Tải bản đầy đủ (.pdf) (37 trang)

Bảo vệ tài nguyên, môi trường vì mục tiêu phát triển bền vững

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 37 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
PHẦN 1: TỔNG QUAN 2
PHẦN 2: NỘI DUNG 3
1. Tìm hiểu về tài nguyên thiên nhiên (TNTN): 3
1.1. Tài nguyên thiên nhiên là gì? 3
1.2. Phân loại TNTN: 4
1.2.1 Phân loại theo công dụng: 4
1.2.1.1 Nguồn năng lượng: 4
1.2.1.2 Các loại khoáng sản: 6
1.2.1.3 Nguồn tài nguyên rừng: 6
1.2.1.4 Nguồn đất đai: 7
1.2.1.5 Nguồn nước: 7
1.2.1.6 Biển và thủy sản: 8
1.2.1.7 Khí hậu: 8
1.2.2 Phân loại theo khả năng tái sinh: 8
2. TNTN với phát triển kinh tế: 9
3. Tài nguyên thiên nhiên với phát triển bền vững: 10
3.1 Phát triển bền vững: 10
3.1.1 Phát triển bền vững là gì ? 10
3.1.2 Mặt tích cực và hệ lụy: 10
3.2 Vai trò của TNTN với phát triển bền vững: 11
4. Sử dụng TNTN trong tăng trưởng và phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện
nay: 12
4.1. hiện trạng TNTN ở Việt Nam hiện nay: 12
4.1.1 Hiện trạng tài nguyên đất ở VN: 12
4.1.2 Hiện trạng tài nguyên nước ở VN: 13
4.1.3. Hiện trạng tài nguyên biển ở VN: 15
4.1.4. Hiện trạng tài nguyên năng lượng ở VN: 18
4.1.5 Hiện trạng khoáng sản ở VN hiện nay: 20
4.1.6. Thực trạng bảo vệ rừng và phát triển rừng ở VN: 23


4.2. Chính sách sử dụng TNTN: 25
4.2.1 Một số vấn đề về sử dụng TNTN để phát triển kinh tế: 25
4.2.2 Bảo vệ tài nguyên môi trường vì mục tiêu phát triển bền vững: 27
KẾT LUẬN 33
TÀI LIỆU THAM KHẢO 34






















GVHD: TS.GVC. VÕ XUÂN TÂM

NHÓM KTPT 7B Trang 1


LỜI MỞ ĐẦU
TNTN là các sản phẩm của tự nhiên, do tự nhiên sinh ra và là có hạn. Trong quá
trình khai thác sử dụng cho mục đích của mình con người đã lấy đi những tài nguyên
này để khai thác, chế biến tạo thành những sản phẩm vật chất phục vụ cho cuộc sống.
Nhưng trong thời đại ngày nay, kinh tế thế giới phát triển và dân số gia tăng chóng
mặt. Cuộc sống con người ngày càng khó khăn. Con người càng ra sức khai thác thì
những nguồn lực này càng cạn kiệt. Bởi vì nhu cầu của con người là vô hạn trong khi
TNTN lại có hạn. Liệu chúng ta có nghĩ tới một ngày nào đó những nguồn lực của tự
nhiên này sẽ không còn nữa? Phải chăng đã đến lúc nghĩ khác đi cho một tương lai
khác cho con người – nơi mà có những nguồn năng lượng sạch và không sử dụng
TNTN một cách lãng phí, gây ô nhiễm và nhiều những hệ lụy khác… Hơn nữa thiết
nghĩ con người cũng là sinh ra từ thiên nhiên, nếu cứ tiếp tục hủy hoại thiên nhiên thì
sẽ có lúc thiên nhiên quay ngược trở lại với con nguời chúng ta. Có nhiều nỗ lực với
môi trường và TNTN được đưa ra, nhưng chỉ là một số nhỏ so với sự hủy hoại mà con
người đang làm. Rõ ràng vấn đề bây giờ là phải tìm ra các nguồn năng lượng mới và
sạch để thay thế nhằm giảm tải ô nhiễm và giúp cân bằng lại môi trường thiên nhiên.
Những điều nêu trên là một trong những vấn đề cốt yếu của chính sách phát triển
của các quốc gia. Phát triển chưa đủ mà phải là phát triển bền vững. Vấn đề này thiết
nghĩ không phải chỉ là “nhiệm vụ” của các nhà làm chính sách hay chỉ đơn thuần của
các nguyên thủ quốc gia mà còn là của mọi công dân, từ trong ý thức của mỗi người.
Bài tiểu luận được cố gắng hoàn thành trong thời hạn sớm nhất có thể. Quan
trọng hơn có tinh thần làm việc có trách nhiệm từ các thành viên của nhóm. Tiều luận
này được chia thành nhiều phần cụ thể có khái niệm, hạn chế, phân loại, và ý nghĩa đối
với phát triển,… Tuy nhiên thành viên nhóm luôn lưu ý tới một điều là con nguời thì
chắc hẳn là không thể thiếu được những sai lầm khó tránh khỏi. Do vậy những sai sót
lỗi lầm không đáng có mong được giảng viên bỏ qua và đánh giá bài làm này trên cơ
sở khách quan nhất.
Xin cảm ơn thầy.
GVHD: TS.GVC. VÕ XUÂN TÂM


NHÓM KTPT 7B Trang 2

Phần 1: TỔNG QUAN
 Giới thiệu đề tài và lí do chọn đề tài:
Vấn đề của các TNTN đã có từ lâu trên các phương tiện báo đài là một vấn đề
hết sức bức xúc hiện nay. Đã nghe nói đến từ lâu, nay trong học phần kinh tế
phát triển này nhóm mới có cơ hội để thực hiện ý tưởng. Vì vậy ngay khi được
giao chọn đề tài, nhóm đã chọn đề tài này.
 Đối tượng nghiên cứu:
Khái niệm TNTN, phân loại, công dụng, vai trò của TNTN với phát triển kinh
tế và đặc biệt là phát triển bền vững. Cuối cùng là tình hình ở VN hiện nay.
 Phạm vi nghiên cứu:
Ngoài giới hạn của giáo trình Kinh tế phát triển, trường Đại học Công Nghiệp
Tp HCM, các thành viên còn tham khảo nhiều tài liệu trên nhiều kênh khác
nhau. Cụ thể sẽ được liệt kê chi tiết trong phần Tài liệu tham khảo.
 Phương pháp nghiên cứu:
1. Phân tích chủ đề tiểu luận thành các phần nhỏ để nghiên cứu
2. Tổng hợp từ các ý kiến đưa ra để thống nhất thành một bài làm hoàn chỉnh
3. Sử dụng nguồn tài liệu từ nhiều phương tiện. Trong đó Internet là một
phương tiện hữu hiệu nhất.








GVHD: TS.GVC. VÕ XUÂN TÂM


NHÓM KTPT 7B Trang 3

Phần 2: NỘI DUNG
1. Tìm hiểu về tài nguyên thiên nhiên (TNTN):
1.1. Tài nguyên thiên nhiên là gì?
o Định nghĩa
Tài nguyên thiên nhiên là một bộ phận quan trọng trong môi trường tự
nhiên. Nguồn tài nguyên thiên nhiên bao gồm những yếu tố vật chất của tự
nhiên mà con người có thể nghiên cứu, khai thác, sử dụng và chế biến để
tại ra sản phẩm, của cải vật chất nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người và
xã hội.
Vật chất mà tài nguyên thiên nhiên là một dạng cụ thể của nó, được con
người biến đổi mà không làm biến mất nó trong quá trình hoạt động. Vật
chất đề cập ở đây cần phải hiểu cả hai dạng : hữu hình và vô hình. Có thể
nói rằng tài nguyên là tất cả các dạng vật chất, tri thức, thông tin được con
người sử dụng để tạo ra của cải vật chất hay tạo ra giá trị sử dụng mới. Xã
hội loài người càng phát triển thì số loại hình tài nguyên và số lượng mỗi
loại tài nguyên được con người sử dụng, khai thác càng gia tăng.
o Hạn chế:
- Loại tài nguyên không khôi phục được bao gồm các loại khoáng sản
đang được khai thác để sử dụng trong công nghiệp. Sự hình thành các
tài nguyên khoáng sản phải mất hàng triệu năm; vì vậy, các tài nguyên
này khi hao kiệt thì không phục hồi được. Do đó, đối với tài nguyên
khoáng sản, phải sử dụng thật tiết kiệm, sử dụng tổng hợp và cần sản
xuất các loại vật liệu thay thế (ví dụ, sản xuất các chất dẻo tổng hợp để
thay thế các chi tiết bằng kim loại…) .
- Tài nguyên không bị hao kiệt như năng lượng Mặt Trời, không khí,
nước… Không khí và nước có lượng rất lớn đến mức con người không
thể sử dụng làm cho chúng cạn kiệt được. Tuy nhiên, tài nguyên nước

không phân bố đều giữa các vùng trên Trái Đất: có nhiều vùng đang
GVHD: TS.GVC. VÕ XUÂN TÂM

NHÓM KTPT 7B Trang 4

phải đối mặt với tình trạng thiếu nước ngọt, đặc biệt là thiếu nước an
toàn. Không khí và nguồn nước đang bị đe doạ ô nhiễm nghiêm trọng
làm ảnh hưởng rất lớn đến sức khoẻ của con người.
1.2. Phân loại TNTN:
1.2.1 Phân loại theo công dụng:
1.2.1.1 Nguồn năng lượng:
 Nguồn năng lượng lại có thể được phân loại theo nhiều cách khác nhau. Theo
tính chất thương mại là nguồn năng lượng được sử dụng phổ biến ở các nước
(đặc biệt là các nước công nghiệp phát triển) bao gồm các nguồn năng lượng
mới: dầu hỏa, khí đốt, than đá, thủy điện, uraniom, địa nhiệt, mặt trời, sức nước,
sức gió. Năng lượng phi thương mại là năng lượng được sử dụng để tạo ra nhiệt
năng và chỉ còn được sử dụng ở các nước đang phát triển bao gồm củi đốt và
năng lượng sinh khói (rơm rạ, thân cây các loại, phân súc vật…). Ở Việt Nam,
hiện nay bình quân mỗi năm ở các vùng nông thôn, miền núi sử dụng khoảng 22
triệu tấn củi cho việc đun nấu. Tuy nhiên, tỷ trọng năng lượng phi thương mại ở
các nước đang phát triển sẽ giảm dần cùng với sự phát triển của nền kinh tế.
 Toàn bộ nguồn năng lượng được sử dụng trong hoạt động giao thông, sản xuất
điên năng, phục vụ các ngành sản xuất và sinh hoạt của nhân dân, từ điện năng,
nguồn năng lượng lại tiếp tụ đi vào phục vụ cho tất cả các lĩnh vực hoạt động
khác nhau của nền kinh tế cuãng như đời sống con người. Có thể nói năng lượng
có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp phát triển đất nước. Năng lượng là cơ
sở cho sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước Việt Nam hiện nay.
 Để phản ánh quy mô nguồn năng lượng và khả năng đóng góp của nguồn năng
lượng vào hoạt động kinh tế, người ta thường sử dụng các chỉ tiêu như: Trữ
lượng tài nguyên năng lượng (than, dầu, khí…), trong khi đó bao gồm trữ lượng

tham dò và trữ lượng có khả năng khai thác; khả năng khai thác/ năm.
 Mức độ đánh giá chính xác quy mô nguồn năng lượng là sự phản ánh khác nhau
giữa trữ lượng thăm dò và trữ lượng có khả năng khai thác. Khả năng khai
GVHD: TS.GVC. VÕ XUÂN TÂM

NHÓM KTPT 7B Trang 5

thác/năm là chit tiêu phản ánh sự đóng góp trực tiếp của nguồn năng lượng vào
kết quả hoạt động của nền kinh tế.
 Trong các nguồn năng lượng, thủy năng là nguồn năng lượng có ý nghĩa quan
trọng đối với các nước đang phát triển. Trên 45% điện năng tiêu thụ ở các nước
đang phát triển được sản xuất ở các nhà máy thủy điện. Ở VN, tỷ lệ này hiện
nay là 63% với Nhà máy thủy điện Hòa Bình có công suất là 1920 MW và hiện
đang triển khai xây dựng nhà máy thủy điện Sơn La với công suất 3600MW.
 Dầu hỏa là nguồn năng lượng có giá trị lớn nhất trên thế gời hiện nay. Ưu điểm
của nguồn năng lượng này là sử dụng thuận lợi, dễ vận chuyển (bằng đường
ống, tầu biển) và ít gây ô nhiễm hơn than. Tổ chức OPEC bao gồm 13 nước sản
xuất và xuất khẩu dầu mỏ trên thế giới, hiện đang kiểm soát khoảng 80% lượng
dầu thô trên thị trường thế giới. Các nhà khoa học dự đoán dầu mỏ có thể khai
thác được trong vòng 60 năm nữa. Dầu khí của VN theo đánh giá của WB, trữ
lượng có khả năng khai thác là 1 tỷ tấn, đứng thứ tư khu vực châu Á – TBD.
 Sau hàng trăm năm được coi là thứ nhiên liệu độc hại, vừa khó khai thác lại vừa
gây ô nhiễm khi sử dụng, bây giờ than đá lại bắt đầu được sử dụng ưa chuộng
trở lại nhờ giá rẻ và nhờ kỹ thuật sử dụng hoàn toàn mới. Lợi thế đầu tiên của
than đá là trữ lượng dồi dào, bảo đảm giá cả ổn định. Theo ước tính của các
chuyên gia, nếu không tìm thấy mỏ mới thì nhân loại cũng đủ lượng than để
dùng trong hai thế kỷ nữa, trong khi các mỏ dầu hỏa và khí đốt đang cạn dần,
Lợi thế thứ hai là các mỏ than phân bố tương đối đều giữa các vùng lãnh thổ
trên trái đất. Chỉ trừ ở Chây Âu là đã bị khai thác gần cạn, còn than có mặt ở
khắp mọi nơi: châu Á, châu Úc, châu Mỹ, chây Phi… Nhược điểm chính của

than đá là gây ô nhiễm do khói than có nhiều chất đột hại như CO
2
…Nhưng
những nhược điểm này đang dần biến mất do những kỹ thuật lọc khí đang được
thí nghiệm và đặc biệt là có hai quy trình kỹ thuật có nhiều triển vọng là biến
than đá từ thể rắn sang thể khí đang được tính đến trong những dự án xây dựng
GVHD: TS.GVC. VÕ XUÂN TÂM

NHÓM KTPT 7B Trang 6

nhà máy nhiệt điện. Do những ưu thế trên, than đá có khả năng trở thành nguồn
năng lượng chính của thế kỷ 21.
 Việt Nam có trữ lượng than lớn, chủ yếu nằm ở khu vực Quảng Ninh chạy từ
đảo Cái Bầu trên vịnh Hạ Long cho tới Phả Lại với chiều dài 150km. Theo đánh
giá, trữ lượng thăm dò khoảng 3,5 tỷ tấn.
1.2.1.2 Các loại khoáng sản:
 Các loại khoáng sản là cơ sở để phát triển các ngành công nghiệp khai thác và
công nghiệp sản xuất các loại vật liệu như công nghiệp luyện kim, công nghiệp
sản xuất vật liệu xây dựng, thủy tinh, sành sứ. Trong số 16 loại khoáng sản chủ
yếu được sản xuất trên thế giới hiện nay, các nước đang phát triển dẫn đầu thế
giới về sản xuất bô-xít, phốt phát và chiếm tỷ trọng lớn về sản xuất coban,
cromit, thiếc, đồng. trong khi đó các nước công nghiệp phát triển cung cấp các
loại khoáng sản chủ yếu: kiềm, lưu huỳnh, quặng sắt, niken và kẽm.
 Việt Nam được đánh giá là có nguồn khoáng sản đa dạng như bô-xit, thiếc,
đồng, cromit, quặng sắt, đá vôi… Trong đó có thể nói triển vọng nhất là nguồn
bô-xit, trải dọc theo biên giới phía bắc với trữ lượng 5 tỷ tấn và ở vùng Tây
Nguyên là 7 tỷ tấn. Một số cơ sở khai thác quặng sắt ở Thái Nguyên, apatit ở
Lào Cai và thiếc ở Cao Bằng đều có quy mô còn nhỏ.
1.2.1.3 Nguồn tài nguyên rừng:
 Rừng vừa có giá trị kinh tế vừa phải có giá trị bảo vệ môi trường. Về mặt kinh

tế, rừng cho sản phẩm gỗ, ngoài ra rừng còn cho chúng ta các sản phẩm động
thực vật: thịt thú rừng, những cây dược liệu quý, những loại cỏ có hương thơm,
dầu thực vật, vỏ cây quý, hoa quả có giá trị thương mại. Những sản phẩm này
của rừng là một nguồn thu nhập quan trọng của những người dân nông thôn ở
vùng rừng núi của các nước đang phát triển. Rừng còn có giá trị bảo vệ môi
trường: chống xói mòn, lụt lội, điều hòa khí hậu, chống sự thiêu đốt của mặt
trời, tạo môi trường rất quan trọng nhưng khó định lượng hơn giá trị kinh tế. Hai
mặt này thường có mâu thuẫn với nhau. Từ xưa đến náy con người thường có
GVHD: TS.GVC. VÕ XUÂN TÂM

NHÓM KTPT 7B Trang 7

nhu cầu sử dụng gỗ và đất đai. Do khai phá rừng để trồng trọt, diện tích đất rừng
tự nhiên đang bị giảm dần, những dải rừng đang bị đe dọa. Nguồn tài nguyên
thường được đánh giá qua các chỉ tiêu: Diện tích có rừng chê phủ (triệu ha);
Tổng trữ lượng gỗ rừng (triệu m
3
); trữ lượng gỗ/ha có rừng che phủ.
 Ở Việt Nam, diện tích đất đai có rừng che phủ đã giảm từ 15-16 triệu ha (năm
1945) xuống chỉ còn 8-9 triệu ha, tức là giảm từ 45% tổng diện tích xuống còn
28% diện tích đất có rừng chê phủ. Trong khi tỷ kệ này ở Thái Lan là 52%, ở
Philippin là 58% và ở Indonesia là 67%.
1.2.1.4 Nguồn đất đai:
Đất đai có ý nghĩa quan trọng trong phát triển nông nghiệp, đáp ứng nhu cầu
cho các công trình xây dựng nhà ở và các tuyết giao thông trên bộ. Ở VN, đất có
khả năng canh tác là 9,5 triệu ha, trong đó đã sử dụng 7 triệu ha, thực tế đất có thể
huy động thêm từ 2 đến 2,5 triệu ha, nhưng phần lớn là đất dốc bị xói mòn và
thoái hóa. Hệ số sử dụng đất trồng cây còn thấp, mới chỉ đạt chỉ số trung bình
trong cả nước là 1,3. Bên cạnh đó, thời gian qua do nhiều khu công nghiệp và đô
thị mới đang hình thành nên đất canh tác bị xâm lấn, diện tích đất nông nghiệp có

xu hướng bị co hẹp nhanh chóng.
1.2.1.5 Nguồn nước:
Nước là nguồn tài nguyên không thể thiếu trong sản xuất và đời sống, là cơ sở
để xây dựng hệ thống thủy điện, vận tải thủy, tạo bể chứa, đập tràn phục vụ tưới
tiêu, là nguồn cung cấp nước sinh hoạt cho đời sống con người. Việt Nam có
nguồn nước phong phú, có 9 hệ thống sông ngòi với lưu lượng dòng chảy 840 tỷ
m3/năm, ngày mưa bình quân 100 ngày/năm. Bên cạnh đó còn có nhiều hồ, đầm
lầy và các mạch nước ngầm. Tuy vậy, mặt hạn chế là mưa theo mùa và tài nguyên
nước phân bố không đồng đều giữa các vùng. Ở các vùng núi nước rất hiếm, ở
các vùng ven biển lại thiếu nước ngọt vào mùa khô. Mặt khác, nhiều nguồn nước
đã bị ô nhiễm, việc cung cấp nước sạch ở nhiều vùng nông thôn và đô thị đang
gặp rất nhiều khó khăn.
GVHD: TS.GVC. VÕ XUÂN TÂM

NHÓM KTPT 7B Trang 8

1.2.1.6 Biển và thủy sản:
Với hơn 3200 km bờ biển chạy suốt chiều dài đất nước đã tạo điều kiện thuận
lời cho Việt Nam trong vận tải biển. Hoạt động nuôi và đánh bắt hải sản cũng có ý
nghĩa to lớn, vừa tạo ra nguồn thu nhập, vừa là nguồn dinh dưỡng của đa số nhân
dân. Một số sinh vật biển như cá, tôm, cua, sò, hến có giá trị cao trên thị trường
thế giới. Ngoài ra cá vùng ven biển còn có điều kiện phát triển nghề làm muối,
trồng và sản xuất các sản phẩm từ cói. Trữ lượng hải sản cho phép đánh bắt mỗi
năm ở VN là 1,5 triệu tấn cá và 5-6 vạn tấn tôm.
1.2.1.7 Khí hậu:
o Việt Nam có khí hậu nhiệt đới, gió mùa nóng và ẩm, độ ẩm bình quân hàng năm
là 87%, rất thuận lời cho trông cây nông nghiệp và hoa quả nhiệt đới. Điều kiện
khí hậu kết hợp với nguồn nước và đất đai đã cung cấp các loại nông sản có giá
trị xuất khẩu: lúa gạo, cao su, cà phê, chè, thuốc lá, tơ tằm, thịt và các sản phẩm
chăn nuôi.

 Tuy vậy, một vấn đề đang đặt ra với Việt Nam hiện nay là phải hạn chế tình
trạng ô nhiễm không khí từ các chất thải công nghiệp, khí thải từ các phương
tiện giao thông, ô nhiễm do tàn phá rừng…
1.2.2 Phân loại theo khả năng tái sinh:
 Nhóm tài nguyên không thể tái tạo là những tài nguyên có quy mô không thay
đổi như đất đai và những tài nguyên khi sử dụng sẽ mất dẫn hoặc biến đổi tính
chất hóa, lý như các loại khoáng sản kim loại, phi kim loại, than đá, dầu
mỏ…Khi chúng ta khai thác lên một thùng dầu thì cũng có nghĩa là trữ lượng
dầu thế giới bị giảm đi một thùng. Còn nếu như có thể tái tạo thì cũng phải trải
qua một quá trình hàng triệu năm.
 Nhóm tài nguyên có thể tái tạo, bao gồm nguồn rừng, thổ nhưỡng, các loại
động, thực vật trên cạn và dưới nước… Nguồn tài nguyên này, sau khi khai thác
có thể được tái sinh, phục hồi, tiếp tục sinh sôi, nảy nở dưới những tác động tích
cực của cong người.
GVHD: TS.GVC. VÕ XUÂN TÂM

NHÓM KTPT 7B Trang 9

2. TNTN với phát triển kinh tế:
Giữa tài nguyên và kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ qua lại với nhau, đó là mối
quan hệ tương tác, thường xuyên và lâu dài.
 Tài nguyên thiên nhiên là một yếu tố nguồn lực quan trọng:
Tài nguyên thiên là một trong những yếu tố nguồn lực đầu vào của quá trình
sản xuất. Xét trên phạm vi toàn thể giới, nếu không có tài nguyên , đất đai thì
sẽ không có sản xuất và cũng không có sự tồn tại của con người. Tuy nhiên,
đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế, tài nguyên thiên nhiên chỉ là điều
kiện cần nhưng chưa đủ. Trên thực tế, nếu công nghệ là cố định thì lưu lượng
của TNTN sẽ là mức hạn chế tuyệt đối về sản xuất vật chất trong ngành công
nghiệp sử dụng khoáng quặng làm nguyên liệu đầu vào như nhôm,
thép…TNTN chỉ trở thành sức mạnh kinh tế khi con người biết khai thác và

sử dụng một cách hiệu quả. Thực tế đã cho thấy nhiều quốc gia mặc dù có trữ
lượng tài nguyen phong phú, đa dạng, điều kiện thuận lợi, song vẫn là nước
nghèo và kém phát triển, ví dụ như Cô-oét, Arập-Sêút, Vê nê zuê la, Chi lê.
Ngược lại nhiều quốc gia có ít tài nguyên khoáng sản nhưng lại trở thành
những nước công nghiệp phát triển như Nhật Bản, Anh, Pháp, Italia…
Có thể nói, TNTN là yếu tố thúc đẩy sản xuất phát triển, các nước đang phát
triền thường quan tâm đến việc xuất khẩu sản phẩm thô, đó là những sản
phẩm được khai thác trực tiếp từ nguồn TNTN của đất nước, chưa qua chế
biến hoặc ở dạng sơ chế. Nguồn TNTN cũng là cơ sở để phát triển các ngành
sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, công nghiệp chế biên, các ngành công
nghiệp năng, công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, thủy tinh, sành sứ…
 Tài nguyên thiên nhiên là cơ sở tạo tích lũy vốn và phát triển ổn định:
Đối với hầu hết nước, việc tích lũy vốn đòi hỏi một quá trình lâu dài, gian khổ
liên quan chặt chẽ với tiêu dùng trong nước và thu hút vốn đầu tư từ nước
ngoài. Tuy nhiên, có nhiều quốc gia, nhờ những ưu đãi của tự nhiên có nguồn
tài nguyên lớn, đa dạng nên có thể rút nhắn quá trình tích lũy vốn bằng cách
GVHD: TS.GVC. VÕ XUÂN TÂM

NHÓM KTPT 7B Trang 10

khai thác các sản phẩm thô để bán hoặc để đa dạng hóa nền kinh tế tạo nguồn
tích lũy vốn ban đầu cho sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước.
Như trên chúng ta đã thấy, nguồn TNTN thường là cơ sở để phát triển một số
ngành công nghiệp khai thác, công nghiệp chế biến và cung cấp nguyên liệu
cho nhiều ngành kinh tế khác, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong
nước. Sự giàu có về tài nguyên, đặc biệt về năng lượng giúp cho một quốc gia
ít bị lệ thuộc hơn vào các quốc gia khác và có thể tăng trưởng một cách ổn
định, độc lập khi thị trường tài nguyên thế giới bị rời vào trạng thái bất ổn.
 Tài nguyên thiên nhiên là yếu tố thúc đẩy sản xuất phát triển:
TNTN là cơ sở để phát triển nông nghiệp và công nghiệp, góp phần chuyển

dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động. Điều này đặc biệt quan trọng đối với
các nước đang phát triển ở thời kỳ đầu công nghiệp hoá như Việt Nam. Tuy
vậy, cần đề phòng tình trạng khai thác quá mức TNTN để xuất khẩu nguyên
liệu thô.
3. Tài nguyên thiên nhiên với phát triển bền vững:
3.1 Phát triển bền vững:
3.1.1 Phát triển bền vững là gì ?
Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm đáp ứng những yêu cầu của hiện tại,
nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau.
3.1.2 Mặt tích cực và hệ lụy:
Hệ thống pháp luật về quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường đang được
hoàn thiện theo hướng tiếp cận với các mục tiêu phát triển bền vững. Các nguồn
lực cho công tác bảo vệ tài nguyên môi trường vì mục tiêu phát triển bền vững đã
và đang được tăng cường mạnh mẽ. Hợp tác quốc tế về tài nguyên và môi trường
thu được nhiều kết quả tốt. Tốc độ gia tăng ô nhiễm đã từng bước được hạn chế.
Chất lượng môi trường tại một số nơi, một số vùng đã được cải thiện, góp phần
nâng cao chất lượng cuộc sống người dân, cũng như quá trình phát triển bền vững
của đất nước.
GVHD: TS.GVC. VÕ XUÂN TÂM

NHÓM KTPT 7B Trang 11

Hiện nay, tình trạng sử dụng đất tăng mạnh, tài nguyên nước ngày càng bị
lạm dụng, rừng tự nhiên bị khai thác lấy gỗ, trữ lượng cá cho hoạt động đánh bắt
bị cạn kiệt, và tài nguyên khoáng sản ngày càng bị khai thác nhiều hơn. Không có
gì sai nếu sử dụng tài nguyên thiên nhiên để tăng trưởng kinh tế. Nhưng để phát
triển bền vững cần phải đảm bảo các tài nguyên có thể tái tạo được khai thác ở
mức thích hợp.
3.2 Vai trò của TNTN với phát triển bền vững:
 Ưu điểm:

- Chống thoái hóa, thực hiện sử dụng hiệu quả và bền vững tài nguyên đất.
- Bảo vệ môi trường nước và sử dụng bền vững tài nguyên nước.
- Khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm, bền vững tài nguyên khoáng sản.
- Bảo vệ môi trường biển, ven biển, hải đảo và phát triển tài nguyên biển.
- Bảo vệ và phát triển rừng.
- Giảm ô nhiễm không khí ở các đô thị và khu công nghiệp.
- Quản lý có hiệu quả chất thải rắn và chất thải nguy hại.
- Bảo tồn đa dạng sinh học.
- Giảm nhẹ biến đổi khí hậu và hạn chế những ảnh hưởng có hại của biến đổi khí
hậu, góp phần phòng, chống thiên tai.
 Nhược điểm:
 Các vấn đề môi trường như ô nhiễm môi trường đất, nước.
 Không khí nhiều nơi còn nặng nề.
 Suy giảm đa dạng sinh học.
 Khai thác khoángsản và quản lý chất thải rắn đang gia tăng, gây bức xúc trong
nhân dân.
 Hệ thống chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường còn chưa đồng bộ.
 Lực lượng cán bộ làm công tác quản lý Nhà nước về tài nguyên và môi trường
còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng.
 Nhận thức về bảo vệ môi trường và PTBV ở các cấp.
GVHD: TS.GVC. VÕ XUÂN TÂM

NHÓM KTPT 7B Trang 12

 Các ngành và nhân dân chưa đầy đủ.
 Tình trạng vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, quản lý tài nguyên vẫn đang
diễn ra tương đối phổ biến.
4. Sử dụng TNTN trong tăng trưởng và phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay:
4.1. hiện trạng TNTN ở Việt Nam hiện nay:
4.1.1 Hiện trạng tài nguyên đất ở VN:

a/ Thực trạng quy hoạch khai thác và sử dụng tài nguyên đất:
Vùng núi nước ta chiếm 3/4 diện tích lãnh thổ. Sử dụng hợp lý đất đồi núi
không chỉ mang lại lợi ích lâu dài cho phát triển kinh tế xã hội miền núi mà còn tạo
ra sự bảo hộ cho sản xuất và đời sống dân cư vùng đồng bằng.
Đặc trưng cơ bản của vùng núi là địa hình chia cắt mạnh, gây trở ngại lớn cho
việc canh tác, phát triển hạ tầng và tiếp nhận tiến bộ khoa học kỹ thuật. Bên cạnh
đó, tỷ lệ diện tích đất có thể canh tác không nhiều. Khoảng 50% diện tích có sườn

dốc trên 20 độ. Đất bị xói mòn mạnh, ước tính hàng năm khoảng 15- 350 tấn/ha.
Ngoài ra, phần lớn đất bị phong hóa, nghèo dinh dưỡng đặc biệt là các nguyên tố vi
lượng.
GVHD: TS.GVC. VÕ XUÂN TÂM

NHÓM KTPT 7B Trang 13

Qua nghiên cứu trong vòng hai mươi năm qua, có thể nhận thấy tình trạng thoái
hóa đất đồi núi đang diễn ra trên quy mô rộng, bao gồm quá trình xói mòn, rửa trôi
và sa mạc hóa.
Quá trình xói mòn, rửa trôi quan sát được trên cả ba loại đất: Đất canh tác
nương rẫy có độ dốc cao; đất một số hệ luân canh điển hình; lâm nghiệp với các
thảm thực bì khác nhau
b/ Quá trình sa mạc hóa:
Sự khô hạn diễn ra phổ biến trên đất đồi núi khi mất rừng hoặc canh tác nông
nghiệp quá mức. Kết quả theo dõi chế độ ẩm của đất nương rẫy vùng Tây Bắc trong
nhiều năm qua cho thấy tới độ sâu 50cm, độ ẩm trong đất nhỏ hơn độ ẩm cây héo,
nghĩa là đất bị thiếu nước nghiêm trọng.
Do hậu quả của việc chặt phá rừng, đốt rừng bừa bãi, sử dụng đất không bền
vững qua nhiều thế hệ (du canh, du cư, độc canh, quảng canh) nên đất bị kho hạn
nghiêm trọng, nhiều nơi mất khả năng sản xuất. Tại Tây nguyên, việc mở rộng diện
tích nông nghiệp ồ ạt không có quy hoạch làm đất bị xống cấp nhanh, xuất hiện

hiện tượng chua hóa, thiếu nước đặc biệt vào mùa khô. Kết quả nghiên cứu cho
thấy trồng chè ở vùng đất bazan đã làm cho đất bị mất khoảng 120 tấn khô/năm,
kéo theo sự thất thoát một lượng lớn các chất dinhdưỡng như nitơ, phốt pho, canxi-
magiê và các chất hữu cơ.
Để hạn chế tình trạng thoái hóa đất, việc áp dụng cả hai nhóm giải páhp công
trình và phi công trình rất cần thiết các tài nguyên thiên nhiên khác như: đất, rừng,
khoáng sản trong các quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội vùng cao theo hướng bền
vững.
4.1.2 Hiện trạng tài nguyên nước ở VN:
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam không phải là quốc gia mạnh
về tài nguyên nước bởi hơn 60% lượng nước bề mặt ở Việt Nam có nguồn gốc từ
các nước khác. Dù Chính phủ Việt Nam đã có nhiều nỗ lực nhưng khoảng một nửa
dân số Việt Nam vẫn chưa có đủ nước sinh hoạt. Những vấn đề nảy sinh từ biến đổi
GVHD: TS.GVC. VÕ XUÂN TÂM

NHÓM KTPT 7B Trang 14

khí hậu cũng tác động đến tài nguyên nước Việt Nam, làm gia tăng thách thức vốn
đã rất nghiêm trọng…
Ô nhiễm và suy thoái:
Báo cáo đánh giá ngành nước Việt Nam cho thấy, tổng lượng nước mặt hằng
năm của nước ta vượt tiêu chuẩn quốc tế, nhưng không đều giữa các mùa. Mùa khô
ở Việt Nam kéo dài và khắc nghiệt, lượng nước trong thời gian này chỉ bằng
khoảng 30% lượng nước của cả năm. Vào thời điểm này, khoảng một nửa trong số
16 lưu vực sông chính bị thiếu nước - bất thường hoặc cục bộ.

Về nước ngầm, Việt Nam có nguồn nước chất lượng tốt với trữ lượng lớn nhưng
ở nhiều nơi, nước ngầm bị khai thác tập trung nên đang có mức sụt giảm nghiêm
trọng.
Không chỉ suy thoái, tài nguyên nước còn ô nhiễm nghiêm trọng do nhiều

nguyên nhân. Tại Hà Nội, mỗi ngày thành phố thải ra khoảng 300.000 - 400.000m
3

nước thải. Tuy nhiên, lượng nước thải này không qua xử lý hoặc chỉ được xử lý sơ
bộ trước khi xả vào tuyến thoát nước chung, do đó nồng độ chất ô nhiễm ở một số
điểm xả rất cao. Ở TP Hồ Chí Minh, riêng lượng nước thải công nghiệp xả ra môi
GVHD: TS.GVC. VÕ XUÂN TÂM

NHÓM KTPT 7B Trang 15

trường mỗi ngày là 400.000m
3
. Một số ngành công nghiệp hóa chất, phân bón, khai
thác khoáng sản có lượng nước thải lớn, chứa nhiều chất độc hại được thải trực tiếp
ra các sông, ao, hồ, kênh, rạch nên đã gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Trên thực tế, tính trung bình, mỗi người Việt Nam có thể nhận 9.650m
3

nước/năm trong khi mức trung bình thế giới là 7.400m
3
. Tuy nhiên, xét về nguồn
nước nội địa, Việt Nam chỉ đạt mức trung bình kém của thế giới với
3.600m
3
/người/năm, ít hơn mức bình quân toàn cầu (4.000m
3
/người/năm). Nếu tính
theo tiêu chí nguồn nước nội địa, Việt Nam thuộc diện quốc gia thiếu nước. Điều
đáng lo là, vì 63% tổng tài nguyên nước mặt của chúng ta là ngoại lai, cụ thể ở lưu
vực sông Hồng, nguồn nước ngoại lai chiếm 50% tổng khối lượng nước bề mặt, còn

ở lưu vực sông Cửu Long, con số này là 90% nên chúng ta không thể chủ động bảo
vệ, khai thác và sử dụng nguồn nước, đặc biệt là khi các quốc gia ở thượng nguồn
ngày càng khai thác triệt để nguồn nước này. Trung Quốc đang xây dựng hàng chục
hồ chứa lớn trên sông Mê Kông, Thái Lan đã xây 10 hồ chứa vừa và lớn,
Campuchia dự kiến giữ nước Biển Hồ ở một mực nhất định để phát triển thủy lợi…
4.1.3. Hiện trạng tài nguyên biển ở VN:
Trong bối cảnh thế giới tiến mạnh ra biển ở thế kỷ 21 với các chiến lược biển
(và đại dương) của những quốc gia đầy tham vọng thì quy mô phát triển kinh tế
biển nước ta như hiện nay hoàn toàn chưa tương xứng với tiềm năng và những giá
trị mà biển sẽ đem lại cho dân tộc. Cho nên, muốn tiến ra biển phải chấp nhận đầu
tư lớn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phải duy trì được tinh bền vững
về mặt tài nguyên - môi trường.
Theo ước tính, quy mô kinh tế (GDP) biển và vùng ven biển Việt Nam bình
quân đạt khoảng 47-48% GDP cả nước, trong đó GDP của kinh tế thuần biển đạt
khoảng 20-22% tổng GDP cả nước. Trong các ngành kinh tế biển, đóng góp của
các ngành kinh tế diễn ra trên biển chiếm tới 98%, chủ yếu là khai thác dầu khí,
thủy sản, hàng hải (vận tải biển và dịch vụ cảng biển), du lịch biển. Các ngành kinh
tế có liên quan trực tiếp tới khai thác biển như đóng và sửa chữa tàu biển, chế biến
GVHD: TS.GVC. VÕ XUÂN TÂM

NHÓM KTPT 7B Trang 16

dầu khí, chế biến thủy sản, thông tin liên lạc, bước đầu phát triển, nhưng hiện tại
quy mô còn rất nhỏ bé (chỉ chiếm khoảng 2% kinh tế biển và 0,4% tổng GDP cả
nước). So với các nước , năng lực khai thác biển của Việt Nam chỉ bằng 1/7 của
Hàn Quốc, 1/20 của Trung Quốc, 1/94 của Nhật Bản, 1/260 của thế giới.
Gần đây, kinh tế trên một số đảo đã có bước phát triển nhờ chinh sách di dân và
đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng trên các đảo. Tuy vậy, quy mô kinh tế biển
Việt Nam chỉ đạt khoảng hơn 10 tỷ USD; trong khi sản lượng kinh tế biển của thế
giới ước đạt 1 .300 tỷ USD, Nhật Bản 468 tỷ USD, Hàn Quốc 33 tỷ USD. Cơ sở hạ

tầng các vùng biển, ven biển và hải đảo còn yếu kém, lạc hậu. Hệ thống cảng biển
nhỏ bé, manh mún, thiết bị nhìn chung còn lạc hậu và chưa đồng bộ nên hiệu quả
thấp. Các chỉ tiêu hàng thông qua cảng trên đầu người rất thấp so với các nước
trong khu vực.
Đến nay Việt Nam vẫn chưa có đường bộ cao tốc chạy dọc theo bờ biển, nối
liền các thành phố, khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển thành một hệ thống kinh
tế biển liên hoàn. Các sân bay ven biển và trên một số đảo nhỏ, bé. Các thành phố,
thị trấn, khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển đang trong thời kỳ xây dựng. Hệ
thống các cơ sở nghiên cứu khoa học - công nghệ biển, đào tạo nhân lực cho kinh tế
GVHD: TS.GVC. VÕ XUÂN TÂM

NHÓM KTPT 7B Trang 17

biển , các cơ sở quan trắc. dự báo, cảnh báo thời tiết, thiên tai, các trung tâm tìm
kiếm cứu hộ, cứu nạn còn nhỏ bé, trang bị thô sơ.
Du lịch biển là một tiềm năng kinh doanh lớn. Tuy nhiên, ngành du lịch biển
vẫn thiếu những sản phẩm dịch vụ biển - đảo đặc sắc có tính cạnh tranh cao so với
khu vực và quốc tế và chưa có khu du lịch biển tổng hợp đạt trình độ quốc tế. Khai
thác hải sản và nuôi trồng thủy sản nước lợ vốn là lĩnh vực kinh tế đặc trưng của
biển đã đóng góp khoảng 4,5 tỷ USD trong tổng giá trị thủy sản xuất khẩu (2008);
tạo việc làm cho hơn 1 triệu lao động đánh cá trực tiếp, nuôi thủy sản và 50 vạn lao
động dịch vụ liên quan. Mức khai thác dầu khí năm 2005 là 18,8 triệu tấn dầu thô
và 6,89 tỷ m
3
khí, sản phẩm dầu thô gần như xuất khẩu toàn bộ, kim ngạch xuất
khẩu dầu đạt 7,44 tỷ USD, là ngành có đóng góp lớn nhất cho GDP kinh tế biển
hiện nay.
Đối với lĩnh vực kinh tế biển liên quan trực tiếp đến biển như chế biến sản phẩm
dầu khí, chế biến thủy sản, đóng và sửa chữa tàu biển, sản xuất muối biển công
nghiệp, các dịch vụ kinh tế biển và ven biển (như thông tin, tim kiếm cứu nạn hàng

hải, dịch vụ viễn thông công cộng biển trong nước và quốc tế, nghiên cứu khoa học
- công nghệ biển, xuất khẩu thuyền viên, ) hiện mới bắt đầu được xây dựng và
hình thành, quy mô còn nhỏ bé. Các nhà chiến lược cho rằng, biển là di sản của
nhân loại, là nơi dự trữ cuối cùng của loài người nói chung và của dân tộc ta nói
riêng về lương thực, thực phẩm và nguyên, nhiên liệu. Vì vậy, phải cân nhắc đến
tính bền vững trong phát triển các kế hoạch và chính sách biển mà nguyên tắc chính
là phát triển một nền kinh tế sinh thái biển. Khai thác biển đảo đã đem lại những lợi
ích kinh tế - xã hội bước đầu quan trọng, nhưng việc sử dụng biển và hải đảo chưa
hiệu quả, thiếu bền vững. Trình độ khai thác biển của nước ta đang ở tình trạng lạc
hậu nhất trong khu vực. Việt Nam tuy là một quốc gia biển, song đến nay chúng ta
van chưa thực sự dựa vào biển để phát huy đúng tiềm năng và thế mạnh.
GVHD: TS.GVC. VÕ XUÂN TÂM

NHÓM KTPT 7B Trang 18

4.1.4. Hiện trạng tài nguyên năng lượng ở VN:
Ngành năng lượng Việt Nam hai mươi năm qua đã phát triển mạnh, cơ bản đáp
ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội đất nước. Tuy vậy, quy mô và hiệu quả của
ngành năng lượng còn thấp. Trạng thái an ninh năng lượng Việt Nam chưa được
bảo đảm (cắt điện xảy ra thường xuyên vào thời kỳ cao điểm; dự trữ dầu quốc gia
chưa đủ khả năng bình ổn giá khi có khủng hoảng giá dầu trên thị trường quốc
tế…). Việt Nam sẽ phải đối mặt với nguy cơ thiếu hụt nguồn năng lượng trong giai
đoạn từ 2015 - 2020 trở đi. Vấn đề năng lượng của Việt Nam sẽ chuyển từ giới hạn
trong phạm vi một quốc gia thành một phần của thị trường quốc tế và chịu sự tác
động thay đổi của nó.



Ngành năng lượng Việt Nam hai mươi năm qua đã phát triển mạnh trong tất cả
các khâu thăm dò, khai thác, sản xuất, truyền tải, phân phối và xuất nhập khẩu năng

lượng. Điều đó đã góp phần quan trọng vào quá trình phát triển và đổi mới đất
nước.
GVHD: TS.GVC. VÕ XUÂN TÂM

NHÓM KTPT 7B Trang 19

Đến nay, hệ thống năng lượng Việt Nam luôn dựa trên ba trụ cột chính là dầu
khí, than đá và điện lực. Thủy điện chiếm tỉ trọng lớn trong cơ cấu sản xuất điện
Việt Nam. Về hiện trạng tiêu thụ năng lượng, giai đoạn 2000-2009, tổng tiêu thụ
năng lượng sơ cấp của Việt Nam tăng trưởng trung bình 6,54%/năm và đạt 57 triệu
TOE vào năm 2009. Tiêu thụ than tăng trung bình 12,12%/năm, xăng dầu tăng
8,74%/năm, khí tăng 22,53%/năm, điện tăng 14,33%/năm, đạt 74,23 tỷ kWh năm
2009.

Tuy vậy, quy mô và hiệu quả ngành năng lượng còn thấp, biểu hiện ở chỉ tiêu
năng lượng trên đầu người còn thấp xa với trung bình của thế giới, ngược lại, cường
độ năng lượng cao hơn gần gấp hai lần trung bình thế giới. Trạng thái an ninh năng
lượng Việt Nam chưa được bảo đảm, hiện tượng xa thải phụ tải điện xảy ra thường
xuyên vào kỳ cao điểm. Dự trữ dầu quốc gia chưa đủ khả năng bình ổn giá khi xay
ra khủng hoảng giá dầu trên thị trường quốc tế.
GVHD: TS.GVC. VÕ XUÂN TÂM

NHÓM KTPT 7B Trang 20

Nghiên cứu của các nhà khoa học Viện Khoa học Năng lượng đã chỉ ra rằng
Việt Nam sẽ phải đối mặt với nguy cơ thiếu hụt nguồn năng lượng trong tương lai
không xa.
Chúng ta sẽ trở thành nước nhập khẩu năng lượng trước năm 2020. Nếu không
đảm bảo được kế hoạch khai thác các nguồn năng lượng nội địa hợp lý, tình huống
phải nhập khẩu năng lượng sẽ xuất hiện vào khoảng năm 2015. Điều đó cho thấy

vấn đề năng lượng của Việt Nam sẽ chuyển từ giới hạn trong phạm vi một quốc gia
thành một phần của thị trường quốc tế và chịu sự tác động thay đổi của nó. Việc
xem xét phát triển các nguồn năng lượng khác bên cạnh các nguồn năng lượng cơ
bản ngày càng trở nên quan trọng trong cơ cấu nguồn năng lượng Việt Nam trong
tương lai, đặc biệt là các nguồn năng lượng tái tạo. Theo đánh giá của các nhà khoa
học Viện Khoa học năng lượng, trong các nguồn năng lượng tái tạo, trong tương
lai, nguồn địa nhiệt có thể khai thác tổng cộng khoảng 340 MW; Năng lượng mặt
trời, gió, tổng cộng tiềm năng phát triển cả hai loại hình dự báo có thể đạt tới 800-
1000 MW vào năm 2025; Tiềm năng sinh khối được đánh giá vào khoảng 43-46
triệu TOE/năm. Việc phát triển nguồn năng lượng mới này không chỉ giải quyết vấn
đề cân bằng cung cầu năng lượng, an ninh năng lượng mà còn góp phần quan trọng
giảm phát thải khí nhà kính, chống biến đổi khí hậu toàn cầu.
Trong thời gian tới, các nghiên cứu khoa học về phương pháp luận và xây dựng
mô hình tối ưu phát triển tổ hợp năng lượng nhiên liệu để cung cấp cơ sở khoa học
cho việc xây dựng chiến lược, chính sách phát triển năng lượng bền vững và đảm
bảo an ninh năng lượng quốc gia cần được đẩy mạnh hơn nữa.
4.1.5 Hiện trạng khoáng sản ở VN hiện nay:
Nước ta có nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú và đa dạng, bao gồm cả
kim loại và phi kim loại như đồng, sắt, thiếc, vàng, than, dầu,v.v Đến nay công
tác điều tra khảo sát đã phát hiện và ghi nhận trên lãnh thổ nước ta có khoảng trên
5.000 mỏ và điểm quặng với trên 70 loại khoáng sản khác nhau, tập trung chủ yếu ở
các tỉnh miền núi và vùng cao.
GVHD: TS.GVC. VÕ XUÂN TÂM

NHÓM KTPT 7B Trang 21

Ngành công nghiệp khai thác khoáng sản ở Việt Nam mặc dù còn kém phát
triển, nhưng cũng đã đóng góp một phần quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh
tế- xã hội của đất nước, góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa hiện đại
hóa. Trong hơn một thập kỷ qua, tổng sản lượng khai thác khoáng sản hàng năm

của cả nước tăng trung bình 10%.
Khai thác tài nguyên khoáng sản đem lại lợi ích kinh tế rõ ràng, tuy nhiên phát
triển ngành công nghiệp khai khoáng cũng gây ảnh hưởng không nhỏ tới môi
trường tự nhiên và sức khỏe con người.
Chu trình khai thác khoáng sản thường qua 3 bước: mở cửa mỏ, khai thác và
đóng cửa mỏ. Mỗi bước bao gồm nhiều công đoạn khác nhau và có những tác động
khác nhau tới môi trường.

Trong quá trình mở cửa mỏ, vấn đề môi trường nảy sinh khi mở đường vào khu
mỏ, khi dọn mặt bằng để xây dựng cơ sở hạ tầng, khi mở rộng khai thác và đưa lực
lượng công nhân, cán bộ kỹ thuật vào khu mỏ. Ở vùng trung du hay miền núi do địa
hình hiểm trở, để mở đường phải nổ mìn phá núi gây tiếng ồn, đá văng nguy hiểm
tới cư dân và hệ động vật quanh khu mỏ. Ngoài ra, mở đường cũng phát sinh một
GVHD: TS.GVC. VÕ XUÂN TÂM

NHÓM KTPT 7B Trang 22

lượng bụi lớn, làm ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt, mất đất lâm nghiệp, thay đổi
cảnh quan thiên nhiên hoặc địa hình khu vực khai thác và một số tác động xã hội
khác.
Quá trình khai thác khoáng sản cũng phát sinh những tác động bất lợi tới môi
trường đất, nước và không khí như: Làm biến đổi địa hình khu vực; gây trượt lở
đất; gây xói mòn bồi lấp dòng chảy (mỏ mangan Tốc Tác - Cao Bằng); thu hẹp diện
tích và làm suy thoái chất lượng đất canh tác, đất rừng hoặc thậm chí cả đất ở (rừng
ở Cẩm Phả đã suy giảm chỉ còn 1.147 ha chỉ trong 5 năm từ 1985 đến 1990); làm
giảm nguồn nước mặt, nước ngầm và thay đổi chế độ thủy văn, thay đổi chất lượng
nước (nước suốit ở mỏ chì- kẽm Lang Hích, nước giếng ở mỏ vàng Hiếu Liêm, các
hồ ở khu vực mỏ than Mạo Khê đều có hàm lượng các chất độc hại như kem, đồng,
thủy ngân, asen, v.v vượt tiêu chuẩn cho phép); ô nhiếm không khí do bụi, khí
thải độc hại (ở các mỏ kín), tiếng ồn và độ rung lớn (ở các mỏ lộ thiên); ô nhiễm

phóng xạ (tại các mỏ titan, đồng sinh quyển và một số mỏ than); gia tăng các sự cố
môi trường như sạt lở gây chết người ở mỏ mangan Tốc Tác - Cao Bằng, nổ ở mỏ
dầu Lan Tây, sập hầm lò ở mỏ than Mông Dương đầu năm 2006 do hoạt động khai
thác than "thổ phỉ", v.v Có thể nói, khai thác khoáng sản trái phép không chỉ gây
lãng phí tài nguyên mà còn tiềm ẩn nhiền nguy cơ tai biến và tình trạng ô nhiễm
nước thải và chất thải rắn.
Trên thực tế, ngay cả khi đã ngừng khai thác khoáng sản, đóng cửa mỏ thì các
tác động bất lợi tới môi trường vẫn tiếp diễn trong thời gian dài. Tác động dễ thấy
nhất là tình trạng đất hoang hóa hoặc ô nhiễm môi trường (mỏ cromit ở Cổ Định -
Thanh Hóa, mỏ vàng ở Chiêm Hóa).
Hiện nay, trước thách thức lớn giữa nhu cầu khai thác phuc vụ quá trình phát
triển kinh tế - xã hội và đi đôi với nó là nguy cơ ô nhiễm môi trường và cạn kiệt tài
nguyên khoáng sản, Luật Khoáng sản, Luật Dầu khí, Kế hoạch hành động quốc gia
về bảo vệ môi trường trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiều văn
bản pháp lý khác liên quan đến ngành khai thác khoáng sản đã được thông qua.
GVHD: TS.GVC. VÕ XUÂN TÂM

NHÓM KTPT 7B Trang 23

Tuy nhiên, tình trạng ô nhiễm môi trường do khai thác khoáng sản vẫn diễn ra
phổ biến ở nhiều nơi xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau.
4.1.6. Thực trạng bảo vệ rừng và phát triển rừng ở VN:
Theo tài liệu của Maurand thì trước năm 1945, Việt Nam có 14 triệu ha rừng,
chiếm hơn 42% diện tích tự nhiên của cả nước, năm 1990 diện tích rừng chỉ còn
28,4 %, Năm 2000 diện tích tăng lên 33,2 % (11 triệu ha) (Niên giám thống kê,
2000), trong đó có 8 triệu ha rừng đã được giao cho chủ rừng (Hà Công
Tuấn,2001)…
Trên thực tế, rừng vẫn bị xâm hại và chỉ còn khoảng 10 % là rừng nguyên thủy
và từ năm 1996 – 2000, mỗi năm vùng Tây Nguyên mất đi 10.000 ha rừng. Trong
cả nước thì hiện nay mỗi năm chúng ta trồng được 200.000 ha rừng nhưng diện tích

rừng bị mất khoảng 120.000 – 150.000 ha.

Do nước ta trải dài từ Bắc xuống Nam và điạ hình có nhiều cao độ khác nhau so
với mực nước biển nên rừng phân bố trên khắp các dạng địa hình, với nét độc đáo
của vùng nhiệt đới và rất đa dạng: có nhiều rừng xanh quanh năm, rừng già nguyên
thủy, rừng cây lá rộng, rừng cây hỗn giao lá kim và lá rụng, rừng cây bụi và đặc
biệt là rừng ngập mặn

×