kinh tế mới nổi rất gần với cột 5 của bảng 3 và 4 trong Brito và
Bytedt (2010). Khác biệt duy nhất là hai trong số các nước đó đã không có dữ liệu về TURNOVER. Hơn
nữa, các quốc gia không nhất thiết có dữ liệu về TURNOVER suốt thời kỳ nghiên cứu, dẫn đến việc mất
nhiều quan sát hơn.
9Tóm tắt thống kê trong bảng 2 cho thấy các quốc gia có lạm phát cao có khả năng thông qua IT nhiều
hơn, cho thấy một phản hồi tích cực, hợp lý với độ trễ. Vì thế chúng tôi xem IT như là các biến định trước
(hay như một biết nội sinh khi kiểm định tính chắc chắn) thay vì một biến ngoại sinh.
16
Ehrmanm, 2002), cột 4-6 trong bảng phía trên cho thấy rằng lạm phát mục tiêu
không có ảnh hưởng đáng kể. Kết quả này của các nền kinh tế mới nổi thì phù
hợp với nghiên cứu của Brito và Bystedt(2010) nhưng không phù hợp với nghiên
cứu của Lin và ye(2009) và Batini và Laxton(2007), những người đã tìm ra rằng
Lạm phát mục tiêu làm giảm đi sự biến động lạm phát. Ảnh hưởng không đáng
kể đến nền kinh tế phát triển thì phù hợp với nghiên cứu của Ball(2010).
Trong bảng dưới, lạm phát mục tiêu làm giảm mức tăng trưởng bình quân
trong mẫu nghiên cứu đầy đủ và các nền kinh tế mới nổi nhưng gia tăng mức
tăng trưởng cho nền kinh tế phát triển. Kết quả của các nền kinh tế mới nổi thì
phù hợp với Brito và Bystedt (2010), nhưng kết quả ở các nước phát triển thì
ngược lại với Ball(2010), người không tìm thấy ảnh hưởng tại các nền kinh tế
phát triển. Cột 4-6 ở bảng dưới chỉ ra rằng Lạm phát mục tiêu ảnh hưởng ngược
chiều nhưng không có ý nghĩa đến biến động tăng trưởng trong mẫu nghiên cứu
đầy đủ (p-value=0.14) và cho nền kinh tế mới nổi (p-value=0.24) nhưng ảnh
hưởng cùng chiều và không có ý nghĩa cho nền kinh tế phát triển. Kết quả của
các nền kinh tế mới nổi thì tương tự như kết quả nghiên cứu của Brito và
Bysted(2010), Batini và Laxton(2007), Goncalves và Salles( 2008), người đã
phát hiện ra những tác động ngược chiều có ý nghĩa. Kết quả của các nền kinh tế
phát triển thì phù hợp với Ball(2010), ông đã phát hiện ra rằng các hệ số tích cực
nhưng không rõ ràng. Cuối cùng, biến HIGHINF có quan hệ cùng chiều với mức
lạm phát bình quân, biến động lạm phát và biến động tăng trưởng nhưng làm

giảm tăng trưởng bình quân. Đối với các nền kinh tế phát triển, biến số đã bị bỏ
sót bởi vì hiện tượng đa cộng tuyến khi chỉ có 1 nước trải qua thời kỳ lạm phát
cao.
Bảng 6 trình bày các kết quả từ các ước lượng của phương trình (1) với
lạm phát bình quân là biến phụ thuộc mà bây giờ chúng ta tính đến CBI và sự
tương tác của CBI và lạm phát mục tiêu. Chúng tôi cung cấp kết quả cho mẫu
nghiên cứu đầy đủ, các nền kinh tế phát triển và các nền kinh tế mới nổi, sử dụng
biến LEGAL hoặc biến TURNOVER như tiêu chuẩn đánh giá tính độc lập của
17
ngân hàng trung ương. Để kiểm tra những ảnh hưởng của lạm phát mục tiêu,
chúng tôi sử dụng hệ số của IT và hệ số của IT*CBI. Trong mẫu nghiên cứu đầy
đủ trường hợp (1), kết quả cho thấy rằng CHÍNH SÁCH LẠM PHÁT MỤC
TIÊU không ảnh hưởng đến lạm phát, bất kể mức độ độc lập pháp lý nào. Tuy
nhiên, trong mẫu nghiên cứu đầy đủ trường hợp (2), hệ số của IT*TURNOVER
âm và có ý nghĩa, cho thấy rằng lạm phát mục tiêu làm giảm lạm phát hiệu quả
hơn ở các quốc gia với mức độ thay đổi của thống đốc ngân hàng trung ương cao
hơn.Cụ thể, những nước có TURNOVER cao nhất có ảnh hưởng của lạm phát
mục tiêu tới lạm phát khác biệt 36.3% so với các nước có TURNOVER thấp nhất,
các trường hợp khác tương tự.
10
Các tính toán thêm cho thấy rằng ảnh hưởng của
lạm phát mục tiêu là âm có ý nghĩa nhưng chỉ đối với các quốc gia có
TURNOVER lớn hơn hoặc bằng 0.26, hơi lớn hơn mức trung bình của mẫu
nghiên cứu đầy đủ. Độ lớn của tác động dự đoán đối với lạm phát bình quân khi
TURNOVER =0,26, khoảng -3,0%. Ảnh hưởng này tăng lên khi TURNOVER
ngang bằng 1, đến cực đại -29,9%. Do đó, ảnh hưởng của lạm phát mục tiêu đến
lạm phát bình quân trong mẫu nghiên cứu đầy đủ phụ thuộc vào mức độ CBI.
Tuy nhiên, ảnh hưởng này là bằng chứng chỉ khi chúng ta sự dụng TURNOVER
như một tiêu chuẩn để đánh giá CBI. Chúng tôi sẽ giải thích ngắn gọn tại sao đó
là một trường hợp.

Đối với các nước phát triển, lạm phát mục tiêu không có một ảnh hưởng
có ý nghĩa nào cho tất cả giá trị của LEGAL trong cột (3) và TURNOVER trong
cột (4). Đối với các nền kinh tế mới nổi trong trường hợp (5), lạm phát mục tiêu
không có ảnh hưởng có ý nghĩa đến lạm phát cho tất cả giá trị của LEGAL. Thêm
vào đó, hệ số của IT*LEGAL là không có ý nghĩa, cho thấy rằng tất cả cũng
tương tự, sự độc lập về pháp lý thì không làm thay đổi ảnh hưởng của lạm phát
mục tiêu đến lạm phát. Tuy nhiên, kết quả trong trường hợp (6), cho thấy rằng
ảnh hưởng của lạm phát mục tiêu ở các quốc gia có TURNOVER cao nhất thì
khác biệt 57% so với các nước có TURNOVER thấp nhất, tất cả cũng tương tự
10Thực tế, khi TURNOVER bằng 0, ảnh hưởng IT có tác động cùng chiều và hầu như có ý nghĩa ở mức
10%.
18
(chúng tôi bàn luận về hệ số lớn này và các yếu tố bên ngoài trong phần 3.1). Đặc
biệt, tác động của lạm phát mục tiêu là dương có ý nghĩa với mức ý nghĩa 10%
đối với giai đoạn TURNOVER thấp hơn hoặc bằng 0,06 (4 quốc gia và 11 quan
sát). Ngược lại, lạm phát mục tiêu tác động ngược chiều với mức ý nghĩa 10%
khi TURNOVER lớn hơn hoặc bằng 0.26 (25 quốc gia và 114 quan sát), mức độ
trung bình cho nền kinh tế mới nổi. Các quan sát với TURNOVER giữa 0.06 và
0.26 (34 quốc gia, 175 quan sát), lạm phát mục tiêu không có ảnh hưởng đáng kể.
Điều này được mô tả trong Hình 1, nó trình bày ảnh hưởng biên của lạm phát
mục tiêu tới lạm phát ở các nền kinh tế mới nổi với các giá trị khác nhau của
TURNOVER với khoảng tin cậy 90%.
Tóm lại, kết quả trong trường hợp ( 6) cho thấy rằng lạm phát mục tiêu
không có ảnh hưởng có ý nghĩa khi TURNOVER nhỏ hơn 0.26 nhưng ở nhiều
nền kinh tế mới nổi với TURNOVER trên 0.26 thì lạm phát mục tiêu đóng một
vai trò quan trọng việc làm giảm lạm phát nhiều hơn so với các chính sách tiền tệ
khác. Độ lớn của ảnh hưởng dự đoán đến lạm phát khi TURNOVER bằng 0.26 là
-4.6%. Ảnh hưởng này gia tăng khi TURNOVER tăng lên, đến tối đa 46.6% khi
TURNOVER bằng 1.
Cuối cùng, bản thân hệ số của LEGAL không có ý nghĩa trong cả 3 mẫu.

Bản thân hệ số của TURNOVER có tín hiệu dự báo cùng chiều và có ý nghĩa
trong mẫu đầy đủ và cho các nền kinh tế mới nổi, cho thấy rằng CBI thấp có liên
quan đến mức lạm phát cao. Tuy nhiên, chú ý rằng đối với mẫu đầy đủ và các
nền kinh tế mới nổi, hệ số của TURNOVER và IT*TURNOVER thì xấp xỉ bằng
nhau về độ lớn nhưng trái chiều nhau. Điều này cho thấy rằng lạm phát mục tiêu
có thể làm vô hiệu hóa ảnh hưởng của tính độc lập của ngân hàng trung ương
thấp đến lạm phát.
Như đã được đề cập ở trên, chúng tôi tìm thấy bằng chứng rằng lạm phát
mục tiêu làm giảm lạm phát nhiều hơn so với các chính sách khác trong mẫu đầy
đủ khi chúng ta sử dụng biến TURNOVER đại hiện cho CBI, nhưng không đúng
19
khi chúng ta sử dụng biến LEGAL. LEGAL không ảnh hưởng đến các nền kinh tế
tiên tiến, các nước mà dường như không có lợi ích từ lạm phát mục tiêu. Nó cũng
không có ảnh hưởng đến các nước mới nổi, mặc dù các nước này có lợi ích từ
lạm phát mục tiêu, có lẻ bởi vì thước đo pháp lý của tính độc lập thì kém chính
xác hơn ở các nền kinh tế mới nổi (Cukierman và cộng sự 1992). Trong khi đó,
biến TURNOVER có ảnh hưởng mạnh đối với những nền kinh tế mới nổi nhưng
có ảnh hưởng yếu trong mẫu đầy đủ (mặc dù vẫn có ý nghĩa). Sự sụt giảm về độ
lớn và mức ý nghĩa trong mẫu đầy đủ có thể giải thích bằng sự thật rằng một số
nền kinh tế tiên tiến có tỷ lệ thay đổi thống đốc của ngân hàng trung ương cao
hơn các nước đang phát triển, nhưng vẫn không mang lại ảnh hưởng có lợi của
lạm phát mục tiêu.(Cukierman và cộng sự 1992) lập luận rằng đối với những
nước phát triển, phương pháp đo lường sử dụng TURNOVER này ít có tính chất
đại diện cho CBI hơn phương pháp dùng LEGAL. Trong một mẫu đầy đủ, ảnh
hưởng của TURNOVER, mặc dù yếu hơn nhưng vẫn có ý nghĩa. Lý do là ảnh
hường của CƠ CHẾ LẠM PHÁT MỤC TIÊU ở các quốc gia phát triển có tỷ lệ
thay đổi lảnh đạo ngân hàng trung ương thấp ở mức trung bình và yếu hơn so với
các nền kinh tế mới nổi, trong khi các nền kinh tế mới nổi với tỷ lệ thay đổi lãnh
đạo ngân hàng trung ương cao làm giảm lạm phát nhiền hơn các nước có tỷ lệ
này thấp.

11
Bảng 7 trình bày kết quả từ sự ước lượng của phương trình (1) với biến
động lạm phát như một biến độc lập. Bất kể giá trị nào của LEGAL hoặc của
TURNOVER, ảnh hưởng của lạm phát mục tiêu không có ý nghĩa với mẫu đầy đủ
và những nền kinh tế mới nổi. Tuy nhiên, đối với các quốc gia có nền kinh tế
phát triển, lạm phát mục tiêu gia tăng biến động lạm phát một cách có ý nghĩavới
LEGAL lớn hơn hoặc bằng 0.51 (cao hơn giá trị trung bình 0.42 một ít) (với sự
độc lập của ngân hàng trung ương cao). Ảnh hưởng được dự đoán của lạm phát
mục tiêu đến biến động lạm phát dao động từ 0.9% (LEGAL=0.51) đến 3.7%
11Giải thích này giống như phần giải thích của Cukierman và cộng sự 1992 về việc tại sao TURNOVER là có ý
nghĩa trong việc giải thích lạm phát trung bình cho các nước mới nổi và cho toàn bộ dữ liệu, mặc dù không có ý
nghĩa với các nước tiên tiến.
20
(LEGAL=1.0). Do đó, lạm phát mục tiêu ở các quốc gia có nước tiên tiến có sự
độc lập của ngân hàng trung ương cao gia tăng biến động của lạm phát so với các
quốc gia có sự độc lập của ngân hàng trung ương thấp.
Bảng 8 trình bày kết quả từ sự ước lượng của phương trình (1) với sự phát
triển bình quân như một biến phụ thuộc. Trong mẫu đầy đủ, Lạm phát mục tiêu
có mối quan hệ đến sự tăng trưởng thấp hơn ở các quốc gia có sự độc lập của
ngân hàng trung ương thấp khi chúng ta sử dụng TURNOVER như phương pháp
đo lường sự độc lập của ngân hàng trung ương. Cụ thể, lạm phát mục tiêu không
có ảnh hưởng với tất cả giá trị của LEGAL nhưng có một ảnh hưởng ngược chiều
có ý nghĩa khi TURNOVER lớn hơn 0.21. Ở những nền kinh tế phát triển, ảnh
hưởng của lạm phát mục tiêu là cùng chiều và có ý nghĩa vớiLEGAL từ 0.22 đến
0.46, với sự tăng tăng lên từ 1.5% đến 1%. Ảnh hưởng thì không có ý nghĩa cho
tất cả giá trị của TURNOVER. Đối với các nền kinh tế mới nổi, ảnh hưởng của
lạm phát mục tiêu thì không có ý nghĩa với tất cả các giá trị LEGAL.Tuy nhiên,
tác động này ngược chiều có ý nghĩavớiTURNOVER lớn hơn hoặc bằng 0.13.
Những ảnh hưởng này dao động từ -0.9% khi TURNOVER bằng 0.13%và lên tới
-4.3% khi TURNOVER bằng 1. Do đó, đa số những nền kinh tế phát triển với sự

độc lập của ngân hàng trung ương thấp, nhờ lạm phát mục tiêu, có tăng trưởng
cao hơn so với các cơ chế khác; trong khi đa số các nền kinh tế mới nổi với sự
độc lập của ngân hàng trung ương thấp trải qua sự tăng trưởng thấp hơn. Chú ý
rằng HIGHINF vẫn được đưa vào trong tính toán để so sánh dễ dàng hơn với các
nghiên cứu trước cũng bao gồm biến số này và bởi vì lạm phát cao thực sự có thể
ảnh hưởng đến tăng trưởng.
Bảng 9 trình bày kết quả từ sự ước lượng phương trình (1) với biến động
của sự tăng trưởng như một biến phụ thuộc. Đối với mẫu đầy đủ, lạm phát mục
tiêu có tác động nhỏ, ngược chiều có ý nghĩa với giá trị rất thấp của TURNOVER.
Đối với những nền kinh tế phát triển, lạm phát mục tiêu có tác động nhỏ, ngược
chiều có ý nghĩa với các giá trị tương đối nhỏ của LEGAL. Đối với các nền kinh
tế mới nổi, không có ảnh hưởng bất kể giá trị của LEGAL hoặc TURNOVER.
21
3.1 Chi tiết về lạm phát ở các nền kinh tế mới nổi:
Các hệ số lớn của IT, TURNOVER và IT*TURNOVERở cột (6) của bảng 6
cho thấy rằng các quan sát lạm phát cao có thể ảnh hưởng mạnh đến kết quả, mặc
dù bao gồm cả biến giả về lạm phát cao (HIGHINF). Trong phần tiếp theo đây,
chúng tôi tập trung chú ý đến việc dùng TURNOVER làm thước đo của tính độc
lập của ngân hàng trung ương bởi vì những phân tích trước đó, chúng tôi không
tìm thấy bằng chứng cho thấy rằng lạm phát mục tiêu ảnh hưởng đến lạm phát
khi sử dụng LEGAL - không chắc chắn phản ảnh chính xác ảnh hưởng của tính
độc lập của ngân hàng trung ương với các nền kinh tế mới nổi. Ở bảng 10, chúng
tôi đã biểu diễn kết quả bỏ đi các quan sát với lạm phát lớn hơn 100% hoặc 40%.
Việc bỏ đi lạm phát cao hơn 100% (40%) cho kết quả thiếu 23(56) quan sát. Kết
quả là, nhìn chung giống nhau nhưng ý nghĩa thấp hơn các báo cáo ở bảng 5 và
bảng 6. Cụ thể, ở cột (1) nơi chúng tôi hạn chế lạm phát bé hơn 100% , hệ số của
IT*TURNOVER là không có ý nghĩa, mặc dù chúng tôi vẫn tìm thấy rằng ảnh
hưởng toàn bộ của lạm phát mục tiêu là không tốt và ý nghĩa của TURNOVER là
lớn hơn hoặc bằng 0,25. Mức độ của ảnh hưởng dự đoán vào lạm phát khi
TURNOVER bằng 0,25 là -1,4%. Ảnh hưởng này tăng khi TURNOVER tăng đến

cực đại -8.6% khi TURNOVER bằng 1.
Khi chúng tôi hạn chế lạm phát bé hơn 40% ở cột 2, hệ số
IT*TURNOVER thì lại âm nhưng không có ý nghĩa. Hơn nữa, ảnh hưởng của lạm
phát mục tiêu là nhỏ và không có ý nghĩa cho tất cả giá trị của TURNOVER. Điều
này gợi ý rằng các quan sát lạm phát cao có ảnh hưởng mạnh vào kết quả. Điều
này thì không gây ngạc nhiên, dựa vào điều chúng tôi tìm thấy trong hàm hồi quy
những ảnh hưởng mạnh nhất của lạm phát mục tiêu ở các quốc gia có ngân hàng
trung ương có tính độc lập thấp có tỷ lệ lạm phát cao trước khi lạm phát mục tiêu
được chấp nhận. Như các tranh luận sau này, tỷ lệ lạm phát cao thì có khả năng
cao nhất là kết quả của sự thâm hụt tài chính tiền tệ, mà xảy ra ở môi trường ngân
hàng trung ương có tính độc lập thấp. Loại trừ những đoạn này, do đó chuyển từ
ví dụ tiêu biểu đến quan sát vào lạm phát mục tiêu mà hiệu quả cao nhất.
22
3.2 Kiểm định tính chắc chắn:
Chúng tôi tiến hành một vài kiểm định để kiểm tra tính chắc chắn kết quả
của chúng tôi. Từ bảng 6 đến bảng 10, chúng tôi đã coi lạm phát mục tiêu như
được định trước. Tuy nhiên, có những nguyên nhân trái ngược từ tình hình kinh
tế vĩ mô yếu kém như lạm phát cao tác động đến việc thông qua lạm phát mục
tiêu. Hoặc là, một biến số bị bỏ qua có thể ảnh hưởng cả tình hình kinh tế vĩ mô
và sự thông qua lạm phát mục tiêu. Tương tự, tình hình kinh tế vĩ mô có thể thay
đổi tính độc lập của ngân hàng trung ương hoặc 1 biến số bị bỏ qua có thể ảnh
hưởng đến cả tính độc lập của ngân hàng trung ương và thi hành kinh tế vĩ mô.
Như kiểm định tính chắc chắn đầu tiên, chúng tôi đánh giá lại mô hình xem xét
biến IT và cả biến IT và biến CBI như biến nội sinh. Các bảng luôn có sẵn những
thông tin được yêu cầu. Với lạm phát trung bình, kết quả thì gần giống hệt với
bảng 6. Với biến động lạm phát, một sự khác nhau duy nhất là ở các nước phát
triển, lạm phát mục tiêu không ảnh hưởng bất kể giá trị của biến LEGAL. Đối
với tăng trưởng trung bình, kết quả khác rằng lạm phát mục tiêu có một tác động
ngược chiều có ý nghĩa với giá trị thấp của biến LEGAL. Đối với tăng trưởng
không đều, kết quả thì gần như rõ ràng. Vậy, đối với nhiều phần, kết quả thì

tương tự với việc đưa vào tính toán biến nội sinh có thể của biến IT và cả biến IT
và biến CBI.
Thứ hai, lạm phát trễ và TURNOVER thì tương quan dương. Mặc dù,
chúng tôi tính đến lạm phát trễ như một hàm hồi quy, chúng tôi bỏ qua biến
tương tác IT*INFLt-1 trong tiêu chuẩn hồi quy. Điều này có thể gây ra 1 xu
hướng đi xuống của hệ số ước tính của biến IT*TURNOVER, bởi vì việc thông
qua lạm phát mục tiêu có thể hiệu quả hơn trong việc làm giảm lạm phát khi mà
tỷ lệ lạm phát trễ cao (tức là, hệ số của biến IT*INFL
t-1
thì âm). Do đó, chúng tôi
tính đến biến IT*INFL
t-1
như là biến hồi quy bổ sung . Kết quả của hồi quy biến
lạm phát thì đã không thay đổi.
23
Thứ ba, chúng tôi dùn g ngày bắt đầu thay thế của sự thông qua lạm phát
mục tiêu của Goncalves và Salles (2008), mà khác không đáng kể so với Batini
và Laxton(2007), người mà chỉ phân loại 1 quốc gia đã thông qua lạm phát mục
tiêu sau khi hạ thấp tầm quan trọng của các mục tiêu khác (Mishkin, 2000) đến
lạm phát mục tiêu. Kết quả thì hầu như chính xác. Cuối cùng, chúng tôi nhận
thấy kết quả tương tự khi chúng tôi loại trừ biến giả cho lạm phát cao.
4. Các kênh:
Trong phần này chúng ta nghiên cứu các kênh thông qua đó, CBI thấp ở
các nền kinh tế mới nổi gia tăng hiệu quả của IT so với các chính sách tiền tệ
khác. Trong phần này, chúng tôi tập trung vào lạm phát trung bình. Chúng tôi cho
rằng CBI thấp có thể cho thấy việc thiếu các nhân tố nhất định làm cho một chính
sách tiền tệ hiệu quả hơn. Bởi vì việc thông qua lạm phát mục tiêu có thể thúc
đẩy sự phát triển của một số nhân tố (Batiniand Laxton, 2007; Friedmanand
Ötker-Robe, 2009; Mishkin,1999), có nhiều cơ hội cho sự cải thiện trong điều
kiện CBI thấp. Vì vậy, IT có thể ảnh hưởng mạnh mẽ hơn khi CBI thấp như là

một kết quả của “hiện ứng cải thiện”.
12

Đầu tiên, bản thân IT có thể thúc đẩy CBI. Cụ thể, bằng cách nhấn mạnh
khả năng của ngân hàng trung ương để kiểm soát lạm phát trong dài hạn và sự
mất khả năng trong sự tác động đến tăng trưởng dài hạn, IT có thể giảm áp lực
chính trị lên ngân hàng trung ương buột phải theo đuổi các chính sách tài khoa
mở rộng (Mishkin 1999). Do đó IT có thể làm giảm sự thay đổi thống đốc của
ngân hàng trung ương.
Tương tự, sự tự chủ pháp lý trong một số trường hợp được chấp nhận
đồng thời với việc thông qua IT (Batini and Laxton, 2007). Ví dụ, rất nhiều
12 Hầu như tất cả các kênh chúng tôi xem xét ở đây đều bị tác động bởi IT và mức độ độc lập của CBI.
Tuy nhiên chú ý là một kênh nào đó không bắt buột phải chịu tác động của IT. Ví dụ, nếu CBI tác động
đến biến X, mà X không chịu tác động của trực tiếp của IT nhưng làm IT hiệu quả hơn trong việc giảm
lạm phát, thì X vẫn được coi là một kênh mà thông qua đó CBI ảnh hưởng tới hiệu quả của IT, ta xem xét
X; Ngược lại, nếu IT làm giảm lạm phát thông qua kênh Y nhưng CBI lại không có tác động đến Y, thì Y
là một kênh để IT giảm lạm phát nhưng không phải kênh mà thông qua đó CBI tác động đến hiệu quả của
IT ta không xem xét Y.
24
quốc gia có áp dụng IT đã thông qua luật pháp cho phép ngân hàng trung ương
quyền được xác định lãi suất (Freedman và Ötker-Robe, 2010). Cho thấy rằng
cơ hội để gia tăng CBI là nhiều hơn khi CBI ban đầu còn thấp, do đó CBI thấp
cho phép IT gia tăng ảnh hưởng lên các chính sách tiền tệ. Sự thật, như đã được
báo cáo trong bảng 3, TURNOVER trung bình giảm từ 0,47 xuống 0,39 ở các
nước có CBI thấp sau khi áp dụng lạm phát mục tiêu, nhưng ngược lại, nó hầu
như không đổi ở các nước khác. Hàm hồi quy của chúng tôi cũng đã đưa kênh
này vào – biến tươnng tác IT*CBI. Tuy nhiên chúng tôi vẫn không thể tác biệt
được tác động của kênh này để xác định đọ lớn của nó.
Thứ hai, liên quan đến CBI, là sự quan trọng của kỷ luật tài khóa, vốn
đóng góp vào sự đáng tin cậy của bất kỳ một mẫu hình chính sách tài khóa nào

bằng cách giảm đi việc tài trợ thâm hụt ngân sách thông qua tạo tiền. Một lần
nữa, lạm phát mục tiêu cũng tạo ra lợi ích cho vấn đề này, gia tăng sự ổn định tài
chính thông qua việc nhấn mạnh mâu thuẫn của mục tiêu lạm phát thấp và kỷ
luật tài chính thấp (IMF, 2006). Tương tự, sự tham gia của chính phủ trong việc
ấn định tỷ lệ lạm phát giúp giữ vững chính sách tài khóa (Mishkin, 2000). CBI
thấp hầu như cung cấp điều kiện để tài chính công có thể dễ vượt ra ngoài tầm
kiểm soát do đúc tiền. Một lần nữa, lợi ích tăng thêm của IT hầu như có ý nghĩa
hơn khi CBI thấp. Bảng 3 cho thấy điều này; các nước có CBI thấp thâm hụt
ngân sách giảm mạnh sau khi áp dụng IT. Khi chúng tôi đưa thâm hụt ngân sách
(% GDP) vào hàm hồi quy cho chính nó, và tương tác với lạm phát mục tiêu, hệ
số của IT*TURNOVER trở nên nhỏ hơn và không có ý nghĩa (p-value = 0,34).
Điều này cho thấy rằng thâm hụt ngân sách ít hơn là một kênh thông qua đó IT
có thể làm giảm lạm phát tốt hơn ở các nước có CBI thấp.
Thứ ba, khả năng đô la hóa mở rộng làm thay đổi sự tác động của chính
sách tiền tệ và tạo ra các khó khăn đến việc thi hành IT (Mishkin 2003). Cụ thể,
một sự giảm sút trong lãi suất để làm gia tăng tổng cầu có thể có ảnh hưởng
ngược laii nếu nó làm giảm tỷ giá hối đoái. Cả IT và CBI có thể tác động đến
mức độ đô la hóa khi mà một chính sách tiền tệ đáng tin cậy có thể giảm nhu cầu
25
vay nợ đô la (IMF, 2006). Vì thế, đến một mức độ nào đó, sự độc lập của ngân
hàng trung ương thấp làm giảm khả năng đô la hóa, có nhiều cơ hội đô la hóa có
thể giảm đi sau khi áp dụng IT. Để phân tích khả năng đô la hóa, chúng tôi xem
tiền gửi ngoại tệ như là một phần của tổng tiền gửi của hệ thống ngân hàng trong
nước. Hệ số tương quan của biến này và TURNOVER là 0,14, cho thấy mối liên
hệ giữa hai biến. Tuy nhiên, việc đưa vào biến này và tương tác của nó với IT,
không thay đổi kết quả, cho thấy rằng đây không phải là một kênh mà thông qua
đó CBI ảnh hưởng đến tác động của IT.
Thứ tư, sự không hoàn chỉnh của thị trường tài chính tác động đến sự
thành công của IT thông qua việc giới hạn khả năng của ngân hàng trung ương
tác động đến lãi suất (IMF, 2006). Do nguyên nhân này, trong một số trường hợp,

việc thông qua IT đi cùng với sự điều khiển thận trọng và giám sát để củng cố hệ
thống tài chính. Sự cải cách tài chính xuất hiện ở nhiều nước có sử dụng IT, IT có
thể thành công hơn so với các mô hình khác, đặc biệt khi hệ thống tài chính chậm
phát triển vào ban đầu. Hơn nữa, CBI cao hơn có thể thúc đẩy sự phát triển của
hệ thống tài chính thông qua việc tạo ra tỷ lệ lạm phát thấp và thích hợp. Chúng
tôi sử dụng tỷ lệ vòng quay chứng khoán (tương quan với TURNOVER = -0,13)
và tỷ lệ mức vốn hóa thị trường chứng khoán trên GDP (tương quan với
TURNOVER = -0,17) để xem xét sự phát triển của hệ thống tài chính. Một lần
nữa, kết quả không thay đổi, cho thấy đây không phải một kênh mà thông qua đó
CBI tác động đến thành quả của lạm phát mục tiêu.
Thứ năm, CBI thấp cho thấy uy tín của ngân hàng trung ương thấp và
không có khả năng neo kỳ vọng lạm phát, cho thấy rằng IT có thể có ảnh hưởng
lớn hơn (Bernanke et al., 1999; Mishkin, 1999; Svensson,1997), ngược lại nếu
một ngân hàng trung ương đã có đủ uy tín, nó có thể không cần đòi hỏi thêm uy
tín neo lạm phát kỳ vọng khi áp dụng IT (Ball, 2010; Gonçalves và Salles,2008).
Một lần nữa, chúng tôi mong đợi thấy được ảnh hưởng mạnh mẽ hơn của IT ở
các quốc gia mà ngân hàng trung ương không được độc lập. Chúng tôi sử dụng
biến trễ lạm phát để xem xét uy tín của ngân hàng và khả năng neo kỳ vọng lạm

×