Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

Thực trạng hiệu quả huy động vốn tại ngân hàng NH&PTNN Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (459.75 KB, 79 trang )

Chương 1: Huy động vôn và vấn đề hiệu quả huy động vốn của
Ngân hàng thương mại.
1.1. Nguồn vốn của NHTM
1.1.1. Khái niệm
Vốn được coi là yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất đối với bất kỳ một
doanh nghiệp nào khi đi vào hoạt động. Đặc biệt là đối với các ngân hàng các
doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ. Có rất nhiều cách hiểu về vốn theo nhiều
khía cạnh khác nhau nhưng nhìn chung thì nguồn vốn của một ngân hàng
thương mại nói chung được hiểu như sau:
Các nhà kinh tế đưa ra định nghĩa về vốn của NHTM như sau:
Vốn của Ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do bản thân
Ngân hàng thương mại tạo lập hoặc huy động được, dùng để cho vay, đầu
tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.
Như vậy nguồn vốn là tất cả những gì có thể quy ra được thành những giá
trị tiền tệ mà một ngân hàng có được dưới bất kỳ hình thức nào và có thể vận
dụng nó vào hoạt động kinh doanh của ngân hàng tạo ra những lợi ích mà
ngân hàng mong muốn đều được gọi là nguồn vốn của ngân hàng.
Về thực chất, thì nguồn vốn của ngân hàng là một bộ phận thu nhập quốc
dân tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất phân phối và tiêu dùng, mà
người chủ sở hữu để thực hiện các mục đích khác nhau gửi vào ngân hàng.
Như vậy ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung và phân phối lại vốn dưới
hình thức tiền tệ, tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn, phục vụ kích thích
mọi hoạt động kinh tế phát triển.
1.1.2 Vai trò của nguồn vốn.
Nguồn vốn của NHTM gồm hai nguồn chủ yếu: Vốn tự có và vốn huy
động. Mỗi loại có nội dung kinh tế, yêu cầu quản lý khác nhau.
_Vốn tự có: là nguồn tự có mà chủ ngân hàng sở hữu và sử dụng vào mục
đích kinh doanh theo luật định. Vốn tự có chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng
nguồn vốn của NHTM song nó lại là yếu tố cơ bản đầu tiên quyết định sự tồn
tại và phát triển của một ngân hàng. Mặt khác, với chức năng bảo vệ vốn tự
có được coi như tài sản bảo đảm gây long tin đối với khách hàng, duy trì khả


năng thanh toán trong trường hợp ngân hàng gặp thua lỗ. Vốn tự có cũng là
căn cứ để tính toán các hệ số đảm bảo an toàn và các chỉ tiêu tài chính trong
họat động kinh doanh ngân hàng.
_Vốn huy động của NHTM: là những giá trị tiền tệ mà các ngân hàng huy
động được trên thị trường thông qua nghiệp vụ tiền gửi, tiền vay và một số
nguồn vốn khác. Bộ phận vôn huy động có ý nghĩa quyết định khả năng hoạt
động của mỗi NHTM.
1.2. Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại.
Đây là một trong những hoạt động quan trọng bậc nhất của hệ thống các
ngân hàng thương mại.Nó là cơ sở xác định và quyết định tới sự tồn tại và
phát triển của của ngân hàng, là một nghiệp vụ chứng tỏ vai trò của ngân hàng
trong hệ thống nền kinh tế.
1.2.1. Khái niệm huy động vốn
Theo cách nói truyền thống, một ngân hàng có hai lĩnh vực kinh doanh
nòng cốt: Huy động vốn và lựa chọn các tài sản sinh lời để đầu tư các nguồn
vốn huy động được. Các ngân hàng luôn nỗ lực để tạo ra lợi nhuận từ hai lĩnh
vực kinh doanh này.
Huy động vốn là hoạt động thu hút nguồn tiền nhàn rỗi từ nền kinh tế
thông qua các hình thức tiết kiệm định kỳ, phát hành giấy tờ có giá và các
hình thức khác để tạo nguồn vốn cho vay của NHTM.
Hoạt động huy động vốn là một họat động cơ bản nhằm tạo ra tiền đề cho
các hoạt động còn lại của hoạt động. Nó quyết định quy mô, phạm vi hoạt
động và quy mô mở rộng tín dụng của ngân hàng; nó quyết định đến khả năng
thanh toán, chi trả và đảm bảo hoạt động cho ngân hàng trên thị trường và đặc
biệt nó quyết định đến năng lực cạnh tranh của NHTM trong nền kinh tế mở
cửa như hiện nay.
Hoạt động huy động vốn là một trong những họat động chủ yếu và quan
trọng nhất của NHTM.Hoạt động này mang lại nguồn vốn để ngân hàng có
thể thực hiện các hoạt động khác nhau như cấp tín dụng và cung cấp các dịch
vụ ngân hàng cho khách hàng. Nhìn vào bảng cân đối tài sản của NHTM,

chúng ta thấy rằng nghiệp vụ huy động vốn được phản ánh bên phần tài sản
nợ. Do đó, huy động vốn còn được gọi là nghiệp vụ tài sản nợ.
Đặc điểm của nguồn vốn huy động bao gồm những đặc điểm sau:
_ Quy mô của nguồn vốn huy động rất lớn so với các nguồn vốn khác.
Thông thường vốn huy động chiếm từ 70-80% tổng nguồn vốn là mục tiêu
tăng trưởng hàng năm của NHTM.
_ Bản chất của vốn huy động là tài sản thuộc các sở hữu khác nhau, ngân
hàng chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu, và phải có trách
nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi khi đến hạn hoặc khi khách hàng có nhu cầu rút
vốn để chi trả trước hạn. Vì vậy ngân hàng không được phép sự dụng hết số
vốn đó vào hoạt động kinh doanh mà phải dự trữ với một tỷ lệ hợp lý để đảm
bảo khả năng thanh khoản.
_ Đây là nguồn vốn phải dự trữ bắt buộc nên chi phí cho nguồn này
thường cao hơn so với các nguồn khác.Ngoài ra, cac ngân hàng phải mua bảo
hiểm tiền gửi cũng làm cho chi phí huy động cao hơn.
_ Nguồn vốn này thường nhạy cảm với những biến động của nền kinh tế
như lãi suất, tỷ giá, thu nhập, chu kỳ tiêu dùng và nhiều nhân tố khác.
_ Và đặc biệt sự thay đổi nguồn vốn huy động ngắn hạn sẽ làm thay đổi
cầu thanh khoản của ngân hàng.
Việc nhận thức đứng đắn vai trò của hoạt động huy động vốn sẽ giúp các
nhà quản trị ngân hàng đưa ra được các biện pháp, chiến lược mở rộng hay
thu hẹp để phù hợp với mục tiêu hoạt động của ngân hàng trong thời kỳ đó
như thế nào, mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho ngân hàng. Tuy nhiên, các nhà
quản trị ngân hàng cũng phải cân nhắc sao cho họat động đó đưa lại hiệu quả
cao nhất, tránh tình trạng ứ đọng không cần thiết.
1.2.2. Ý nghĩa của huy động vốn.
Ngân hàng là một trung gian tài chính, kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ thì
nguồn vốn lại càng đóng một vị trí vô cùng quan trọng, vì vốn là năng lực chủ
yếu quyết định đến khả năng, quy mô hoạt động của ngân hàng. Có vốn lớn
mới cho phép ngân hàng mở rộng các hình thức kinh doanh hay đa dạng hoá

các hoạt động kinh doanh, nâng cao chất lượng phục vụ và khả năng cạnh
tranh của ngân hàng, nó giúp ngân hàng giảm thiểu được rủi ro khi thực hiện
các hoạt động kinh doanh của mình, mặt khác khi ngân hàng có vốn lớn sẽ có
đủ khả năng tài chính để kinh doanh đa năng trên thị trường, thoát khỏi hình
thức kinh doanh đơn điệu, có quỹ dự trữ cần thiết tạo đà mở rộng quy mô
hoạy động tín dụng và đảm bảo khả năng thanh toán, chi trả của ngân hàng.
Do vậy có thể nói huy động vốn đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá
trình hoạt động kinh doanh của mỗi ngân hàng.
_ Đối với nền kinh tế, huy động vốn có vai trò khuyến khích tiết kiệm
bằng các biện pháp thu hút và huy động thông qua các dạng tài khoản khác
nhau trên một mạng lưới chi nhánh rộng khắp. Hoạt động vốn còn giúp cho
nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội được tập trung về một mối, thuận tiện cho
việc phân phối lại chúng, tránh tình trạng người thừa vốn thì không sử dụng,
người cần vốn thì lại không có.Khi nền kinh tế trong giai đoạn phát triển, huy
động vốn giúp cho nó phát triền nhip nhàng và hiểu quả hơn.
_ Đối với ngân hàng, nghiệp vụ huy động vốn góp phần mang lại nguồn
vốn cho ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh khác.Không có nghiệp
vụ huy động vốn, NHTM sẽ không đủ nguồn vốn tài trợ cho hoạt động của
mình.Huy động vốn càng nhiều thì ngân hàng càng có khả năng cung ứng vốn
kịp thời cho nền kinh tế, từ đó thúc đẩy tăng trưởng cũng như làm gia tăng lợi
nhuận cho ngân hàng. Mặt khác, thông qua nghiệp vụ huy động vốn NHTM
có thể đo lường được uy tín cũng như sự tín nhiệm của khách hàng đối với
ngân hàng. Từ đó NHTM có các biện pháp không ngừng hoàn thiện hoạt
động huy động vốn để giữ vững và mở rộng quan hệ với khách hàng.Như vậy,
chỉ với nguồn vốn huy động ngân hàng mới thực hiện tốt chức năng trung
gian tín dụng – chức năng quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng,
đồng thời cũng là cơ sở để ngân hàng thực hiện các chức năng khác.Có thể
nói, nghiệp vụ huy động vốn góp phần giải quyết “đầu vào” của ngân hàng.
_ Đối với khách hàng, nghiệp vụ huy động vốn cung cấp cho khách hàng
một kênh tiết kiệm và đầu tư nhằm làm cho tiền của họ sinh lời. Mặt khác,

nghiệp vụ huy động vốn còn cung cấp cho khách hàng một nơi an toàn để cất
giữ và tích trữ vốn tạm thời nhàn rỗi. Cuối cùng, nghiệp vụ huy động vốn
giúp cho khách hàng có cơ hội tiếp cận với các dịch vụ khác của ngân hàng,
đặc biệt là dịch vụ thanh toán qua ngân hàng và dịch vụ tín dụng khi khách
hàng cần cho sản xuất, kinh doanh hoặc cần tiền cho tiêu dùng.
_ Đối với nhà nước, hoạt động huy động vốn là một công cụ để NHNN
thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.Vì thế đẩy mạnh công tác huy động vốn
ở NHTM có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế.
1.2.3. Các hình thức huy động vốn
1.2.3.1. Huy động vốn thông qua nghiệp vụ tiền gửi.
Do nguồn vốn huy động là nguồn vốn cơ bản và quan trọng để ngân hàng
dùng vào hoạt động kinh doanh tiền tệ của mình, nên để đảm bảo đủ vốn cho
hoạt động kinh doanh có hiệu quả, đem lại lợi nhuận cao nhất và tăng khả
năng cạnh tranh, thì NHTM phải mở rộng các hình thức huy động vốn để tăng
nguồn vốn này.
Theo nghị định 59/2009/NĐ-CP ngày 16/7/2009 của chính phủ về tổ chức
và hoạt động của NHTM nhằm cụ thể hóa việc thi hành luật các TCTD,
NHTM được huy động vốn dưới các hình thức dưới đây:
Nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các TCTD khác dưới các hình
thức tiền gửi không kì hạn, tiền gửi có kì hạn và các loại tiền gửi khác.
Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy
động vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước khi được thống đốc
NHNN chấp thuận….
1.1.3.1 Huy động vốn thông qua nghiệp vụ tiền gửi.
Là khoản mục duy nhất trên bảng cân đối kế toán, chiếm tỉ trọng lớn nhất
70%-80% tổng số vốn huy động giúp phân biệt ngân hàng với các loại hình
doanh nghiệp khác. Huy động tư tài khoản tiền gửi bao gồm các loại sau:
Tiền gửi thanh toán
Tiền gửi thanh toán của doanh nghiệp hoặc cá nhân : đây là khoản tiền mà
khách hàng gửi vào ngân hàng nhờ ngân hàng dữ hộ và thanh toán hộ. Trong

phạm vi số dư cho phép, các nhu cầu chi trả của doanh nghiệp và cá nhân đều
được ngân hàng thực hiện. Các khoản thu của ngân hàng, cá nhân đều có thể
được nhập vào tiền gửi thanh toán theo yêu cầu. Nhìn chung đây là một khoản
huy động có lãi suất thấp, có khi bằng không, thay vào đó chủ tài khoản được
hưởng các dịch vụ ngân hàng với mức phí thấp.
Mặc dù, đối với người gửi thanh toán ,người gửi có thể gửi vào hoăc rút
ra bất cứ lúc nào, song giữa việc gửi vào và rút ra có sự chênh lệch nhất định
về thời gian và số lượng ,nên các loại tài khoản này luôn có số dư .Ngân hàng
có thể huy động số dư đó làm nguồn vốn tín dụng để cho vay. Một số ngân
hàng kết hợp tài khoản gửi tiền gửi thanh toán với tài khoản cho vay như cho
vay khấu chi – chi trội trên số dư có của tài khoản tiền gưi thanh toán .Một số
ngân hàng sử dụng nhiều hình thức “biến tướng”của tài khoản thanh toán để
nâng lãi suất của loại tiền gửi này lên nhằm cạnh tranh với các tài chính tín
dụng khác.
Do tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam còn quá thấp , để
khuyến khích việc thực hiện thanh toán qua ngân hàng, các NHTM thực hiện
trả lãi cho loại tiết kiệm này (hiện nay khoản 0.5% 1tháng ). Ở các nứớc phát
triển loại tiền gửi này chiếm khoảng 40% tiền gửi của các ngân hàng . Vì lẽ
đó ,tạo ngồn tiền gửi trên khoản tiền thanh toán này được ngân hàng đặc biệt
coi trọng.
Bên cạnh đó các ngân hàng có thể huy động vốn thông qua tài khoản tiền
gửi thanh toán của các ngân hàng khác,nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và
một số mục đích khác, NHTM có thể gửi tiền tại ngân hàng khác .Tuy nhiên,
quy mô của ngồn này thường lớn .
Tiền gửi có kỳ hạn
Tiền gửi có kì hạn là loại tiền gửi mà khách hàng được rút ra sau một thời
gian nhất định từ một vài tháng đến một vài năm(3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 1
năm, 3 năm, 5 năm…)
Nhiều khoản thu của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ chi trả sau
một khoảng thời gian nhất định .Tiền gửi thanh toán rất thuận tiện trong hoạt

động thanh toán song lãi suất lại thấp, để đáp ứng nhu cầu tăng thu của người
gửi tiền ngân hàng đã đưa ra hình thức tiền gửi có kỳ hạn .Tiền gửi có kỳ hạn
là loại tiền gửi được uỷ thác vào ngân hàng trên cơ sở có sự thoả thuận về thời
gian rút tiền gữa khách hàng và ngân hàng .Như vậy, ký theo nguyên tắc
khách hàng ký thác chỉ được rút tiền ra khi dến hạn thoả thuận .Tuy nhiên trên
thực tế do phải cạnh tranh để thu hút tiền gửi, các ngân hàng thường cho phép
khách hàng được rút tiền trước thời hạn. Trong trường hợp này có thể có hai
cách giải quyết : hoặc khách hàng vay tiền của ngân hàng, sau đó khi đến hạn
rút tiền và số tiền lãi thu được trả nợ (cả gốc và lãi vay của ngân hàng ); hoặc
là thoả thuận với khách hàng rút tiền ra trước hạn và nhận lãi thấp hơn.
Tiền gửi có kỳ hạn là một nguồn vốn tín dụng mang tính chất ổn định, vì
mục đích của người gửi là kiếm lời chứ không phải là để thanh toán . Do đó,
khác với loại tiền gửi không thời hạn yếu tố lãi suất tác động rất lớn đến loại
nguồn vốn này.
Để tăng cường huy động nguồn vốn này, trước hết các ngân hàng thường
đưa ra nhiều loại thời hạn khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu của các loại
khách hàng khác nhau. Thông thường có các loại kỳ hạn sau: 1 tháng,3 tháng,
6 tháng , 9 tháng, 12 tháng, 2 năm, 5 năm. Với mỗi loại thời hạn, ngân hàng
áp dụng mức lãi suất tương ứng, với nguyên tắc thời hạn càng dài thì lãi suất
càng cao.
Tiền gửi tiết kiệm
Tiền gửi tiết kiệm là tiền để dành của dân cư được gửi vào ngân hàng
nhằm mục đích hường lãi.
Ở các nước phát triển, trong các loại tiền gửi vào ngân hàng thì tiền gửi
tiết kiêm đứng thứ hai về măt số lượng. Tiền gửi tiết kiệm là khoản để rành
của cá nhân nhằm hưởng lãi suất theo định kỳ, loại tiền gửi này thường chiếm
tỷ trọng khá cao(Mỹ 25%, Việt Nam 60%-70% ). Tiền gửi tiết kiệm bao gồm
các loại :
_Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Hình thức này gần giống như huy động
tiền gửi không kỳ hạn. Tuy nhiên so với tiền gửi không kỳ hạn thì số dư của

phần này ổn định hơn, ít biến động hơn nên ngân hàng phải trả lãi suất cao
hơn Mặc dù, số dư trên tài khoản tiền gửi tiết kiệm không kig hạn của khách
hàng không lớn ( do chỉ được hưởng lãi suất ở mức thấp) nhưng nếu Ngân
hàng thu hút được số lượng khách hàng khá lớn thì tổng khối lượng vốn huy
động qua hinh thức tiền gửi này có thể trở nên lớn đáng kể.
-Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Đây là loại hình tiết kiệm phổ biến nhất,
quen thuộc nhất ở nước ta.Người gửi tiền gửi vào ngân hàng và rút ra sau
những thời hạn xác định: 3 tháng, 6 tháng Người gửi không được rút trước,
nếu rút trước hạn thì sẽ bị phạt.Đây là những khoản tiền có tính ổn định rất
cao nên ngân hàng phải trả khách hàng với lãi suất gần như là cao nhấtviệc
khách hàng rút ra trước thời hạn. Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay, để tăng sức
cạnh tranh, thu hút được vốn các ngân hàng đã rất linh hoạt trong việc khách
hàng rút ra trước thời hạn.Có ngân hàng thì tính lãi cho khách hàng với lãi
suất không kỳ hạn, có ngân hàng vẫn tính với lãi suất đó với sốngày gửi thực
tế
Tiền gửi tiết kiệm có thời hạn dài: Loại hình này khá phổ biến ở những
nước phát triển nhưng ở nước ta còn khá mới mẻ. Người gửi có thể gửi tiền
vào bất cứ lúc nào và chỉ được rút ra khi đến hạn ( thời hạn tương đối dài ).
Loại hình này giúp cho ngân hàng có nguồn vốn ổn định để có thể đầu tư
trung và dài hạn.
1.1.3.2. Huy động vốn thông qua phát hành giấy tờ có giá.
Giấy tờ có giá là chứng nhận của TCTD phát hành để huy động vốn,
trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời hạn nhất
định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa TCTD và người
mua.
Giống như các doanh nghiệp khác ngân hàng cũng huy động vốn bằng
cách phát hành các giấy tờ có giá trị (hay còn gọi lad các công cụ nợ) như kì
phiếu, trái phiếu, tín phiếu ngân hàng…để huy động vốn trên thị trường vốn.
Các công cụ nợ của ngân hàng là các giấy nhận nợ mà ngân hàng bán cho
công chúng . Đây là cách thức vay vốn của NHTM, bởi vì những người sở

hữu các công cụ này được hoàn trả vốn vào thời gian đáo hạn công thêm
khoản tiền lãi nhất định .
Nếu đối với các tài khoản tiền gửi phụ thuộc nhiều vào sở thích của khách
hàng thì việc sử dụng các công cụ nợ là một hình thức huy động vốn mang
tính chủ động của ngân hàng. Tuy nhiên việc khách hàng có chấp nhận mua
các công cụ nợ đó hay không mới là điều quan trọng. Nguồn vốn huy động có
được bằng việc phát hành các công cụ nợ sử dụng cho những khoản tín dụng
trong kế hoạch của ngân hàng. Với lãi suất tín dụng trong kỳ kế hoạch, ngân
hàng xác định mức lãi suất nhất định cho các công cụ nợ, hay đưa vào thời
hạn các khoản tín dụng trong kế hoạch mà ngân hàng xác định sử dụng loại
công cụ ngắn hạn hay trung – dài hạn. Thi trường chứng khoán ra đời phần
nào đã thúc đẩy được việc mở rộng hình thức huy động vốn của các NHTM
qua việc phát hành các công cụ nợ.
Các giấy tờ có giá do NHTM phát hành gồm kì phiếu, trái phiếu, chứng
chỉ tiền gửi có mệnh giá.
Trái phiếu
Trái phiếu là một chứng xác nhận một khoản nợ của ngân hàng phát hành
đối với người sở hữu, trong đó cam kết sẽ hoàn trả nợ kẽm lãi trong một thời
gian nhất định. Nó là công cụ nợ dài hạn của ngân hàng và thông qua việc
phát hành trái phiếu, ngân hàng có thể thu hút được nguồn vốn trung và dài
hạn để phục vụ cho những kế hoạch quy mô lớn và dài hạn. Trái phiếu được
phát hành với quy mô lớn, đồng loạt trên toàn hệ thống ngân hàng.
Trên mỗi tờ trái phiếu ngân hàng có sự xác định về các yếu tố: mệnh giá,
tên ngân hàng phát hành, thời hạn, lãi suất công bố khi phát hành và thời hạn
trả lãi. Sự hấp dẫn của trái phiếu ngân hàng là phần lãi cố định với tỷ lệ chi trả
trái tức xác định trên mỗi loại trái phiếu. Trấi phiếu có các loại ghi tên, không
ghi tên, trả lãi trước, trả lãi sau, có thể chuyện nhượng và thừa kế, có thể được
ngân hàng mua lại theo các thể thức chiết khấu. Hiện nay các nhà đầu tư quan
tâm đến trái phiếu chuyển đổi có khả năng chuyển đổi thành cổ phiếu thường
và điều này làm cho trái phiếu ngân hàng có tính hấp dẫn cao hơn.

Kỳ phiếu
Kỳ phiếu là chứng chỉ huy động vốn có ngắn hạn, có lãi suất tương ứng
với từng loại kỳ hạn hoặc phương thức trả lãi trước và sau. Kỳ phiếu được
ngân hàng phát hành từng đợt và có thời hạn linh họat, phong phú từ 3 tháng,
6 tháng…Nhằm mục đích huy động vốn trong dân cư, đáp ứng nhu cầu vốn
cho đầu tư sản xuất, cho một số chương trình dự án kinh tế hoặc kinh doanh
của ngân hàng.
Kỳ phiếu có đặc điểm là tính ổn định, tính tập trung và lãi suất cao hơn so
với tiền gửi có kỳ hạn, và được phép mua bán, chuyển nhượng, chiết khấu do
vậy ngân hàng có thể chủ động về mặt thời hạn và tính ổn định cho nguồn
vốn. Đồng thời ngân hàng cũng phải có chính sách huy động vốn linh hoạt để
đảm bảo nguồn vốn trong hoạt động kinh doanh ngắn hạn hay dài hạn.
Chứng chỉ tiền gửi
Chứng chỉ tiền gửi là công cụ vay nợ do Ngân hàng phát hành nhằm huy
động vốn trên thị trường với bản chất tương tự như 1 khoản tiền gửi có kì hạn,
theo đó người sở hữu được hưởng các khoản lãi suất định kì tính toán trên cơ
sở 360 ngày và được hoàn trả khi đến hạn.
Thời hạn của chúng chỉ tiền gửi rất đa dạng, có thể là 1 tháng, 3 tháng, 6
tháng, hoặc có thể đến 5 năm, 7 năm lãi suất của chứng chỉ tiền gửi được
Ngân hàng ấn định dựa trên lãi suất cạnh tranh của thị trường tiền tệ, tình
trạng tài chính của người phát hành và thời hạn của chứng chỉ.
Sự phát triển chủ yếu giữa chứng chỉ tiền gửi và các khoản tiền gửi có kỳ
hạn là chúng có thể chuyển nhượng và mệnh giá được thống nhất theo một
mức giá chuẩn. Điều này thể hiện rõ sự phát triển của một cộng cụ đã được
chuyên môn hóa nhằm mở rộng nguồn vốn mới.
Việc xuất hiện chứng chỉ tiền gửi cho phép các ngân hàng có thể huy
động vốn một cách chủ động mà không phải chủ động vào tiền gửi của khách
hàng.Khả năng chuyển nhượng tạo nên sự hấp dẫn hơn nhiều cho chứng chỉ
tiền gửi so với các hinhg thức huy động vốn khác, tạo điều kiện cho ngân
hàng có thể thích ứng với môi trường cạnh tranh mới.

1.2.3.3. Huy động vốn từ các TCTD khác và từ NHNN
Hình thức này ngày càng chiếm vai trò quan trọng trong môi trường
kinh doanh đầy biến động như hiện nay. Các ngân hàng thương mại có
thể vay từ nhiều nguồn:
a. Vay từ các tổ chức tín dụng
Đó là các khoản vay thông thường mà các ngân hàng vay lẫn nhau trên
thị trường liên ngân hàng hay thị trường tiền tệ. Các ngân hàng thường
xây dựng các mối quan hệ tốt để khi thiếu hụt vốn có thể vay lẫn nhau chứ
không vay ngân hàng trung ương.
b. Vay từ ngân hàng trung ương
Khi ngân hàng thương mại xảy ra tình trạng thiếu hụt dự trữ bắt buộc
hay mất khả năng thanh toán thì người cuối cùng mà các ngân hàng có thể
cầu cứu là ngân hàng trung ương. Ngân hàng trung ương cho vay dưới hình
thức tái chiết khấu thương phiếu.Các ngân hàng thương mại có thể mang các
thương phiếu lên ngân hàng trung ương để vay. Tuy nhiên việc vay này cũng
có một số khó khăn do ngân hàng trung ương chỉ cho ngân hàng thương mại
một hạn mức tái chiết khấu và việc cho vay này lại nằm trong định hướng của
chính sách tài chính quốc gia. Dẫu sao đây cũng là một hình thức bổ sung vốn
cho ngân hàng thương mại cực kỳ quan trọng trong những thời điểm nhất
định.
1.3. Hiệu quả huy động vốn và các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả
huy động vốn của NHTM.
1.3.1. Khái niệm về hiệu quả huy động vốn.
Hiệu quả huy động vốn được thể hiện ở khả năng đáp ứng cao nhất nhu
cầu sử dụng vốn của ngân hàng.Đó chính là sự đáp ứng kịp thời, đẩy đủ nhu
cầu sử dụng vốn với chi phí hợp lý.
Về phía xã hội : Để thực hiện được công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại
hóa đất nước, cần một lượng vốn rất lớn làm tiền đề vật chất, vốn để xây dựng
cơsở vật chất kỹ thuật , kết cấu hạ tầng, vốn để sản xuất kinh doanh.
Về phía ngân hàng, để có thể tiến hành kinh doanh có hiệu quả, đa dạng

các hình thức kinh doanh để nâng cao sức cạnh tranh và lợi nhuận ngân hàng
cần có một lượng vốn lớn huy động từ các nguồn trong nước.
Vốn trong nước phần lớn nằm trong các hộ gia đình dưới dạng tiết kiệm
dựphòng. Hơn nữa vốn của các tổ chức kinh tế xã hội không phải lúc nào
cũngđược sử dụng theo vụ mùa, theo chu kỳ kinh doanh của mỗi doanh
nghiệp.Do đólượng vốn nhàn rỗi trong khu vức này cũng rất là lớn. Nhiệm vụ
to lớn của mỗingân hàng là phải tập trung và thu hút các nguồn vốn lớn này
để đầu tư cho cáchoạt động sản xuất kinh doanh, các công trình kinh tế xã hội
biến chúng thànhnhững đồng vốn mang lại hiệu quả kinh tế xã hội.Để đạt
được điều đó thì ngân hàng phải có công tác huy động vốn phù hợpvà có hiệu
quả . Hiệu quả của công tác huy động vốn trong ngân hàng phải đượcđánh giá
qua các khía cạnh sau đây :Vốn huy động phải xuất phát từ nhu cầu kinh
doanh của ngân hàng . Vốnhuy động của ngân hàng phải có sự tăng trưởng ,
ổn định về số lượng để có thểthoả mãn các nhu cầu cho vay , thanh toán cũng
như hoạt động kinh doanh khácngày càng tăng của ngân hàng. Tuy nhiên vốn
huy động phải được ổn định vềmặt thời gian. Nếu ngân hàng huy động được
một lượng vốn lớn mà không ổnđịnh về măt thời gian , thường xuyên có một
dòng tiền lớn có khả năng bị rút rathì lượng vốn dành cho vay, cho đầu tư sẽ
không lớn Như vậy hiệu quả sử dụngsẽ không cao và ngân hàng phải thường
xuyên đối đầu với vốn để thanh khoản.Nhưng nếu ngân hàng huy động được
nguồn vốn ổn định thì ngân hàng sẽ yêntâm sử dụng phần lớn vốn đó vào các
hoạt động có thu nhập cao . Nhưng nói nhưvậy không có nghĩa là nếu ngân
hàng thấy có nguồn vốn ổn định thì sẽ huy độnghết ngay hay ngựơc lại , mà
việc huy động vốn của ngân hàng phải xuất phát từnhu cầu thực tế của ngân
hàng về vốn. Nếu huy động được ít thì ngân hàng sẽkhông đáp ứng được nhu
cầu của khách hàng , Không đa dạng hoá được các hoạtđộng kinh doanh ,
không mở rộng cạnh tranh đựơc và sẽ bị mất hết khách hàng .Còn nếu huy
động nhiều mà không sử dụng hết thì vốn sẽ bị “ đóng băng “ khiến lợi nhuận
sẽ bị giảm sút , do vẫn phải trả lãi và các chi phí kèm theo như chi bảo quản ,
kế toán , kho quỹ mà không có khoản nào bù đắp lại .

Tóm lại, huy động vốn có hiệu quả là huy động vốn ổn định , vừa đủđáp
ứng nhu cầu kinh doanh của ngân hàng .
1.3.2 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả huy động vốn của NHTM.
Hoạt động huy động vốn của ngân hàng, được đánh giá là có hiểu quả khi
: quy mô, cơ cấu NVHĐ tăng trưởng ổn định và đủ lớn để tài trợ cho các nhu
cầu vốn của ngân hàng. Hiệu quả huy động vốn được đánh giá theo nhiều
khía cạnh khác nhau tùy theo mục đích nghiên cứu vì vậy các chỉ tiêu đánh
giá hiệu quả huy động vốn cũng nhièu loại khác nhau. Bài việt này tập trung
đánh giá hiệu quả huy động vốn dựa trên mối quan hệ giữa huy động vốn và
sử dụng vốn, khả năng sử dụng vốn và chi phí của đồng vốn. Vì vậy các chỉ
tiêu đánh giá hiệu quả huy động vốn là:
1.3.2.1. Quy mô NVHĐ và tốc độ tăng trưởng của NVHĐ
Quy mô nguồn vốn huy động là tổng khối lượng vốn huy động mà ngân
hàng huy động được trong một thời gian nhất định.
Quy mô nguồn vốn huy động của ngân hàng là một trong những chỉ tiêu
phản ánh hiệu quả huy động vốn của ngân hàng. Điều đó cho thấy ngân hàng
đã thành công khi thu hút được nhiều khách hàng biết tới ngân hàng, tin
tưởng và gửi tiền vào ngân hàng.
Trước khi thực hiện một chiến lược huy động vốn thì ngân hàng cần có kế
hoạc đề ra xem liệu nguồn vốn mà ngân hàng cần cho họat động kinh doanh
là bao nhiêu, liệu có mang lại lợi nhuận cho ngân hàng hay không.Tuy nhiên
trong điều kiện nguồn vốn khan hiếm như hiện nay thì quy mô NVHĐ càng
lớn trên cơ sở chi phí hợp lý phản ánh hiệu quả trong hoạt động huy động vốn
của ngân hàng. Quy mô nguồn vốn lớn cho phép ngân hàng đáp ứng nhu cầu
cho vay vốn của ngân hàng, đa dạng hóa danh mục đầu tư của mình để từ đó
giảm rủi ro, giảm chi phí phụ cho một đồng vốn huy động, tăng khả năng
thanh toán, khả năng cạnh tranh, Những lợi ích mà quy mô lớn mang lại cho
Ngân hàng khả năng sinh lời cao cũng như tăng vị thế ngân hàng trên thương
trường.
Nguồn vốn tăng trưởng ổn định về số lượng và thời gian: Đánh giá

qua mức độ tăng giảm nguồn vốn huy động và số lượng vốn huy động có kỳ
hạn . Nguồn vốn tăng đều qua các năm ( 1năm sau - trước > 0 ) đạt mục tiêu về
nguồn vốn đặt ra và có độ gia tăng đều đặn là nguồn vốn tăng trưởng ổn định .
Nguồn vốn có số lượng vốn kỳ hạn lớn chứng tỏ sự ổn định về thời gian của
nguồn vốn cao.
Nguồn vốn có khả năng đáp ứng cho các hoạt động kinh doanh của
ngân hàng :Đánh giá qua việc so sánh nguồn vốn huy động được với các nhu
cầu tíndụng , thanh toán và các nhu cầu khác để thấy nguồn vốn huy động đã
đáp ứnbao nhiêu. Ngân hàng phải vay thêm bao nhiêu để thoả mãn nhu cầu đó
Khi huy động với quy mô và cơ cấu hợp lí, Ngân hàng sẽ tạo lập được nguồn
vốn tăng trưởng có tính ổn định kết hợp với chi phí vốn huy động hợp lí sẽ tạo
điều kiện cho ngân hàng hoạt động hiệu quả.
Chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng trưởng của nguồn vốn huy động thường
được đánh giá quá:
Ý nghía:
Chỉ tiêu này đánh giá sự tăng trưởng của nguồn vốn huy động. Nếu tỷ lệ
này >100% cho thấy nguồn vốn huy động kì này tăng hơn so với kì trước,
chứng tỏ ngân hàng đã mở rộng quy mô hay nâng cao chất lượng công tác
huy động vốn.Có thể sử dụng chỉ tiêu này đề đánh giá, so sánh với tốc độ tăng
nguồn vốn của các chi nhánh khác trong cùng hệ thống một ngân hàng, hoặc
so sacnhs với các ngân hàng khác trong cả nước.
1.3.2.3 Cơ cấu huy động vốn.
Cơ cấu NVHĐ ảnh hưởng đến cơ cấu tài sản và quyết định chi phí của
ngân hàng.Cơ cấu huy dộng vốn phải phù hợp vói cơ cấu sử dụng. Nếu cơ cấu
NVHĐ không phù hợp, không đáp ứng được yêu cầu sử dụng thì sẽ không tối
đa được dư nợ tín dụng và đầu tư, ngược lại cơ cấu huy động nhiều mà sử
dụng không hết thì hoạt động không hiệu quả, ngân hàng vẫn phải chịu lãi
suất trên phần huy động thừa. Nhìn chung, cơ cấu vốn được xem là hợp lý
nếu các thành phần của nó đáp ứng được kế hoạch sử dụng vốn, đồng thời với
chi phí biến động thấp nhất. Ngân hàng có thể huy động vốn với nhiều hình

thức khác nhau nhưng NVHĐ ổn định nhất vẫn là nguồn vốn huy động từ tiền
gửi tiết kiệm của dân cư, do đó nguồn vốn của ngân hàng được coi là ổn định
khi nguồn huy động từ tiền gửi tiết kiệm của dân cư chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng nguồn vốn, ít nhất là 50%. Bên cạnh đó thì ngân hàng cũng cần phát
triển nguồn huy động từ tiển gửi thanh toán vì nguồn này mặc dù không ổn
định nhưng có chi phí thấp và mang lại lợi nhuận cho ngân hàng thông qua
dịch vụ thanh toán hộ. Còn nếu xét về mặt thời gian thì nguồn vốn của ngân
hàng được coi là ổn định khi nguồn vốn trung và dài hạn chiếm tỷ trọng lớn
bởi vì ngân hàng có thể mang nguồn vốn trung dài hạn đi đầu tư trung và dài
hạn gặp nhiều rủi ro và ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động huy động vốn. Nếu
ngân hàng thu hút được một lượng vốn đủ lớn nhưng lại thường xuyên không
ổn định, thường xuyên có những dòng tiền lớn bị rút ra thì lượng vốn danhd
cho đầu tư cho vay sẽ không lớn, hiệu quả huy động không cao, thường xuyên
đối đầu với vấn đề thanh khoản. Khi huy động với quy mô và cơ cấu hợp lý,
ngân hàng sẽ tạo lập được nguồn vốn tăng trưởng có tính ổn định kết hợp với
chi phí vốn huy động hợp lý sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng họat động hiệu
quả.
Chỉ tiêu cơ cấu nguồn vốn được đánh giá thông qua chỉ tiêu:
Chỉ tiêu này phản ánh nguồn vốn nào mà ngân hàng huy động được nhiều
nhất, ít nhất.Từ đó ngân hàng tìm ra được nguyên nhân và biện pháp để đựa ra
cơ cấu huy động hợp lý nhất.
1.3.2.3. Chi phí huy động vốn.
Chi phí huy động vốn là toàn bộ chi phí ngân hàng bỏ ra để được hưởng
quyền sử dụng một đồng vốn trong một thời gian nhất định.
Chi phí huy động bao gồm hai phần: Chi phí trả lãi ( trả lãi huy động) và
chi phí phi lãi ( chi phí tiền lương cho cán bộ huy động vốn, chi phí cơ sở vật
chất, chi phí marketing, quảng cáo, in ấn…)
Trong đó, lãi suất huy động luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của các chủ
thể kinh tế: Người gửi tiền luôn muốn lãi suất cao, còn người vay tiền lại
muốn lãi suất vay thấp. Là trung gian đóng vai trò cầu nối giữa người gửi tiền

và người vay tiền, NHTM cần đảm bảo đa dạng hóa lợi ích các bên, trong đó
quan trọng nhất là đảm bảo lợi ích cho ngân hàng.
Công tác huy động vốn của ngân hàng được đánh giá là có chất lượng và
hiệu quả cao vè phương diện chi phí khi nó đạt được các yêu cầu sau:
_ Tìm kiếm được nguồn vốn chi phí thấp nhất để đáp ứng nhu cầu cho
vay và đầu tư trong khi vẫn thỏa mãn các yêu cầu tương xứng giữa huy động
vốn và sử dụng vốn về phương diện quy mô, tính ổn định.
_ Tăng lợi nhuận cho ngân hàng mà không nhất thiết là phải chấp nhận
những rủi ro cao do sức ép tăng chi phí vốn. Lợi nhuận của ngân hàng về cơ
bản sẽ bằng tổng thu nhập trừ đi tổng chi phí và thuế, do đó việc tăng lợi
nhuận bằng cách tăng thu nhập( thông qua việc đầu tư vào tài sản sinh lời cao
tương ứng với rủi ro cao) sẽ mạo hiểm hơn là cách quản lý hiệu quả chi phí
vốn. Việc xác định chi phí huy động vốn là việc làm rất hữu ích cho ngân
hàng để từ đó xây dựng chính sách kinh doanh có hiệu quả.
Hầu hết các ngân hàng xác định chi phí huy động vốn thông qua:
Chi phí bình quân gia quyền theo nguyên giá
Chỉ tiêu này phản ánh chi phí trả lãi cho một đồng vốn huy động của ngân
hàng.Đó là phương pháp sử dụng rộng rãi nhất.Phương pháp này chú trọng
vào cơ cấu hỗn hợp các nguồn vốn mà ngân hàng đã huy động trong quá khứ
và xem xét cẩn thận mức lãi suất mà thị trường đã áp đặt ngân hàng phải trả
cho mỗi nguồn vốn đi vay.
1.3.2.4. Hiệu quả sử dụng nguồn vốn huy động.
Hệ số biến động của NVHĐ
Ý nghĩa: chỉ tiêu này phản ánh sự cân đối giữa NVHĐ được với hoạt
động tín dụng, đầu tư của ngân hàng.
_ Nếu hệ số này > 1thì hiệu quả sử dụng vốn chưa cao, có thể diễn ra tình
trạng ứ đọng vốn hoặc ngân hàng phải điều chuyển vốn trong hệ thống với
mức lãi suất thấp hơn mức lãi suất ngân hàng trực tiếp cho vay và đầu tư.
Ngân hàng cần phải tìm ra nguyên nhân của tình hình đó để có biện pháp kịp
thời trong họat động giải quyết đầu ra cho NVHĐ được, tránh tình trạng lãng

phí, đồng thời phải thực hiện công tác huy động vốn một cách phù hợp với
nhu cầu của thị trường.
_Nếu hệ số này < 1thì hiệu quả hoạt động huy động vốn chưa tốt không
đáp ứng đủ nhu cầu của thị trường, ngân hàng cần có biện pháp tăng cường
huy động vốn, bên cạnh đó ngân hàng cũng cần phải kiểm tra dữ trữ, thanh
khoản của ngân hàng đề tránh rủi ro thiếu vốn khả dụng.
_Nếu hiệu số này = 1 cho thấy hiệu quả hoạt động huy động vốn đã đáp
ứng đủ nhu cầu thị trường. Đây là biểu hiện hoạt động có hiệu quả của ngân
hàng không chỉ trên mặt huy động mà còn trên mặt sử dụng vốn.
1.3.2.5. Sự phù hợp giữa huy động vốn và sử dụng vốn.
Họat động huy động vốn của NHTM không thể tách rời với hoạt động sử
dụng vốn và hoạt động sử dụng vốn là mục tiêu của hoạt động huy động
vốn.NHTM huy động vốn bằng nhiều hình thức với các kì hạn khác nhau.Tuy
nhiên tính tự chủ của NHTM đối với mỗi nguồn vốn có quan hệ tỷ lệ thuận
với chi phí trả lãi để có được quyền sự dụng nguồn vốn đó.Một chiến lược
huy động vốn đúng đắn, phù hợp với kế hoạch sử dụng vốn trong từng thời kì
sẽ tạo điều kiện cho các ngân hàng đạt được mục tiêu lợi nhuận tối đa và tăng
trưởng nguồn vốn kinh doanh. Sự hài hòa giữa huy động vốn và sử dụng vốn
chính là công tác cân đối vốn giữa các ngân hàng. Đó là biện pháp nghiệp vụ,
là một công cụ quản lý của nhà lãnh đạo ngân hàng, thông qua bảng cân đối
vốn đã lập, các cán bộ ngân hàng xem xét, phân tích cơ cấu, tỷ trọng các
nguồn và từng khoản sử dụng để dự đoán nhu cầu vốn biến động trong tương
lai, từ đó có chính sách huy động vốn thích hợp.
Sự phù hợp giữa huy động vốn và sử dụng vốn phản ánh hiệu quả huy
động vón thông qua 3 khía cạnh sau:
_ Về quy mô: quy mô huy động vốn phải đủ lớn để đáp ứng các nhu
cầu về tín dụng, thanh toán cũng như các hoạt động kinh doanh khác của ngân
hàng.
_ Về kỳ hạn: Chính sách về kỳ hạn là tất cả các quy định của ngân hàng
ấn định các mức kỳ hạn thời gian, số lượng, mức độ nhât định của mỗi loại

nguồn vốn , mỗi hình thức huy động vốn và các hoạt động kinh doanh khác
của ngân hàng trong hệ thống các chính sách của ngân hàng nhằm đạt được
các mục đích đã đề ra của ngân hàng.
Thông thường các ngân hàng vẫn sử dụng một phần nguồn vốn ngắn hạn
để đầu tư vào tài sản có thời hạn dài hơn, nhưng ở một tỷ lệ nhất định vì nếu
lớn hơn nữa thì tưc là sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn thì đến một
thời điểm nào đó các ngân hàng phải chịu sức ép về khả năng thanh toán.
Ngược lại nếu ngân hàng sử dụng nguồn vốn dài hạn để cho vay ngắn hạn thì
khó đảm bảo chênh lệch lãi suất và không hiệu quả vì nguồn vốn dài hạn có
chi phí huy động cao hơn, trong khi cho vay ngắn hạn thường có lãi suất thấp
hơn cho vay trung dài hạn.
Do đó, dựa vào mô hình cấu trúc kỳ hạn giúp ngân hàng phân tích sự phù
hợp giữa nguồn vốn và sử dụng vốn. Qua đó, ngân hàng điều chỉnh cơ cấu
nguồn vốn và danh mục tài sản để nâng cao hiểu quả huy động vốn, sử dụng
vốn, tăng doanh lợi, duy trì khả năng thanh toán.
_ Về lãi suất: Từ nền kinh tế tập trung chuyển sang nền kinh tế thị trường,
chính sách cho vay và các hoạt động cho vay là những vấn đề phức tạp. chính
sách lãi suất phải thực sự là đòn bẩy kinh tế khuyến khích sự phát triển chung
của nền kinh tế, đồng thời phải là công cụ đấu tranh chống cho vay nặng lãi
và hạn chế những tiêu cực trong hoạt động cho vay. Chúng ta biết hai chức
năng cơ bản của ngân hàng là nhận tiền gửi của khách hàng và cho khách
hàng vay vốn mặc dù các dịch vụ kinh doanh mà ngân hàng cung cấp cho
khách hàng rất đa dạng nhưng rõ ràng hoạt động kinh doanh chính của ngân
hàng vẫn là những hoạt động với vai trò như một trung gian tài chính, thanh
toán lãi suất cho phần tiền gửi của khách hàng và tính lãi suất đối với những
khoản tiền cho khách hàng vay.
Với lãi suất cho vay quá cao : Tạo ra sự ngưng đọng vốn do doanh nghiệp
không chịu được mức chi phí cao đó nên họ ngừng xin việc vay vốn. Trong
một khoản thời gian tương đối dài như vậy những biến động tiêu cực lẫn tích
cực, ngân hàng không thể dự đoán trước chắc chắn về khả năng sinh lời của

mình trong tương lai. Do đó, sẽ phát sinh hiện tượng vốn vẫn đọng trong két
của ngân hàng trong khi đó ở bên ngoài, các doanh nghiệp, hộ gia đình vẫn
đang cố tìm kiến những khoản vốn vay với mức chi phí tối thiểu. Bên cạnh
đó, ngân hàng vẫn phải thường xuyên phải trả lãi cho những khoản tiền gửi,
những khoản đi vay của mình. Vì vậy, lãi suất cho vay quá cao sẽ gây “ ách
tắc” trong hoạt động cho vay.
Lãi suất cho vay quá thấp : Xảy ra hiện tượng nhu cầu về các khoản vay
của các doanh nghiệp, hộ gia đình trở nên tăng. Với điều kiện nền kinh tế còn
nhiều biến động, tỷ trọng tiền gửi trung và dài hạn / Tổng nguồn vốn huy
động của các ngân hàng là thấp, ngân hàng phải tăng cường các hình thức huy
động vốn, “ đi vay để cho vay ” để có thể đáp ứng được phần nào nhu cầu vay
vốn trên. Chính vì vậy, hoạt động cho vay sẽ trở nên khó khan nếu một mắt
xích nào đó trong qú trình lưu chuyển vốn bị đứt hay đột ngột chững lại. Lúc
đó khả năng thanh toán của ngân hàng sẽ không thể đáp ứng, gây lên phản
ứng lan truyền “ khủng hoảng ngân hàng” và mất đi độ tín nhiệm của khách
hàng đối vớí ngân hàng đó.khách hàng vay
1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả huy động vốn.
Trong cả môi trường tự nhiên và xã hội, mỗi sự vật, hiện tượng đều có
những tác động đến sự vật, hiện tượng khác và đồng thời cũng phải chịu
những tác động ngược trở lại.Việc huy động vốn của các ngân hàng cũng
vậy.Vấn đề đặt ra cho chúng ta là phải nhận thức được những yếu tố tác động
đến việc huy động vốn.Những tác động này rất phong phú, đa dạng.Dựa vào
bản chất của các tác động ta chia các yếu tố đó thành những yếu tốkhách quan
và các yếu tố chủ quan.
1.3.3.1. Yếu tố khách quan
Đây là các yếu tố mà khi tác động đến ngân hàng sẽ không thể chống
được, đó là các rủi ro không thể tránh.Ngân hàng chỉ có thể nhận thức, dựbáo
và tìm cách giảm thiểu các rủi ro khi nó xảy ra.
Pháp luật, chính sách của Nhà nước
Pháp luật được đặt ra là để điều chỉnh mọi quan hệ xã hội. Do vậy tất cả

mọi hoạt động của ngân hàng đều chịu sự điều chỉnh của luật pháp. Cụ thểlà
Luật các tổ chức tín dụng (1997), Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và
công ty tài chính (1990), Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam (1998), các văn
bản pháp luật khác như: chỉ thị, thông tư Lĩnh vực hoạt động của ngân hàng
là vô cùng quan trọng trong nền kinh tế, vì vậy các hoạt động của ngân hàng
luôn được Nhà nước quản lý chặt chẽ bằng các văn bản pháp quy. Mỗi văn
bản đều có ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động của Ngân hàng, cụ thể là hoạt
động huy động vốn.Chính phủ đề ra chính sách tiền tệ quốc gia và hệ thống
ngân hàng là công cụ đắc lực để thực hiện. Chẳng hạn khi nền kinh tế lạm
phát tăng, Nhà nước có chính sách thắt chặt tiền tệ bằng cách tăng lãi suất tiền
gửi để thu hút tiền ngoài xã hội thì lúc đó ngân hàng thương mại huy động
vốn dễ dàng hơn.Hoặc khi Nhà nước có chính sách khuyến khích đầu tư, mở
rộng sản xuất thì ngân hàng khó huy động vốn hơn vì người có tiền nhàn rỗi
họ bỏ tiền vào sản xuất có lợi hơn gửi ngân hàng
Các quy định của pháp luật đòi hỏi các ngân hàng thương mại luôn phải
tuân thủ.Pháp luật quy định số tiền huy động của ngân hàng không được lớn
hơn 20 lần vốn chủ sở hữu.Hay thông qua tỷ lệ dự trữ bắt buộc chính phủđiều
chỉnh việc cung ứng tiền cho nền kinh tế. Việc điều chỉnh tỷ lệ dự trữbắt buộc
hay lãi suất tái chiết khấu là tuỳ theo định hướng phát triển của từng thời kỳ.
Các chính sách đầu tư, ưu đãi, ưu tiên phát triển mũi nhọn cũng ảnh hưởng
sâu sắc tới việc huy động vốn của ngân hàng thương mại. Nói chungbất cứ
ngân hàng thương mại nào khi cần huy động vốn đều phải xem xét cácquy
định của luật pháp.
Tình hình chính trị – kinh tế – xã hội
Có thể nói đây là yếu tố khách quan đối với tất cả các ngành nghề kinh tế,
không riêng gì ngân hàng.Sự ổn định chính trị cả trong và ngoài nước có tác
động rất rõ. Các cuộc bãi công, biểu tình, sụp đổ chính phủ luôn kéo theotình
trạng huy động vốn của ngân hàng bị trì trệ bởi người dân không còn tin
tưởng. Ngược lại, sự đồng tâm, nhất trí, ổn định trong bộ máy lãnh đạo sẽlàm
cho các ngân hàng thương mại huy động vốn được dễ dàng.Như Achentina

năm 2002, sau khi có những vấn đề về chính trị, người dân kéo đến ngân hàng
rút tiền ồ ạt làm cho cả hệ thống ngân hàng chao đảo.Và cuộc chiến Irac gần
đây cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới trong đó có sựkhó khăn về huy
động vốn của ngân hàng thương mại.Nền kinh tế ở vào trạng thái tăng trưởng
hay suy thoái đã tác động tới việc huy động vốn của ngân hàng. ở tình trạng
tăng trưởng, người dân cần nhiều vốn để đầu tư mở rộng quy mô, trang thiết
bị. Các ngân hàng phải huy động nhiều vốn và càng có điều kiện để huy động
do tích lũy được nhiều hơn.Ngược lại ở tình trạng suy thoái, sản xuất đình trệ,
đầu tư bị thu hẹp, ngân hàng huy động vốn khó khăn.
Tâm lý, thói quen tiêu dùng của người gửi tiền
Tập quán tiêu dùng của người dân có tầm ảnh hưởng rất quan trọng đối
với việc huy động vốn của ngân hàng. Rõ ràng ở những vùng, người dân
thường có thói quen gửi tiền vào ngân hàng thì ngân hàng sẽ huy động được
dễ dàng hơn nhiều ở những vùng người dân thường hay cất trữ tiền trong nhà
bằng vàng, bất động sản Đồng thời ngay thói quen thanh toán khi mua hàng
hoá cũng góp phần làm tăng hay giảm nguồn vốn huy động của ngân hàng.Ở
nhiều nước phát triển, việc thanh toán không dùng tiền mặt là phổ biến, hầu
như người dân nào cũng có tài khoản trong ngân hàng và ngân hàng là cái gì
đó không thể thiêú trong cuộc sống. Ngược lại, ở một số nước, thói quen
thanh toán bằng tiền mặt vẫn còn ăn sâu thì nguồn vốn huy động của ngân
hàng sẽ gặp khó khăn. Các tập quán tiêu dùng này khó có thể được thay đổi
ngay một sớm một chiều. Do đó để mở rộng nguồn huy động, các ngân hàng
phải nỗ lực hết mình: cải cách quy trình, thủ tục, phát triển chính sách khách
hàng
Một trong những đặc tính của cộng đồng dân cư đó là tính lan truyền
nhanh chóng. Cuộc đổi tiền năm 1985 – 1986 với tốc độ lạm phát chóng mặt
600-700 % đã khiến người gửi tiền kéo ồ ạt đến ngân hàng để rút. Điều này
đã kéo theo sự sụp đổ của hơn 7500 quỹ tín dụng nhân dân và làm cả hệthống
ngân hàng lao đao. Đồng thời gần đây các vụ bê bối, tham nhũng liên quan
đến các ngân hàng như dệt Nam Định, vụ Tamexco, Minh Phụng- Epco đã

làm suy giảm uy tín của các ngân hàng trong con mắt của người gửi tiền. Nó
không tạo cho người gửi tiền cảm giác an toàn và nó đã làm hạn chếkhả năng
hoạt động của các ngân hàng.
Một trong những lý do nữa là người dân chưa hiểu biết nhiều về các hoạt
động của ngân hàng, các tiện ích mà ngân hàng có thể cung cấp. Điềunày đòi
hỏi các ngân hàng phải tăng cường tuyên truyền sâu rộng, quảng cáo, quảng
bá về các hoạt động của mình, các lợi ích của người gửi tiền cũng như các thủ
tục cần thiết.
1.3.3.2 Các nhân tố chủ quan
Chính sách lãi suất huy động của Ngân hàng
Chính sách lãi suất huy động là yếu tố hàng đầu được khách hàng quan
tâm khi có nhu cầu gửi tiền vào Ngân hàng. Vì vậy, để thu hút được nguồn
vốn nhằm đáp ứng nhu cầu của mình các Ngân hàng cần có chính sách lãi
suất huy động hợp lý để vừa kích thích người gửi tiền vừa đảm bảo phù hợp
với lãi suất cho vay và đảm bảo hoạt động của Ngân hàng có hiệu quả.
Lãi suất huy động ảnh hưởng rất lớn đến công tác huy động vốn của Ngân
hàng. Chính vì vậy, Ngân hàng phải có đưa ra những chính sách lãi suất linh
hoạt phù hợp với lãi suất thị trường đảm bảo quyền lợi cho người gửi tiền thì
nó là đòn bẩy mạnh mẽ thu hút các nguồn tiền nhàn rỗi vào Ngân hàng và
ngược lại khi đưa ra mức lãi suất huy động quá thấp thì người gửi tiền sẽ lựa

×