Tải bản đầy đủ (.docx) (111 trang)

Về việc dịch các từ ngữ có tính ẩn dụ liên quan đến hình tượng người anh hùng, quân tử trong một vài tác phẩm thơ Đường từ tiếng Hán sang tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (628.61 KB, 111 trang )

I HC QUC GIA H NI
TRNG I HC KHOA HC X HI V NHN VN



PHM TH KIM THU


Về VIệC DịCH CáC Từ NGữ Có TíNH ẩN Dụ
LIÊN QUAN ĐếN
HìNH TƯợNG NGƯờI ANH HùNG, QUÂN Tử
TRONG THƠ ĐƯờNG
Từ TIếNG HáN SANG TIếNG VIệT




LUN VN THC S NGNH NGễN NG HC




1 1
H NI 2014
I HC QUC GIA H NI
TRNG I HC KHOA HC X HI V NHN VN



PHM TH KIM THU



Về VIệC DịCH CáC Từ NGữ Có TíNH ẩN Dụ
LIÊN QUAN ĐếN
HìNH TƯợNG NGƯờI ANH HùNG, QUÂN Tử
TRONG THƠ ĐƯờNG
Từ TIếNG HáN SANG TIếNG VIệT


LUN VN THC S
CHUYấN NGNH: NGễN NG HC
Mó s: 60 22 01


NGI HNG DN KHOA HC: PGS.TS NGUYN HU T
2 2

HÀ NỘI – 2014

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết và lý do chọn đề tài
Thơ Đường là một thành tựu rực rỡ của văn học đời Đường, văn học Trung
Quốc nói riêng hay văn học thế giới nói chung. Cho tới nay, ước tính có
khoảng 48900 bài thơ Đường của hơn 2300 tác giả.Thơ Đường vừa có bề
rộng, lại vừa có nội dung sâu sắc. Nhắc đến thơ Đường, chúng ta không thể bỏ
qua những tên tuổi nổi tiếng như: Lý Bạch, Đỗ Phủ, Vương Duy, Bạch Cư Dị,
Thôi Hiệu
Thơ Đường vừa có nét độc đáo, cổ điển lại vừa mang màu sắc Trung Quốc rõ
nét, thể hiện đầy đủ, tập trung ở nhiều thể loại thơ khác nhau. Không chỉ vậy,
thơ Đường còn mang ý nghĩa hiện đại. Trong thơ Đường, chúng ta bắt gặp
hình tượng người anh hùng, người quân tử đóng vai trò quan trọng trong nền

văn hoá Trung Quốc và là đề tài bất tận mang lại nguồn cảm hứng cho nhiều
tác giả. Cho tới nay đã có rất nhiều tác giả dịch thơ Đường có liên quan tới
mảng đề tài này, có thể kể ra như các bản dịch thơ Đường của các dịch giả
như: Phan Huy Vịnh, Ngô Thế Vinh, Nguyễn Công Trứ, Trương Minh Ký,
Nguyễn Khuyến
Ngôn ngữ trong thơ Đường trong sáng, tinh luyện, tiết kiệm ngôn từ
(bài ngắn nhất 20 chữ: ngũ ngôn tuyệt cú). Do đó thơ Đường rất súc tích, cô
đọng. Ít khi thơ chịu nói hết ý, và không nói trực tiếp, mà chỉ dựng lên hàng
loạt các mối quan hệ để cho độc giả tự suy luận, tức chỉ “vẽ mây” để “nẩy
trăng”, ý ở ngoài lời, ý đến mà bút không đến, bút dừng mà ý không dừng, lời
hết mà ý chưa hết…Cho nên để hiểu cặn kẽ thơ Đường là rất khó, nhất là hiểu
cho được hết ý nghĩa biểu trưng của các hình tượng. Do đó, việc nghiên cứu về
3 3
vấn đề chuyển dịch từ ngữ từ Hán sang Việt luôn là một việc làm thiết thực
của các nhà nghiên cứu.
Làm tốt công tác nghiên cứu dịch thuật từ Hán sang Việt cũng là cách đóng
góp ý nghĩa vào sự nghiệp xây dựng con người mới và nền văn hóa mới.
Không phải ngẫu nhiên mà chúng tôi chọn đề tài: Về việc dịch các từ ngữ có
tính ẩn dụ liên quan đến hình tượng người anh hùng, người quân tử trong
thơ Đường từ tiếng Hán sang tiếng Việt. Ai cũng biết rằng “xưa nay thơ càng
hay càng khó dịch. Vì cái hay của nguyên tác đa diện quá, đa dạng quá, sức
chứa phong phú quá, người dịch làm sao chuyển tải nổi. Đối với thơ Đường thì
việc dịch lại càng khó khăn hơn nhiều. Bởi đó phần nhiều là những bài thơ “ý
tại ngôn ngoại”, tình cảm sâu xa, diễn đạt bằng vài trang lời văn chưa chắc đã
hết, nói chi đến việc gói gọn trong vài dòng thơ tiếng Việt. Mặt khác cũng là
để nhìn nhận lại một trong rất nhiều cách tiếp nhận Đường thi ở Việt Nam –
cách tiếp nhận
của những người làm công tác dịch thuật”.
2.Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Trong Thơ Đường có rất nhiều tác giả mà tác phẩm của họ đã ghi lại dấu ấn

không thể phai mờ. Tuy nhiên do khuôn khổ hạn chế của một luận văn, chúng
tôi chỉ giới hạn phạm vi khảo sát tư liệu về những từ ngữ chỉ hình tượng người
anh hùng, người quân tử xuất hiện trong hai cuốn Đường Thi tuyển dịch của
tác giả Lê Nguyễn Lưu (Nhà xuất bản Thuận Hóa), cuốn
Đường Thi Tam Bách Thủ (Hành đường thoái sĩ, Trần Uyển Tuấn, Ngô Văn
Phú, Nhà xuất bản Hội nhà văn) và một số những bài thơ của các tác giả
Nguyễn Khuyến, Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh, Nguyễn Công Trứ…
3. Mục đích và nội dung nghiên cứu
Với mục đích tìm hiểu về vấn đề dịch các từ ngữ có tính ẩn dụ từ Hán sang
tiếng Việt liên quan đến hình tượng người anh hùng, người quân tử, luận văn
này bước đầu đi vào tìm hiểu, phân tích rõ hơn và các phương pháp chuyển
4 4
dịch từ ngữ từ Hán sang Việt. Đây là một đề tài mang tính liên ngành, hi vọng
đóng góp phần tìm hiểu rõ hơn về các tác phẩm thơ Đường.
Để đạt mục đích trên, nội dung nghiên cứu của luận văn gồm ba phần: 1. Cơ sở
lý luận phục vụ cho việc nghiên cứu, 2. Tìm hiểu vấn đề chuyển dịch ý nghĩa
từ ẩn dụ chỉ hình tượng người anh hùng, người quân tử từ tiếng Hán sang tiếng
Việt, 3. So sánh cách sử dụng từ ẩn dụ chỉ hình tượng người anh hùng, người
quân tử của một số tác giả Việt Nam.
4. Phƣơng pháp và tƣ liệu nghiên cứu
Để mô tả, phân tích và tiến hành tìm hiểu về vấn đề dịch các từ ngữ có tính ẩn
dụ từ tiếng Hán sang tiếng Việt liên quan đến hình tượng người anh hùng,
người quân tử, luận văn sử dụng phương pháp thống kê, mô tả, phân tích và
đối chiếu, lấy tiếng Hán làm ngôn ngữ nguồn, tiếng Việt làm ngôn ngữ đích.
Tài liệu mà luận văn sử dụng để phục vụ cho đề tài này là một số các tác phẩm
thơ Đường của những nhà thơ nổi tiếng đời Đường như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Đào
Uyên Minh, Vi Ứng Vật…Bên cạnh đó, luận văn cũng sử dụng các bản dịch
của một số dịch giả Việt Nam.
5.Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Ý nghĩa thực tiễn của đề tài là ở chỗ giúp ích việc chuyển dịch các tác phẩm

văn học. Từ đó nhằm đóng góp cho các nghiên cứu về mối quan hệ trong
ngôn ngữ và tư duy, quan hệ giao lưu văn hóa giữa hai dân tộc Việt Nam –
Trung Quốc.
6.Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, khóa luận gồm 3 chương:
- Chương I: Cơ sở lý luận
- Chương II: Vấn đề chuyển dịch từ ngữ từ Hán sang Việt (Có liên
quan đến hình tượng người anh hùng, người quân tử
trong thơ Đường)
5 5
- Chương III: Cách tiếp nhận ẩn dụ chỉ hình tượng người anh hùng,
người quân tử trong thơ Đường ở Việt Nam.
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Thơ và đặc điểm của ngôn ngữ thơ
1.1.1. Thơ là gì?
Trước khi đi vào tìm hiểu về ngôn ngữ thơ, chúng ta cần phải biết “thơ là
gì?”.Theo tác giả Hữu Đạt viết trong cuốn “Ngôn ngữ thơ ca Việt Nam” thì từ
trước tới nay, trong giới nghiên cứu và phê bình đã có rất nhiều định nghĩa
khác nhau về thơ. Theo ông, cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa nào đầy
đủ, hoàn hảo, phản ánh về thơ một cách bản chất nhất, đặc trưng nhất. Mỗi
định nghĩa mới chỉ đúng từ một góc độ, một phương tiện trên những quan
niệm khác nhau về thơ ca. Nhìn một cách khái quát, ông đã nêu ra mấy
khuynh hướng sau đây:
a. Khuynh hướng thần thánh hoá thơ ca. Khuynh hướng này cho thơ là
một cái gì đó thuộc về thần linh tối cao, do thượng đế sáng tạo rồi nhập vào
con người. Ở Việt Nam, một số nhà thơ của phong trào Thơ Mới chịu ảnh
hưởng của quan niệm này luôn coi thơ là những hình thức nguyện cầu để trở
về với Thượng đế.Sống trong xã hội đương thời, bế tắc, thi sĩ làm thơ coi thơ
chỉ là những lời than vãn, những tiếng kêu than xót xa khẩn cầu lên đấng tối

cao những nguyện ước của người sống trong cõi trần ai bất hạnh.
b. Khuynh hướng thứ hai là khuynh hướng hình thức chủ nghĩa khi định
nghĩa thơ ca. Khuynh hướng này tuy không duy tâm siêu hình nhưng lại lý
tưởng hoá thơ ca. Từ chỗ đề cao quá mức tới chỗ coi thơ ca là cõi vô biên
tuyệt đối, là cái nơi mà con người không thể vươn tới được.
Ở Việt Nam, Thanh Tâm Tuyền, một nhà thơ lãng mạn cũng đã từng nêu ra
quan điểm ấy. Thơ sẽ còn lại mãi mãi để nhắc nhở cho thời đại, cho lịch sử,
cho những người đang sống và những người kế tiếp rằng hành động
6 6
của họ chưa đạt tới đích do thơ ca phóng ra.
c. Khuynh hướng thứ ba là khuynh hướng quan tâm tới mặt phản ánh của
thơ, tới sự sáng tạo – hay là tính chất nghệ thuật độc đáo của thơ. Ví dụ, nhà
thơ Tố Hữu cho rằng “Thơ là biểu hiện tính chất của cuộc sống”. Xuân Diệu
thì quan niệm “Thơ là lọc lấy tinh chất, là sự phản ánh vào trong tâm tình”.
[11, tr.17]
Những quan niệm trên đây tuy đã đề cập tới mặt bản chất của thơ ca và đã nêu
được phần nào vai trò quan trọng của con người trong sự sáng tạo nghệ thuật.
Song về cơ bản vẫn chưa nêu được những đặc trưng riêng biệt của thơ ca với
các thể loại khác.
Hai phương thức cơ bản của ngôn ngữ thơ
Nhà văn Gooc-ki đã từng khẳng định “Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn
học”. Thơ là một thể loại của văn học, vậy không thể có thơ nếu không có
ngôn ngữ. Nói cách khác, trong thơ ngôn ngữ là yếu tố quan trọng nhất mà nếu
như thiếu nó thì thơ không còn lý do để tồn tại nữa.
Nhưng so với các thể loại khác như văn xuôi, kịch, thơ lại có những đặc điểm
ngôn ngữ riêng. Một trong những phương thức làm nên những đặc điểm ấy là
Phương thức tạo hình và phương thức biểu hiện.
Phương thức tạo hình của ngôn ngữ thơ
Bất cứ một tác phẩm nghệ thuật nào khi tồn tại cũng phải có hai mặt: Mặt phản
ánh (nói về đối tượng) và mặt biểu hiện (thể hiện sự sáng tạo của con người).

Hai mặt này bao giờ cũng gắn bó chặt chẽ với nhau và tồn tại không tách rời
với nhau. Tuy nhiên, do đặc trưng của từng thể loại, loại hình nghệ thuật, do
đặc điểm phong cách của từng nghệ sĩ, có khi mặt này hoặc mặt kia được nổi
lên vị trí hàng đầu, còn mặt còn lại thì bị đẩy xuống hàng thứ yếu.
Ví dụ, người ta thường gọi các ngành như hội hoạ, điêu khắc là các ngành
nghệ thuật tạo hình. Còn các ngành như nhảy múa, âm nhạc, văn học…là các
ngành nghệ thuật biểu hiện. Tất nhiên, chúng ta cần phải hiểu rằng, ngay trong
7 7
nghệ thuật vẫn có tính chất biểu hiện và ngược lại, trong ngành nghệ thuật
cũng có tính chất tạo hình. Có điều là, ở mỗi ngành nghệ thuật, chất liệu xây
dựng nên phương thức tạo hình là hoàn toàn khác nhau.
Chẳng hạn, để làm nên phương thức tạo hình thì các nhà nghệ sĩ ở ngành hội
hoạ phải dung màu sắc, ở ngành điêu khắc phải dùng ngôn ngữ. Cho nên, ngôn
ngữ chính là cái chất liệu mà các nhà thơ sử dụng để làm nên tính chất tạo hình
trong thơ.
Một đặc điểm nổi bật của phương thức tạo hình là phản ánh trực tiếp đối
tượng, nghĩa là miêu tả đối tượng như nó vốn có trong thực tế khách quan.
Một tác phẩm thơ ca có tính chất tạo hình là một tác phẩm đem đến cho người
đọc những bức tranh sinh động về cuộc sống, hiện thực và thực tế khiến người
ta có thể cảm nhận được. Muốn như vậy, nhà nghệ sĩ phải sử dụng hai thao tác
cơ bản là thao tác lựa chọn và thao tác kết hợp.Thao tác lựa chọn cho phép nhà
nghệ sĩ lựa chọn các yếu tố ngôn ngữ như là các bức tranh riêng lẻ về hiện
thực. Thao tác kết hợp cho phép nhà nghệ sĩ xây dựng những bức tranh chung
rộng lớn hơn bằng việc kết hợp những bức tranh riêng lẻ này lại với nhau theo
những quy luật nhất định. Tài năng của nhà nghệ sĩ được đánh giá ở chỗ, với
một số lượng hữu hạn các đơn vị ngôn ngữ, anh ta phải làm như thế nào đó để
tạo được những bức tranh vô hạn về thế giới khách quan cũng như về thế giới
nội tâm của con người.
Khi hoạt động với tư cách là chất liệu của ngành nghệ thuật tạo hình thì chức
năng định danh của ngôn ngữ sẽ nổi lên hàng đầu. Trong trường hợp này, tính

đa dạng về ngữ nghĩa, tính giàu có về mặt biểu tượng sẽ bị khử bỏ. [11, tr.18]
Phương thức biểu hiên trong ngôn ngữ thơ
Phương thức biểu hiện chính là việc khai thác các khả năng biểu hiện của các
đơn vị ngôn ngữ thông qua thao tác lựa chọn và thao tác kết hợp trong quá
trình tổ chức văn bản. Thao tác lựa chọn cho phép nhà nghệ sĩ lựa chọn một
đơn vịtrong một loạt các đơn vị có giá trị tương đương với nhau, có thể thay
thế nhau trên trục dọc. Thao tác kết hợp nhà nghệ sĩ, sau khi đã lựa chọn, có
8 8
thể tạo ra những kết hợp bất ngờ, sáng tạo dựa trên những tiền đề vật chất mà
ngôn ngữ dân tộc cho phép. [11,tr.19]
1.1.2. Ngôn ngữ và cấu tạo hình tượng thơ
Trong bộ môn lý luận văn học, hiện nay thuật ngữ “hình tượng” và “tính hình
tượng” vẫn chưa được hiểu một cách thống nhất. Ngay cả trong các công trình
nổi tiếng, nhưng khái niệm này cũng không được bàn đến một cách
thấu đáo.Vậy “hình tượng” là gì và “tính hình tượng” là gì?
Theo tác giả Hữu Đạt [11,tr. 32] thì “hình tượng” được hiểu theo hai nghĩa
rộng và hẹp. Theo nghĩa hẹp, “hình tượng” là cách biểu hiện làm cho lời nói
thêm cụ thể và có nhiều màu sắc. Các định nghĩa cổ truyền thường xác định
“hình tượng” là “sự phản ánh hiện thực một cách khái quát dưới hình
thức đơn lẻ”.
Nói như Goocki, “Hình tượng nghệ thuật…hầu như bao giờ cũng rộng hơn và
sâu hơn tư tưởng, nó hản ánh cuộc sống con người với cuộc sống tinh thần
nhiều hình nhiều vẻ cùng với tất cả những mâu thuẫn về tình cảm và ý chí của
nó. Tác phẩm nghệ thuật đối với cuộc sống thực tế và sinh động hơn…”
Khi phân tích thơ, việc đầu tiên chúng ta cần phân biệt rõ giữa cái gọi là hình
tượng nghệ thuật chung và hình tượng văn học nói chung. Vì rõ ràng là không
phải chỉ có văn học mới có hình tượng và mới phản ánh cuộc sống bằng hình
tượng. Điêu khắc, hội họa, âm nhạc đều có những hình tượng riêng của nó, tức
là phản ánh cuộc sống theo cách riêng mang tính chất đặc thù của mình. Ta có
thể định nghĩa hình tượng văn học như sau:

“Hình tượng văn học nghệ thuật là một bức tranh sinh động nhất của cuộc
sống được xây dựng bằng ngôn ngữ nhờ có trí tưởng tượng, óc sáng tạo và
cách đánh giá của nhà nghệ sĩ”.
“Tính hình tượng là cái tồn tại phụ thuộc vào văn cảnh, nó tồn tại ở bề mặt
văn bản, trên những mối quan hệ cụ thể, còn hình tượng là cái thuộc về cấu
9 9
trúc chiều sâu của văn bản. Nó là sự tổng hòa hay là sự đồng hiện của tất
cả những cái hình tượng của văn cảnh ấy. Nói một cách khác, hình tượng
là cái nằm ở phía trong của những mối quan hệ.” [11, tr.15]
1.2. Khái niệm về ẩn dụ
1.2.1. Sơ lược về lịch sử nghiên cứu ẩn dụ
Ẩn dụ là một hiện tượng đã được nghiên cứu từ thời cổ đại (khoảng thế kỷ thứ
IV trước công nguyên) ở nhiều cấp độ khác nhau. Ẩn dụ không chỉ được
nghiên cứu trong các lĩnh vực thuộc về ngữ văn học, mà còn được nghiên cứu
ở nhiều các lĩnh vực khác như: triết học, tâm lý học, phong cách học, từ vựng
học và gần đây nhất là dụng học và ngôn ngữ học tri nhận.
Lý thuyết về ẩn dụ bắt đầu hình thành từ thời triết học Hy Lạp. Ẩn dụ theo
tiếng Hy Lạp lúc bấy giờ là (metaphor) có nghĩa là chuyển từ chỗ này sang
một chỗ khác, tức có nghĩa là chuyển đổi. Sau này khái niệm chuyển đổi ấy
được vận dụng vào việc xác định nghĩa của từ theo phương thức ẩn dụ là hiện
tượng chuyển nghĩa. Trong ẩn dụ một sự vật được miêu tả hay được định nghĩa
bằng những từ biểu thị một sự vật khác, có sự tương đồng hay sự giống nhau
với sự vật trước.
Trong các công trình nghiên cứu của các học giả Trung Hoa cổ đại thì ẩn dụ
được thể hiện qua cách chỉ sự ví von, bóng bẩy và thường ẩn chứa trong lời
khởi đầu của các bài ca dao dân ca sau này và được ghi lại rất nhiều trong các
tác phẩm Kinh Thi nổi tiếng.
Đến thời hiện đại cũng xuất hiện khá nhiều công trình nghiên cứu của các nhà
ngôn ngữ học về ẩn dụ. Có thể kể ra như: R.Jakobon, J.Cohen, và sau này là
George Lakoff và Mark Johnson…Nếu như quan niệm truyền thống chỉ xem

ẩn dụ như là một phương tiện sáng tác của thơ ca hay nghệ thuật hùng biện.
Ẩn dụ chỉ được xem như là vấn đề của ngôn ngữ hơn là của tư duy và hành
động, thì đến những năm gần đây George Lakoff và Mark Johnson trong tác
10 10
phẩm “Metaphors we live By” (1980) đã cho rằng ẩn dụ tồn tại không chỉ
trong ngôn ngữ mà còn hiện hữu trong tư duy và hành động.
Ở Việt Nam, ẩn dụ đã được các nhà Việt ngữ học, các nhà nghiên cứu văn học
cũng như phong cách học quan tâm nhiều. Có thể kể đến một số công trình
nghiên cứu với các tác giả tiêu biểu như Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp,
Hữu Đạt, Nguyễn Văn Tu, Đinh Trọng Lạc, Cù Đình Tú, Nguyễn Đức Tồn…
1.2.2. Một số quan niệm về phép ẩn dụ
Trong tiếng Việt đặc biệt là trong thơ ca Việt Nam từ xưa tới nay việc sử dụng
các biện pháp tu từ luôn đóng một vai trò quan trọng. Nó không chỉ giúp thể
hiện được nội dung, chủ đề của người nói mà còn có vai trò lớn trong việc tạo
dựng nên giá trị nghệ thuật bền vững cho mỗi tác phẩm, làm cho sức diễn đạt
vừa trong sáng, súc tích, “ý tại ngôn ngoại” lại vừa thể hiện được cái hồn cuả
thi nhân. Chính vì thế khi nhắc đến các tác phẩm văn chương ta không thể
không kể tới vai trò của các biện pháp tu từ.
Phép tu từ vốn được hiểu là cách dùng các từ ngữ đã được gọt rũa, có hình ảnh
bóng bẩy làm cho lời thơ, lời văn hay hơn, ý thơ, ý văn trong sáng, giản dị giàu
sức biểu cảm và nâng cao hiệu quả của việc diễn đạt.
Có rất nhiều các biện pháp tu từ đã được sử dụng trong thơ ca cũng như trong
các văn bản tiếng Việt từ xưa tới nay như: so sánh, nhân hoá, hoán dụ, thậm
xưng, liệt kê, câu hỏi tu từ…Mỗi phép tu từ này đều đem lại những giá trị nghệ
thuật, sức biểu cảm và giá trị thẩm mĩ riêng. Ngoài các biện pháp tu từ kể trên
có một biện pháp mà nhờ nó các tác giả đã tạo nên phong cách đặc biệt cho
mỗi tác phẩm nghệ thuật của mình – Đó là phép ẩn dụ.
Ở Việt Nam hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau khi đề cập đến lý
thuyết ẩn dụ. Các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học Việt Nam cho rằng khi nghiên
cứu về lý thuyết ẩn dụ cần xem xét ở hai góc độ.

11 11
Thứ nhất: Ẩn dụ là một trong những phương thức chuyển nghĩa cơ bản của
các đơn vị từ vựng. Nếu xem xét ở góc độ này, dựa vào mối quan hệ tương
đồng giữa sự vật và đối tượng thì ẩn dụ là đối tượng nghiên cứu của từ vựng
học. Ẩn dụ không chỉ được thể hiện ở một từ, một câu mà có thể ẩn dụ được
sử dụng làm khung chiếu vật cho cả một đoạn văn, một khổ thơ hay cả một bài
thơ.
Theo các công trình nghiên cứu về ẩn dụ trong và ngoài nước cho đến nay, ẩn
dụ thường được xem là phép chuyển đổi tên gọi dựa trên sự so sánh ngầm giữa
hai sự vật có sự tương đống hay những nét giống nhau nào đó. Tiếng Hy Lạp
“Metaphor” lúc đầu có nghĩa là chuyển từ chỗ này sang một
chỗ khác, tức có nghĩa là “chuyển đổi”.
Chẳng hạn, tác giả Đỗ Hữu Châu lý giải hiện tượng ẩn dụ bằng cơ chế chuyển
đổi trường nghĩa từ vựng. Ông quan niệm “Ẩn dụ là cách gọi tên sự vật hiện
tượng này bằng tên gọi của một sự vật, hiện tượng khác, giữa chúng có mối
quan hệ tương đồng”[7, tr 54]. Cơ chế chuyển đổi nghĩa của ẩn dụ được ông
miêu tả như sau:
“ Cho A là một hình thức ngữ âm, X và Y là những ý nghĩa biểu vật. A vốn là
tên gọi của X (tức X là ý nghĩa biểu vật của A). Phương thức ẩn dụ là phương
thức lấy tên gọi A của X để gọi tên Y, nếu như X và Y giống nhau….” [7, tr
145]
Tác giả Nguyễn Thiện Giáp cho rằng: “Ẩn dụ là sự chuyển đổi tên gọi dựa vào
sự giống nhau giữa các sự vật hoặc hiện tượng được so sánh với nhau”.[19, tr
162]
Nguyễn Văn Tu nêu ra định nghĩa: “Ẩn dụ là phép gọi tên một sự vật bằng tên
gọi của một sự vật khác theo mối quan hệ gián tiếp. Muốn hiểu được mối quan
hệ đó chúng ta phải so sánh ngầm. Khác với hoán dụ, phép ẩn dụ, theo tưởng
tượng của ta mà gọi một sự vật chỉ có vài dấu hiệu chung với sự vật mà từ
12 12
biểu thị trước thôi. Chính nhờ những dấu hiệu chung gián tiếp ấy mà ta thấy

mối quan hệ giữa các vật khác nhau”.[60, tr 159]
Tác giả Hữu Đạt cũng nhấn mạnh: “Ẩn dụ là một lối so sánh dựa trên sự giống
nhau về hình dáng, màu sắc, tính chất, phẩm chất, hoặc chức năng của hai đối
tượng. Nhưng khác với lối so sánh dùng lối song song hai phần đối tượng và
phần so sánh bên cạnh nhau, ẩn dụ chỉ giữ lại phần để so sánh… ” [12 , tr.
143]
Có thể thấy các nhà ngôn ngữ học Việt Nam phần nào đánh giá và nhìn nhận
về ẩn dụ như là một phương thức chuyển nghĩa cơ bản của từ. Qua nhiều bài
viết của mình, tác giả Hữu Đạt đều khẳng định ẩn dụ chính là một sự so sánh
ngầm. Tương tự, tác giả Nguyễn Đức Tồn cho rằng : “Bản chất của phép ẩn
dụ là phép thay thế tên gọi hoặc chuyển địa điểm, thuộc tính của sự vật, hiện
tượng này, sang sự vật hiện tượng khác loại dựa trên có sở sự liên tưởng đồng
nhất hoá chúng theo đặc điểm, thuộc tính nào đó cùng có ở chúng”. [58, tr
12].
Cả tác giả Hữu Đạt và tác giả Nguyễn Đức Tồn đều chỉ ra rằng bản chất của ẩn
dụ chính là một phép so sánh ngầm. Về thực chất chỉ có sự đồng nhất, hoặc
tương đồng hoàn toàn thì người ta mới có thể sử dụng cái này để thay thế cho
cái khác được.
* Quan niệm thứ hai xem Ẩn dụ là một biện pháp tu từ nhằm tạo nên những
biểu tượng trong nhận thức của con người. Ở góc độ này thì ẩn dụ là đối
tượng nghiên cứu của phong cách học, ẩn dụ được xem như là biện pháp tu
từ lâm thời (ẩn dụ tu từ), vì thế nó được khảo sát ở những ngữ cảnh cụ thể
gắn liền với những văn bản. Ẩn dụ không chỉ xuất hiện trong thơ văn mà nó
xuất hiện trong mọi mặt của đời sống xã hội, trên các phương tiện thông tin đại
chúng. Vì thế ẩn dụ là một bộ phận hợp thành của sự sáng tạo ngôn ngữ và khả
năng nhận thức của con người về thế giới khách quan.
13 13
Vì vậy tác giả Đinh Trọng Lạc phát biểu: “Ẩn dụ là sự định danh thứ hai mang
ý nghĩa hình tượng, dựa trên sự tương đồng hay giống nhau (có tính chất hiện
thực hoặc tưởng tượng ra) giữa khách thể (hiện tượng, hoạt động, tính chất) A

được định danh với khách thể (hiện tượng, hoạt động, tính chất) B có tên gọi
được dùng chuyển sang cho A.[31, tr 52]
Còn tác giả Cù Đình Tú thì nói : “Ẩn dụ là cách cá nhân lâm thời lấy tên gọi
biểu thị đối tượng này dùng để biểu thị đối tượng kia trên cơ sở mối quan hệ
liên tưởng về nét tương đồng giữa hai đối tượng” [62, tr 179]
Tác giả Hữu Đạt nói kỹ hơn: “Ẩn dụ là kiểu so sánh không nói thẳng ra.
Người tiếp nhận văn bản khi tiếp cận với phép ẩn dụ phải dùng năng lực liên
tưởng để quy chiếu giữa các yếu tố hiện diện trên văn bản với các sự vật hiện
tượng tồn tại ngoài văn bản. Như vậy thực chất của phép ẩn dụ là dùng tên
gọi này để biểu hiện sự vật khác dựa trên cơ chế tư duy của ngôn ngữ dân
tộc”. [12, tr 302 ].
Ở luận văn này, này chúng tôi đưa ra cách hiểu về ẩn dụ như sau: “Ẩn dụ là
phép tu từ trong đó dùng tên gọi của sự vật, hiện tượng này để biểu hiện
cho sự vật, hiện tượng khác khi mà giữa 2 sự vật, hiện tượng đó có những
nét tương đồng dựa trên một cơ chế liên tưởng nào đó. Nói cách khác ẩn dụ
chính là sự so sánh ngầm trong đó vế được so sánh bị ẩn đi. Giá trị chủ yếu
của ẩn dụ là biểu cảm, nó được sử dụng nhiều trong ngôn
ngữ và đặc biệt là trong các tác phẩm văn học”.
1.2.3. Phương pháp phân loại ẩn dụ, các kiểu ẩn dụ
Trong Việt ngữ học có rất nhiều cách phân loại ẩn dụ dựa trên những cơ sở
khác nhau từ đó dẫn đến các kiểu , loại ẩn dụ khác nhau. Có thể dẫn ra một số
tác giả với những cách phân loại tiêu biểu sau đây:
* Tác giả Nguyễn Đức Tồn cho rằng có 2 loại ẩn dụ dựa trên cơ sở sau:
+ Thứ nhất: Khi hai biểu vật có cùng nét nghĩa nào đó như nhau nên được tư
duy đồng nhất hoá với nhau nhưng chỉ có một biểu vật đã có gọi tên. Ẩn dụ
14 14
loại này được cố định hoá trong hệ thống ngôn ngữ, được dựa vào từ điển và
được toàn dân sử dụng được gọi là ẩn dụ định danh (hay ẩn dụ từ vựng)
+ Thứ hai: Khi hai biểu vật có cùng nét nào đó như nhau, đều vốn đã có tên gọi
riêng nhưng trên cơ sở tư duy liên tưởng đồng nhất hoá chúng có thể lấy tên

gọi của sự vật này thay thế lâm thời cho tên gọi của sự vật kia. Ẩn dụ loại này
được sử dụng như một biên pháp tu từ nhằm là tăng sức gợi hình, gợi cảm và
giá trị thẩm mĩ cho sự diễn đạt. Những ẩn dụ này được gọi là ẩn dụ lâm thời
và thường mang ý nghĩa biểu trưng.
Theo đó: Ẩn dụ từ vựng là phương thức phát triển nghĩa mới của từ, trong đó
nghĩa mới tạo thành là một ý nghĩa từ vựng ổn định chứ không lâm thời. Như
vậy ẩn dụ từ vựng có chức năng từ vựng hoá là chủ yếu. Nhìn chung ẩn dụ từ
vựng là sự chuyển nghĩa mang tính chất xã hội, ổn định và cố định. Những
hiện tượng chuyển nghĩa này được cả cộng đồng sử dụng ngôn ngữ thừa nhận
và sử dụng như nhau.
Bên cạnh đó ẩn dụ từ vựng còn có một loại ẩn dụ thứ hai cũng được sử dụng
phổ biến và rộng rãi đó là ẩn dụ tu từ. Ẩn dụ tu từ được sử dụng rộng rãi và
phổ biến trong thơ ca dân gian, nó gắn liền với phong cách thời đại và phong
cách dân tộc.
* Tác giả Đỗ Hữu Châu đƣa ra các kiểu ẩn dụ.
+ Ẩn dụ hình thức: là những ẩn dụ có được dựa trên sự giống nhay về hình
thức giữa các vật.Vd: những ẩn dụ trong các từ “chân” trong “chân bàn, chân
núi, chân tường”, từ “mũi” trong “mũi thuyền, mũi dao”…là những ẩn dụ chỉ
hình thức.
+ Ẩn dụ cách thức: Là ẩn dụ dựa vào sự giống nhau về cách thức thực
hiện giữa hai hoạt động, hiện tượng.
+ Ẩn dụ chức năng: Là những ẩn dụ dựa vào sự giống nhau về chức năng giữa
các sự vật. Vd: cửa trong cửa sông, cửa rừng…
15 15
+ Ẩn dụ kết quả: Là những ẩn dụ dựa vào sự giống nhau về tác động của các
sự vật đối với con người. Trong ẩn dụ kết quả có một loại ẩn dụ được chú ý
đặc biệt đó là ẩn dụ dùng tên gọi của những cảm giác này để gọi tên những
cảm giác của giác quan khác hay những “cảm giác” của trí tuệ, tình cảm.
* Tác giả Nguyễn Thiện Giáp trong cuốn “Từ vựng học tiếng Việt” cho
rằng có các kiểu ẩn dụ sau đây:

+ Ẩn dụ hình thức: Vd: mũi là một bộ phận của con người có đặc điểm nhọn,
có phần nhô ra. Vì thế phần đất nhô ra cũng được gọi là “mũi đất” + Ẩn dụ
chuyển tính chất của sự vật này sang sự vật hoặc hiện tượng khác.
Ví dụ:
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
(Ông đồ - Vũ Đình Liên)
+ Ẩn dụ dựa trên sự giống nhau về một thuộc tính, tính chất nào đó.Vd:
Tình cảm khô khan, lời nói ngọt ngào.
+ Ẩn dụ chức năng: Vd. “Bến” trong bến xe, bến đò, bến sông…tất cả các từ
này đều thể hiện một chức năng giống nhau là đầu mối giao thông.
+ Ẩn dụ đặc điểm hình thức, dáng vẻ bên ngoài: Vd: Người phụ nữ đẹp được
gọi là Tây Thi.
+ Ẩn dụ màu sắc: VD: màu da trời – màu xanh như da trời, màu cánh sen –
màu hồng như màu của cánh sen…
+ Ẩn dụ chuyển tên gọi của con vật thành con người: VD: con cún con của mẹ,
con cún con của anh…
+ Ẩn dụ từ cụ thể đến trừu tượng: VD: hạt nhãn là cái cụ thể chỉ phần bên
trong của quả, nó cũng được dùng để chỉ trung tâm quan trọng nhất của một
vấn đề.
16 16
* Tác giả Hữu Đạt trong cuốn “Phong cách học tiếng Việt hiện đại” –
NXBQG 2000 cho rằng: Trong thực tế ngôn ngữ chúng ta thường gặp các
kiểu ẩn dụ khác nhau và cụ thể có 3 kiểu loại sau đây. Ẩn dụ nhân hoá, ẩn
dụ tượng trưng và ẩn dụ ngụ ngôn.
Các tác giả Đinh Trọng Lạc và Nguyễn Thái Hoà gọi ẩn dụ nhân hoá là kiểu ẩn
dụ được xây dựng dựa trên mối quan hệ giữa người với vật. Cụ thể đó là phép
ẩn dụ được hình thành dựa trên cơ chế chuyển nghĩa giữa trường về con người
và trường về sự vật. Theo đó ẩn dụ nhân hoá bao gồm 2 quan hệ biện chứng đó
là:

+ Gán cho con người những hành động cảm nghĩ như đồ vật
+ Gán cho đồ vật những hành động, cảm nghĩ giống con người Ví
dụ:
“ Gái chính chuyên lấy được chín chồng
Vo viên bỏ lọ gánh chồng đi chơi”
( Ca dao)
Tác giả Hữu Đạt coi “Ẩn dụ tượng trưng là ẩn dụ được dùng đi, dùng lại
nhiều lần trở thành các hình ảnh có giá trị hình tượng”. Chẳng hạn người ta
thường dùng hình tượng
+ “Tùng”, “cúc”, “trúc”, “mai” để biểu thị cho người quân tử và vẻ đẹp cao
quý.
+ “Con ong”, “cái kiến”, “bèo mây” để biểu thị cho số phận con người nhỏ
bé trong xã hội.
+ “ Mắt phượng”, “mày ngài”….biểu thị cho vẻ đẹp và nét mặt người con gái.
+ “ Thắt đáy lưng ong”, “dáng liễu” để biểu thị người con gái có dáng đẹp.
Vd: “ Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo”
( Nguyễn Công Trứ)
17 17
- Ẩn dụ ngụ ngôn: Đây là loại ẩn dụ dùng cách nói để nêu ra những giá trị,
giáo lý về đạo đức về cách ứng xử giữa con người với con người trong xã hội.
Một số tác giả gọi đó là phúng dụ. Ẩn dụ ngụ ngôn là những triết lý nhân sinh
đã được đúc rút từ nghìn năm.
Ví dụ: “ Cà cuống uống rượu la đà
Bao nhiêu ếch nhái nhảy ra chia phần”
( Ca dao)
Ẩn dụ ngụ ngôn tác động đến người đọc một cách rất thấm thía vì đó là sự kết
hợp hài hoà giữa yếu tố hiện thực của ngôn ngữ và chất suy tưởng. Tác giả
Hữu Đạt từng nhận định rằng: “Trong thơ ca ẩn dụ ngụ ngôn xuất hiện chủ
yếu trong ca dao. Ẩn dụ là phương pháp tu từ mở ra nhiều cảm xúc và nhận

thức cho con người”.
Trên đây là cách phân loại ẩn dụ của một số nhà nghiên cứu ngôn ngữ. Quan
niệm và cách phân loại về ẩn dụ tu từ của các nhà ngôn ngữ học được trình bày
theo những cách khác nhau không hề mâu thuẫn, đối lập mà chúng bổ sung
cho nhau đem lại những cách hiểu thống nhất và đầy đủ nhất về ẩn dụ tu từ.
Với những quan điểm khác nhau về ẩn dụ, chúng tôi chọn quan điểm của tác
giả Hữu Đạt làm cơ sở cho sự nghiên cứu và khảo sát các tư liệu ẩn dụ về
hình tượng người anh hùng, người quân tử.
1.3. Vài nét về thơ Đƣờng
1.3.1.Khái quát chung về thơ Đường
Ðến nay, giới nghiên cứu văn học Trung Quốc đã thống kê sưu tầm được năm
mươi ngàn bài thơ Ðường của hai ngàn ba trăm tác giả. Vì sao Ðường thi phát
triển mãnh liệt như vậy?. Ðời Ðường, nước Trung Quốc độc lập và thống nhất
sau thời gian dài bị chia cắt và lệ thuộc. Tình hình đó kích động cảm hứng
sáng tạo cho nhà thơ. Ðô thị phồn vinh tạo điều kiện truyền bá văn học và
cung cấp cho thơ ca nhiều đề tài phong phú.
18 18
TheoTrần Bá Hải viết trong cuốn Đường Thi học dẫn luận thì Thơ Ðường chia
ra bốn giai đoạn Sơ - Thịnh - Trung – Vãn.
Thời kỳ Sơ Đƣờng
Sơ Ðường là giai đoạn chuẩn bị mọi mặt cho thơ, còn mang nặng tính chất uỷ
mỵ với bốn nhà thơ nổi tiếng: Vương Bột, Dương Quýnh, Lư Chiếu Tân và
Lạc Tân Vương. Cuộc đời họ gặp nhiều bất hạnh nhưng trong thơ vẫn có
những tình cảm tích cực lành mạnh. Sau đó, Trần Tử Ngang đề xướng chủ
trương khôi phục tinh thần phong nhã và đặt nền móng cho thơ hiện thực.
Nhược điểm của thời kỳ này là khi viết về chiến tranh, âm hưởng chủ đạo của
họ là khẳng định, ca ngợi.
Thời kỳ Thịnh Đƣờng
Thịnh Ðường là giai đoạn rực rỡ nhất của thơ, đạt đến sự thống nhất hoàn mỹ
giữa nội dung và hình thức với nhiều nhà thơ lớn. Mặc dù thơ Ðường khá đa

dạng phong phú, ta cũng tạm chia họ ra hai trường phái dựa trên đề tài: phái
điền viên và phái biên tái.
Vương Duy và Mạch Hạo Nhiên là đại biểu lớn của phái điền viên với nghệ
thuật cao, đôi khi phản ánh được những nét chân thực của sinh hoạt nông thôn
và vẻ đẹp của thế giới tự nhiên, song nhìn chung còn xa rời cuộc sống thực
(Bác Hồ có viết bài Cảm tưởng đọc Thiên gia thi: Thơ xưa yêu cảnh thiên
nhiên đẹp, Mây gió trăng hoa tuyết núi sông ).
Phái biên tái: Hầu như nhà thơ nào cũng viết về chiến tranh, về cảnh biên
cương khốc liệt, đặc biệt là miêu tả tâm trạng và đời sống của chinh phu, chinh
phụ. Có người thiên về ca ngợi như Cao Thích, Sầm Tham, đa số thiên về phê
phán như Vương Xương Linh, Lí Kỳ và tiêu biểu nhất là Lí Bạch với cảm
quan nhạy bén đã sớm phát hiện ra dấu hiệu suy vong của nhà Ðường nấp sau
vẻ phồn thịnh đương thời.
Thời Trung Đƣờng
19 19
Ðến thời Trung Ðường, có thể coi Ðỗ Phủ là chiếc cầu nối giữa Thịnh Ðường
và Trung Ðường. Thơ ông phản ánh hiện thực xã hội một cách sâu rộng. Hiện
tượng nổi bật sau này là phong trào thơ phúng dụ trữ tình của Bạch Cư Dị thể
hiện sự đồng tình sâu sắc với nhân dân và phản ánh sinh động mâu thuẫn giai
cấp gay gắt trong xã hội (nổi tiếng với bài "Tì bà hành"). Trong khi đó, một số
nhà thơ vẫn sáng tác theo lối điền viên. Liễu Tôn Nguyên làm thơ ngụ ngôn rất
sở trường, phản ánh nỗi khổ của dân chúng và phê phán bọn thống trị. Do bất
mãn, u hoài, bực bội đôi khi ông rơi vào hư vô. Lí Hạ là nhà thơ có biệt tài xây
dựng tứ thơ độc đáo, hình ảnh kỳ lạ, từ ngữ mới mẻ (quỉ tài).
Thời Vãn Đƣờng
Ðến thời Vãn Ðường vẫn còn nhiều nhà thơ tài năng xuất hiện với cảm hứng
Ðạo giáo, có ít nhiều tiến bộ như Tào Nghiệp, Ôn Ðình Quân, Lý Thương Ẩn
và Ðỗ Mục, chia thành nhiều nhóm "lãng mạn" khác nhau. [64, tr.27]
1.3.2.Thành tựu về nội dung và nghệ thuật của thơ Đường
Thành tựu về nội dung

Các tác giả sách Lịch sử văn học Trung Quốc viết: “Trung Quốc đời Đường
(618- 907) là một nước tiên tiến, văn minh trên thế giới đương thời. Trong lĩnh
vực văn học nghệ thuật, xuất hiện nhiều cảnh tượng cực kỳ phồn vinh. Những
thành tựu về thơ ca tạo nên thời đại hoàng kim của lịch sử phát triển thơ ca
trong xã hội phong kiến Trung Quốc”
Nội dung cuả thơ Đường thật là phong phú, mang tính hơn hẳn so với thời đại
phong kiến trước và sau nó…đó là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố. Ngoài
đặc điểm phong cách và đời sống của chính bản thân mình, các tác giả còn biết
kế thừa tinh hoa của truyền thống văn học – nghệ thuật hàng nghìn năm trước,
lại tiếp thu được cả một di sản tư tưởng – triết học đa dạng lớn lao, và mỗi nhà
thơ một mặt là do chính cái “bản lai diện mục” vốn có của các nhân tố ấy quy
định. Mặt khác là xuất phát từ cách thế kế thừa, tiếp thu, thâu hóa của từng tác
giả.
20 20
Thành tựu về nghệ thuật
Thơ Đường được coi là đỉnh cao của thi ca cổ điển Trung Quốc không chỉ vì
nội dung phong phú, mà hơn nữa, còn vì nghệ thuật trác việt, kết tụ tinh hoa
của quá khứ và làm khuôn mẫu cho thơ đời sau, nhất là luật thi. Cống hiến của
nó đối với lịch sử văn học rất lớn.
a. Nghệ thuật vận dụng thi pháp
Như chúng ta đã biết, vào đời Đường, mọi thể loại đều đạt đến mức hoàn
chính. Nhạc điệu câu thơ bình hòa, ổn luyện, nhất là câu thất ngôn. Tiết tấu
nhẹ nhàng, ngân nga với nhịp câu chẵn cân đối, âm hưởng thấm sâu vào tâm
hồn người đọc, tạo nên cảm giác êm ái lâng lâng:
Khứ niên/ hoa lý/ phùng quân biệt
Kim nhật/ hoa khai/ hựu nhất niên
Thế sự/ mang mang/ nan tự liệu
Xuân sầu/ ảm ảm/ độc thành miên…
Vi Ứng Vật, Ký Lý Đảm Nguyên Tích
Nhịp điệu ấy hầu như đã định hình và đạt đến mức độ tối ưu của câu thất ngôn,

có khả năng diễn dạt những cảm xúc điều hòa theo hướng “tiết dục” của triết
học phương Đông. Tuy nhiên, khi cần, tác giả cũng biến đổi nhịp điệu, làm cho
câu thơ gợi cảm hơn. Những câu được ngắt nhịp đặc biệt như thế sẽ nổi bật lên
giữa bài thơ, gây nên một ấn tượng sâu sắc:
Kiếm Thủy tự tiền/ phương thảo hợp,
Kính Hồ đình thượng/ dã hoa khai.
(LÝ THÂN, Giang Nam xuân mộ ký gia)
Ngũ canh/ cổ giác thanh/ bi tráng, Tam
giáp/ tinh hà ảnh/ động dao.
(ĐỖ PHỦ, Các dạ)
21 21
Song song với nhịp điệu, nhiều tác giả còn dùng hệ thống vần đề diễn đạt bổ
sung cho ý nghĩa. Chúng ta đã biết vần vốn là một yếu tố quan trọng cuả thi
pháp, nhưng ngoài ra nó còn mang một giá trị nghệ thuật nữa. Không phải
ngẫu nhiên mà nhà thơ chọn vần mở hay vần khép, vần bằng hay vần trắc, độc
vận hay biến vận, nhất là trong những bài cổ phong trường thiên. Vần cũng
“nói lên” được một cái gì, hay tạo nên không khí cho bài thơ, cho
đoạn thơ.
b. Nghệ thuật vận dụng loại thể
Hai phương pháp chính được các tác giả vận dụng là lãng mạn và hiện thực.Lý
Bạch là bậc thầy của thơ lãng mạn. Ông kết hợp nhuần nhuyễn các biện pháp
khoa trương, ẩn dụ, thần thoại hóa để biểu hiện những cảm xúc mãnh liệt, hào
phóng không ai sánh kịp. Những nhà thơ khác như Cao Thích,
Sầm Tham, Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên…cũng sáng tác bằng phương pháp
này, nhưng mức độ thấp hơn. Họ thiên về khía cạnh miêu tả đời sống nội tâm,
giải bày những trạng thái tư duy, cảm xúc mang tính cá thể hóa.Thơ hiện thực
thì ít người hơn được Đỗ Phủ và Bạch Cư Dị, nhưng phong cách của hai tác
giả này cũng không giống nhau.Thơ hiện thực của Bạch Cư Dị thì có tính chất
duy lý, nhận thức dựa vào trí tuệ. Một bên là tiếng nói của trái tim giúp ta cảm
mà hiểu, một bên là tiếng nói của bộ óc, giúp ta hiểu mà cảm…Tuy nhiên, hai

phương pháp lãng mạn và hiện thực không tách ra thành hai tuyến đối lập
nhau. Ta có thể nói thơ lãng mạn mang tính hiện thực như các bài Thục đạo
nan, Bạch đầu ngâm, Song yến ly…của Lý Bạch và thơ hiện thực mang tính
lãng mạng như các bài Mộng Lý Bạch, Đan thanh dẫn, Cổ bá hành, Tráng
du…của Đỗ Phủ.
c. Nghệ thuật vận dụng ngôn ngữ
Ngôn ngữ thơ Đường kết tinh được nhiều cái đẹp, mang tầm khái quát rất cao,
không những có khả năng biểu cảm mà còn có khả năng biểu ý, kết hợp cảm
quan và nhận thức, truyền thống và cách tân, kế thừa và sáng tạo. Ngôn ngữ
22 22
giàu hình ảnh và cảm xúc ấy phần lớn là do các biện pháp tu từ tạo ra. Nhiều
khi các biện pháp tu từ xen kẽ chồng chéo nhau, làm bật lên cái “tứ” sâu xa
như người ta thường nói “ý tại ngôn ngoại”. Bài thơ, nhất là tứ tuyệt và bát cú,
rất ngắn gọn, sao cho trong một số câu nhất định, một số từ hữu hạn, phải diễn
đạt hết cảm nghĩ của tác giả.
Ngôn ngữ thơ Đường trong sáng, tinh luyện, tiết kiệm ngôn từ (bài ngắn nhất
hơn hai mươi chữ: ngũ ngôn tuyệt cú). Do thế, thơ Đường rất súc tích, cô
đọng. Ít khi thơ chịu nói hết ý, và “vẽ mây, nẩy trăng” (chỉ tả đám mây, nhưng
ta biết có vầng trăng bị che lấp ở phía sau), ý ở ngoài lời, ý đến mà bút không
đến, bút dừng mà ý không dừng – lời hết mà ý chưa hết…
1.3.3. Đôi nét về thể loại và thi pháp thơ Đường
Thể loại thơ Đường
Thể thơ
Đường Thi gồm thơ cổ phong và thơ cận thể (thơ Ðường luật, cách
luật).
 Thơ Cổ Phong hay Cổ Thể
Cổ phong là lối thơ có từ những triều đại trước. Trong thơ cổ phong, người ta
chia ra hai loại cho dễ nhớ: thơ cổ phong năm lời (ngũ ngôn) và bảy lời (thất
ngôn). Thơ cổ phong khác với thơ luật ở chỗ thơ chỉ cần vần chứ không cần
phải theo luật bằng, trắc. Khác với thơ luật, thơ cổ phong có thể dài ngắn khác

nhau, có loại bài ngắn(đoản thiên), và bài dài (trường thiên).
Số câu trong cổ phong cũng không quy định cụ thể. Đoản thiên có thể bốn câu,
sáu câu, tám câu hoặc trên mười câu…Trường thiên là những bài thơ dài,
nghiêng về trần thuật, hoặc biểu cảm liên tục trước một đề tài không dứt,
do đó cũng cần phải có từng phần, mạch lạc, có cấu trúc hợp lý…
Vần trong thơ cổ phong cũng tự do hơn. Có thể là bài thơ chỉ dùng một
vần(độc vận) trong cả bài, cũng có thể thay nhiều vần (hoán vận) trong lúc viết
23 23
(Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị). Vần bằng và vần trắc cũng có thể dùng riêng
từng loại hay cả hai.
Về lời trong câu thì được phép dài, ngắn khác nhau không phải nhất thiết năm
hay bảy chữ (Tương Tiến Tửu của Lý Bạch)…
Trong ngũ ngôn trường thiên có bốn điều cốt yếu được các nhà thơ hay vận
dụng, gọi là thủ pháp chung cũng được. Đó là:
- Phân mạch: chia đoạn, chia tiết, chia câu trong bài.
- Quá mạch: chuyển tiếp các ý của phần đầu.
- Hồi chiếu: biểu hiện những tứ lạ, ý hay đã róng lên ở các phần trên,
phát triển cho sâu sắc.
- Tán thán: những ý nghĩ, suy tưởng, cảm nhận xen cài vào các đoạn
trên.
Thất ngôn cổ phong thì các mạch đoạn cho rõ ràng, ý nghĩa càng thâm trầm,
cao thoát. Nhiều ý vị ngoài bài thơ thì càng hay. So với thơ luật, thơ cổ phong
phóng túng hơn, ít bị trói buộc trong niêm luật, câu chữ. Chính vì vậy mà tính
hàm súc, cô đọng, những khe khắt đòi hỏi về đối ngẫu, luật thơ, âm nhạc
không tập trung như thơ luật. Vả lại, thể cổ phong vốn cũng đã có từ các
thời Hán, Tùy, trước, nên về sau lối thơ luật thịnh hành hơn cả…
 Thơ Đường luật
Thơ luật có từ thời nhà Đường nên cũng gọi là Đường Luật. Luật dựa trên
những thanh bằng và thanh trắc trong một câu và niêm giữa các câu với nhau,
tạo thành cấu trúc bắt buộc của bài thơ. Thơ luật gồm tám câu, cấu trúc quy

định như sau:
- Phá: Câu mở đầu ( cũng gọi là Phá đề)
- Thừa: Nhân ý câu phá mà chuyển tiếp
- Thực: Gồm hai câu 3,4 phải đối nhau từng lời và ý, nói rõ chủ đề của
bài thơ.
24 24
- Luận: Gồm hai câu 5,6 cũng theo luật đối lời đối ý của các câu thực,
nhằm tăng ý chính của bài.
- Kết: hai câu cuối cùng, chuyến ý và thâu tóm ý tưởng của bài thơ hoặc
có một tứ lạ gây thêm cảm xúc cho người đọc.
Thơ luật có thể năm lời (ngũ ngôn) và thể bảy lời( thất ngôn)
Thi pháp thơ Đường
Con người trong thơ Đường
Con người là đối tượng, đồng thời cũng là mục đích cứu cánh của văn học. Khi
Gorky nói rằng: “Văn học là khoa học về con người”, tức là ông quan niệm
văn học không là gì khác hơn ngoài phản ánh, thể hiện con người vì con
người.
Sáng tác văn học là một hoạt động nhận thức và thể hiện con người, tất nhiên
văn học không thể không có quan niệm về con người.
Quan niệm nghệ thuật về con người là một phạm trù rất quan trọng của thi
pháp học. Nó hướng ta nhìn về đối tượng chủ yếu của văn học, trung tâm của
quan niệm thẩm mỹ của nghệ sĩ. Hình tượng nghệ thuật xuất hiện trong tác
phẩm bao giờ cũng mang tính quan niệm, tức là cách phản ánh, miêu tả, thể
hiện nhân vật, con người bao giờ cũng mang trong nó quan niệm của tác giả.
Trong thơ Đường, con người khí phách chưa được thể hiện nhiều như trong
thơ Tống hay trong thơ cổ Việt Nam. Trong thơ hiện đại, ta thấy xuất hiện
nhiều con người hành động. Con người trong thơ Đường không khước từ hành
động nhưng họ đề cao cái tâm hơn, nên những từ có bộ tâm (心) có tần số xuất
hiện cao trong thơ (tâm, tình, ý, ức, tư tưởng, hoài niệm, thương, bi, ưu, sầu,
oán, hận…)

Những con người – hữu tâm, con người tri âm ấy được thể hiện đặc biệt rõ
trong đề tài bằng hữu. Thơ Đường nói nhiều về tình bạn. lý giải nguyên nhân
của hiện tượng này cũng khá thú vị.
25 25

×