Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

giải pháp giúp học sinh lớp 10 THPT nâng cao hiệu quả tiếp cận văn bản nghị luận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.85 KB, 23 trang )

Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail: ột số
I- LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
1- Cũng như hầu hết các nước tiên tiến,ở nước ta hiện nay vấn đề chất lượng
giảng dạy khoa học nhân văn( đặc biệt môn Ngữ văn) trở thành mối quan tâm của
các nhà sư phạm, các nhà quản lí giáo dục và của toàn xã hội.
Ở nước ta cùng với những biến đổi và biến động xã hội, tâm lí về nhiều
mặt,kể cả những tác động từ bên ngoài, vấn đề giảng dạy trong nhà trường càng trở
thành mối quan tâm chung. Vì vậy không chỉ là công việc của bản thân nhà trường,
lại càng không phải chuyện văn chương chữ nghĩa đơn thuần mà là vấn đề có ý
nghĩa chính trị xã hội, trước mắt cũng như lâu dài.
Sau nhiều lần cải cách giáo dục, môn Văn trong nhà trường đã có những
bước tiến đáng kể.Chất văn chương, chất nhân văn của chương trình Ngữ văn được
nâng lên. Việc tiếp cận chương trình Ngữ Văn ở các cấp học, lớp học cũng được
mở rộng ở nhiều phương diện khác nhau.
Nếu như trước đây, chương trình sách giáo khoa ít chú ý thể loại văn nghị
luận (giảng văn nghị luận) thì chương trình mới xuất hiện khá nhiều loại này.Bên
cạnh việc lựa chọn các tác phẩm văn học mang tính hình tượng, sử dụng hư cấu với
một số thể loại chính như: thơ, truyện, tiểu thuyết, kịch (gọi chung là văn bản nghệ
thuật) là việc sử dụng tác phẩm văn học không hư cấu được viết bằng nhiều thể loại
khác nhau theo mỗi giai đoạn như: nghị luận, sử kí, văn tế, phú, dân ca lịch sử,
Như vậy, vấn đề thể loại văn học được mở rộng phạm vi, giáo viên và học sinh có
điều kiện bao quát về hệ thống thể loại văn học trong nhà trường. Đáng lưu ý nhất
là thể loại văn nghị luận đã được tuyển chọn giảng dạy chương trình Ngữ văn phổ
thông.
2- Văn nghị luận là một thể loại có vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống nhân
loại.Văn nghị luận thường phát ngôn cho một tư tưởng, một quan điểm, một chủ
trương, một lập trường xã hội nhất định. Vì thế, nội dung thường là các vấn đề có
tính chất thời sự, chính trị, văn hoá, quốc gia, dân tộc, lịch sử,….
Giáo viên: Trương Thị Hồng - Trường THPT Lê Viết Tạo
1
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail: ột số


Bởi tính nhật dụng của thể văn nghị luận nên trong chương trình đã đưa vào
dạy ở nhà trường phổ thông nhiều văn bản đặc sắc ở nhiều thể như: chiếu, hịch,
cáo, điều trần, tựa, tiểu luận, tuyên ngôn…Mặc dù khác nhau về thời điểm ra đời,
thể loại, nội dung bàn luận…song các văn bản nghị luận đều khẳng định được tài
năng, trí tuệ và tâm huyết của người sáng tác.
3- Việc tiếp cận các văn bản nghị luận trong nhà trường không chỉ cung cấp cho
học sinh vốn tri thức phong phú về văn hoá, xã hội, đạo đức, chính trị …mà còn bồi
đắp tư tưởng tình cảm, cách xử lí các vấn đề đặt ra trong cuộc sống một cách đúng
đắn, vừa phù hợp với tinh thần thời đại, vừa đảm bảo tinh thần quốc gia, dân tộc.
Tuy nhiên, trong thực tế dạy và học các văn bản nghị luận, thầy và trò vẫn gặp
không ít những khó khăn.Bản thân các văn bản nghị luận: về phạm vi phản ánh
tương đối rộng so với tầm hiểu biết phổ biến của học sinh; về hình thức thường
thiên về hệ thống lập luận với nhiều lí lẽ, đa dạng về phương thức biểu hiện và các
phương tiện nghệ thuật; ý tưởng sâu sắc, thâm thuý khó nắm bắt…Về phía học
sinh, do trình độ nhận thức, đặc điểm lứa tuổi, tâm lí thời đại… thì việc tiếp nhận
các văn bản như thế quả không dễ. Mặt khác,về phía người dạy, với vai trò là người
trực tiếp hướng dẫn học sinh tiếp cận văn bản thì thách thức đặt ra càng lớn, người
dạy phải vừa đảm bảo tính khách quan của tác phẩm, vừa truyền lại những rung
cảm của văn bản với tư cách là một sáng tạo nghệ thuật thật sự…
Từ vị trí đặc biệt của văn nghị luận trong chương trình giáo dục phổ thông, từ
thực tế dạy và học hiện nay, tôi xin được đề xuất một vài kinh nghiệm có tính chất
cá nhân nhằm góp phần đổi mới hướng nghiên cứu và giảng dạy môn Văn trong
nhà trường qua đề tài: “Một số giải pháp giúp học sinh lớp 10- THPT nâng cao
hiệu quả tiếp cận các văn bản nghị luận trong chương trình Sách giáo khoa
Ngữ Văn lớp10( CTC)”.
III- NỘI DUNG ĐỀ TÀI.
Giáo viên: Trương Thị Hồng - Trường THPT Lê Viết Tạo
2
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail: ột số
1- Cơ sở lí luận.

Văn nghị luận là một thể văn ra đời từ rất lâu. Ở Trung Hoa, văn nghị luận có
từ thời Khổng Tử (551- 479
TCN
). Ở Việt Nam, văn nghị luận cũng là một thể loại có
truyền thống lâu đời, có giá trị và tác dụng hết sức to lớn trong trường kì lịch sử,
trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Có thể kể từ Chiếu dời đô(1010) của Lí
Công Uẩn (Lí Thái Tổ), Hịch tướng sĩ (1285) của Trần Quốc Tuấn cho đến Bình
Ngô đại cáo (1428) của Nguyễn Trãi; từ bài Tựa Trích diễm thi tập (1497) của
Hoàng Đức Lương, Chiếu cầu hiền (1788) của Ngô Thì Nhậm đến bản điều trần
Xin lập khoa luật (1867) của Nguyễn Trường Tộ; Chiếu Cần Vương (1885) đến
Hịch đánh Pháp sau này…
Có thể nói trong suốt trường kì lịch sử dân tộc, văn nghị luận là một thể văn
phản ánh rõ nhất đời sống tinh thần, tư tưởng, ý chí và khát vọng của cả một dân
tộc.Nó không chỉ có ý nghĩa đối với những vấn đề lớn lao của đất nước, thời đại mà
còn rất gần gũi và có ý nghĩa trong đời sống công dân hiện nay. Do đó, văn nghị
luận ngày càng phát triển mạnh mẽ, càng trở nên đa dạng và phong phú hơn.
* Văn nghị luận thường được phân loại theo nhiều cách:
- Xét theo tiêu chí nội dung luận bàn, người ta phân văn nghị luận thành hai thể:
+ Văn chính luận (luận bàn về các vấn đề chính trị, xã hội, đạo đức ) như Bình
Ngô đại cáo – Nguyễn Trãi, Tuyên ngôn Độc lập – Hồ Chí Minh, Về luân lý xã hội
ở nước ta (trích “Đạo đức và luân lí Đông Tây”) – Phan Châu Trinh, Tiếng mẹ đẻ,
nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức – Nguyễn An Ninh…
+ Văn phê bình văn học (luận bàn các vấn đề văn học nghệ thuật) như Một thời đại
trong thi ca – Hoài Thanh, Mấy ý nghĩ về thơ – Nguyễn Đình Thi.
- Xét theo tiêu chí hình thức thể loại, người ta chia ra: văn nghị luận thời trung đại
(chiếu, cáo, hịch, bình sử, điều trần, ) và văn nghị luận hiện đại (tuyên ngôn, lời
kêu gọi, phê bình, xã luận )
Giáo viên: Trương Thị Hồng - Trường THPT Lê Viết Tạo
3
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail: ột số

2- Thực trạng vấn đề.
Trong chương trình Ngữ văn phổ thông hiện nay, việc tuyển chọn dạy văn
bản nghị luận rất phong phú về đề tài và đa dạng về thể loại: Có tác phẩm nói về
những vấn đề lớn lao của dân tộc, thời đại như tinh thần, ý chí của cha ông trong
công cuộc chống ngoại xâm giữ nước (Sông núi nước Nam, Hịch Tướng sĩ, Bình
Ngô đại cáo, Tuyên ngôn Độc lập). Có tác phẩm phản ánh khát vọng của dân tộc về
việc xây dựng một quốc gia hùng cường độc lập (Chiếu dời đô, Văn bia khắc ở Văn
miếu - Quốc Tử Giám…) hoặc có tác phẩm phản ánh nhận thức thẩm mỹ của dân
tộc và nhân loại, phản ánh về văn chương nghệ thuật bằng những bài nghị luận văn
học súc tích, tài hoa, uyên bác (Tựa Trích Diễm thi tập, Một thời đại trong thi ca,
Tiếng nói của văn nghệ, Nhận đường, GBốp và Nghệ thuật…), lại có những tác
phẩm bàn luận về các vấn đề hết sức gần gũi trong đời sống hàng ngày như luận về
phép học (La Sơn Phu Tử), Đi bộ ngao du (Ru xô), Về luân lý xã hội ở nước ta
(Phan Châu Trinh), Bàn về đọc sách (Chu Quang Tiềm – Trung Quốc), Chuẩn bị
hành trang vào thế kỷ mới (Phó Thủ tướng Vũ Khoan)…
Hệ thống văn bản nghị luận trong chương trình Ngữ văn (ban cơ bản) ở nhà
trường phổ thông:
STT Văn bản Tác giả Thể loại Lớp
01 Đại cáo bình Ngô Nguyễn Trãi Cáo 10
02 Tựa “Trích diễm thi tập” Hoàng Đức
Lương
Tựa 10
03 Hiền tài là nguyên khí của quốc
gia (trích “Bài kí đề danh tiến sĩ
khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại
Bảo thứ ba”)
Thân Nhân Trung Bia 10
Giáo viên: Trương Thị Hồng - Trường THPT Lê Viết Tạo
4
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail: ột số

04 Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc
Tuấn (trích “Đại Việt sử kí toàn
thư”)
Ngô Sĩ Liên Sử kí
trung đại
10
05 Thái sư Trần Thủ Độ (trích “Đại
Việt sử kí toàn thư”)
Ngô Sĩ liên Sử kí
trung đại
10
06 Chiếu cầu hiền Ngô Thì Nhậm Chiếu 11
07 Xin lập khoa luật (trích “Tế cấp
bát điều”)
Nguyễn Trường
Tộ
Điều trần 11
08 Về luân lý xã hội ở nước ta (trích
“Đạo đức và luân lí Đông Tây”)
Phan Châu Trinh Văn nghị
luận hiện
đại
11
09 Tiếng mẹ đẻ, nguồn giải phóng
các dân tộc bị áp bức
Nguyễn An Ninh Văn nghị
luận hiện
đại
11
10 Một thời đại trong thi ca (trích) Hoài Thanh Văn nghị

luận hiện
đại
11
11 Tuyên ngôn Độc lập Hồ Chí Minh Tuyên
ngôn
12
12 Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao
sáng trong văn nghệ của dân tộc
Phạm Văn Đồng Văn nghị
luận hiện
đại
12
13 Mấy ý nghĩ về thơ (trích) Nguyễn Đình Thi Văn nghị
luận hiện
đại
12
14 Nhìn về vốn văn hóa dân tộc (trích
“Đến hiện đại từ truyền thống”)
Trần Đình Hượu Văn nghị
luận hiện
12
Giáo viên: Trương Thị Hồng - Trường THPT Lê Viết Tạo
5
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail: ột số
đại
Từ thực tế phân phối chương trình sách giáo khoa, ta thấy văn nghị luận Việt
Nam trung đại được phân bố tập trung ở hai khối lớp 10- 11 và được chọn dạy học
phong phú nhiều thể loại: chiếu, cáo, thư, tựa, bình sử….
* Tuy nhiên trong quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy những khó khăn khi
dạy loại văn bản này đó là:

- Cả giáo viên và học sinh đọc mà chưa hiểu tường tận chiều sâu mà tác giả
thể hiện trên văn bản.
- Cả người dạy và người học rất “ngại” khi đụng chạm đến phần này.Nhất là
với học sinh khi chưa có thói quen chủ động tìm hiểu khám phá tác phẩm bởi việc
đọc hiểu văn bản nghị luận luôn là vấn đề khó khăn đối với học sinh.Trong văn bản
nghị luận( văn học Việt Nam trung đại) tư tưởng tác giả khó nắm bắt bởi cách viết
hàn lâm, với hệ thống điển tích, điển cố dày đặc…Điều đó khiến HS càng đọc càng
không hiểu bởi vốn kiến thức hạn chế, từ ngữ “xa lạ” khiến các em chán nản.
Mặt khác, thời lượng dành cho việc tìm hiểu các văn bản này là quá ít (Chỉ
1- 2 tiết/ một bài). Giáo viên lẫn học sinh phải “chạy đua” với thời gian. Giáo viên
không thể cắt nghĩa tỉ mỉ hay diễn giải một cánh thấu đáo cho học sinh hiểu.Sách
giáo khoa có chú thích nhưng không phải em nào cũng đọc và hiểu được. Do đó
các đơn vị bài học không được khám phá một cách đầy đủ và có chiều sâu.
Đối chiếu với vai trò, chức năng của các văn bản nghị luận mà sách giáo
khoa lựa chọn, tôi cho rằng không còn cách nào là giáo viên phải trăn trở, tìm cách
tiếp cận với loại bài này một cách tốt nhất.Với một số giải pháp đề xuất này, tôi
mong rằng sẽ giúp giáo viên- học sinh có hướng tiếp cận bài học một cách chủ
động, hiệu quả hơn.
3- Giải pháp thực hiện.
Giáo viên: Trương Thị Hồng - Trường THPT Lê Viết Tạo
6
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail: ột số
Về cơ bản văn nghị luận là sản phẩm của tư duy lô gíc. Nhưng vẻ đẹp của
một áng văn nghị luận không chỉ thể hiện ở những tư tưởng đúng đắn, sâu sắc, nó
còn thể hiện ở hình thức lập luận phong phú, lý lẽ đanh thép, giọng điệu thuyết
phục cùng sự cuốn hút bởi nhiệt tình và thái độ của mỗi tác giả trước vấn đề nghị
luận.
Vì thế việc tiếp cận các văn bản nghị luận thật không đơn giản.Vấn đề đó đặt
ra thách thức cho cả thầy và trò: thầy phải làm sao tổ chức hướng dẫn giúp trò nắm
được tinh thần chung văn bản; trò tiếp nhận, lĩnh hội văn bản để từ đó trang bị hệ

thống kiến thức, hoàn thiện kĩ năng sống…
Với kinh nghiệm bản thân, qua thực tế giảng dạy các văn bản nghị luận trong
chương trình THPT nói chung, và các văn bản nghị luận trong chương trình lớp 10
nói riêng, Tôi thường tiến hành những giải pháp sau:
3.1- Trang bị hệ thống kiến thức có tính lí luận về văn nghị luận.
- Việc trang bị hệ thống kiến thức có tính lí luận về văn nghị luận thực sự cần
thiết và trở thành “tiêu chí cứng” trước khi tiếp cận với bất kì văn bản nghị luận
nào.Bởi có nắm vững hệ thống khái niệm, đặc điểm về văn nghị luận thì HS mới
có thể từ đó tiếp cận, khai thác văn bản ở nhiều góc độ: cách thức tư duy, nghệ
thuật lập luận, vấn đề triển khai Với giải pháp này, chúng ta có thể dành riêng về
thời gian và hướng dẫn thành một bài học cụ thể về văn nghị luận trong những
buổi học phụ đạo( nếu có), trong tiết học tự chọn, hoặc lồng ghép trong những tiết
học làm văn Việc làm này có thể vất vả, nhưng đầu tư ngay từ ban đầu, khi học
sinh đã nắm chắc kiến thức có tính lí luận về văn nghị luận thì việc tiếp cận các
văn bản nghị luận sẽ dễ dàng, khả thi và đỡ mất thời gian công sức.
- Chúng ta có thể đi từ việc tìm hiểu, khái quát một số văn bản nghị luận đã
học trong chương trình cấp II, từ đó dẫn dắt HS hiểu: khái niệm, đặc điểm, cách
phân loại văn nghị luận…
3.1.1. Văn NL là gì?
Giáo viên: Trương Thị Hồng - Trường THPT Lê Viết Tạo
7
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail: ột số
- Văn Nghị luận là một thể loại văn học dùng lí lẽ, phán đoán, chứng cứ để bàn
luận về một vấn đề nào đó (xã hội, chính trị, văn học …) nhằm tranh luận, thuyết
phục, bác bỏ, khẳng định, phủ nhận…giúp người đọc hiểu rõ vấn đề nêu ra.
3.1.2. Đặc điểm văn NL
- Về chức năng: Văn NL trực tiếp trình bày các luận điểm, thể hiện tư tưởng
về chính trị, triết học, đạo đức, xã hội, hay bày giải quan điểm, đạo lí ở đời, … Văn
NL trung đại thể hiện ở các bài: chiếu, hịch, cáo, biểu, bình sử, điều trần, thư, …
Văn NL không chỉ có tư tưởng đúng đắn mà còn có những tình cảm lớn làm thành

mạch nguồn của nó. Vì thế văn NL bồi dưỡng cho con người những tình cảm sâu
sắc đúng đắn về thời đại, dân tộc, nhân loại.
- Về kết cấu: Do có nhiều thể loại khác nhau nên kết cấu của chúng cũng rất
đa dạng. Song, trên bình diện chung có thể thấy, bài văn nghị luận thường gồm ba
phần chính dưới dạng tổng – phân – hợp: Vấn đề nghị luận/ nội dung nghị luận/
Khái quát, bày tỏ quan điểm tư tưởng. Các thao tác phân tích, so sánh, giải thích,
bác bỏ, chứng minh, … thường xuất hiện trong văn NL.
- Về tổ chức lời văn: Văn NL đòi hỏi sự chặt chẽ của lập luận, sự xác đáng
của các luận cứ, sự thuyết phục của luận chứng, … Văn NL thời trung đại có thể là
văn vần, văn xuôi, nhưng phổ biến nhất là văn biền ngẫu. Văn NL hiện đại phổ
biến nhất là câu văn xuôi có cấu trúc ngữ pháp rõ ràng, chính xác đúng quy chuẩn.
Tuỳ theo sở thích của tác giả, văn NL cũng thường xuất hiện các hình ảnh ẩn dụ, so
sánh, liên tưởng làm cho các tư tưởng mềm mại, gợi cảm hoặc hóm hỉnh. Lời văn
NL có khi được tác giả trực tiếp bộc bạch tư tưởng, tình cảm, nỗi lòng của mình,
3.1.3. Đặc điểm của văn NL thời trung đại
Ngoài những đặc điểm chung vừa nêu, văn NL trung đại còn mang những
đặc điểm cơ bản của thi pháp văn học trung đại. Từ những dữ liệu trong SGK Ngữ
Văn 10 có tham chiếu đối sánh với công trình Mấy vấn đề về thi pháp văn học
Giáo viên: Trương Thị Hồng - Trường THPT Lê Viết Tạo
8
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail: ột số
trung đại Việt Nam, chúng tôi tạm xác định hệ thống thi pháp văn học Việt Nam
trung đại gồm các biểu hiện:
- Một là, cộng đồng văn học (gồm người viết văn và người đọc văn) quan
niệm văn học phản ánh hiện thực và đời sống tâm hồn của con người thông qua hệ
thống ước lệ dày đặc, phức tạp và nghiêm ngặt.
- Hai là, các thể loại văn học chưa được phân biệt tách bạch, văn sử triết bất
phân.
- Ba là, cộng đồng văn học xem những cái thuộc về quá khứ là chuẩn mực.
Tâm lí sùng cổ ấy dẫn đến hệ thống điển tích, thi liệu, … dày đặc trong các tác

phẩm văn học trung đại Việt Nam. Nó cũng khiến cho các văn gia thi sĩ không chú
trọng phát huy cái riêng và cá tính cá nhân.
Văn NL trung đại vừa mang những đặc điểm của văn học trung đại vừa mang
đặc điểm của văn NL như chúng tôi vừa trình bày.
3.2- Tìm hiểu những vấn đề bên ngoài có liên quan đến văn bản nghị
luận( thể loại sáng tác, lịch sử thời đại, hoàn cảnh sáng tác, tiểu sử tác giả…)
- Nghị luận là một thể loại văn học đặc biệt, dùng lí lẽ, phán đoán, chứng cứ
để bàn luận về một vấn đề nào đó (chính trị, xã hội, văn học nghệ thuật…). Là sản
phẩm của tư duy lô gíc, văn nghị luận“viết về những vấn đề nóng bỏng thuộc nhiều
lĩnh vực đời sống khác nhau: chính trị, kinh tế, triết học, văn hóa… Mục đích của
văn nghị luận là bàn bạc, thảo luận, phê phán hay truyền bá tức thời một tư tưởng,
một quan điểm nào đó nhằm phục vụ trực tiếp cho lợi ích của một tầng lớp, một
giai cấp nhất định… Đặc trưng cơ bản của văn nghị luận là tính chất luận thuyết –
khác với văn học nghệ thuật, văn chương nghị luận trình bày tư tưởng và thuyết
phục người đọc chủ yếu bằng lập luận, lý lẽ…” (Từ điển thuật ngữ Văn học - Lê Bá
Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) - NXB Đại học Quốc gia, 1999).
Hơn nữa đó là các tác phẩm nghị luận trung đại, mỗi tác phẩm thuộc về một thể
Giáo viên: Trương Thị Hồng - Trường THPT Lê Viết Tạo
9
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail: ột số
riêng.Vì thế muốn lĩnh hội được trọn vẹn tác phẩm, học sinh không phải chỉ tìm
hiểu, khai thác những yếu tố bên trong tác phẩm, mà còn phải nắm bắt, hiểu được
những yếu tố bên ngoài liên quan trực tiếp đến tư tưởng, nghệ thuật của tác phẩm
như : thể loại sáng tác, lịch sử thời đại, hoàn cảnh sáng tác, tiểu sử tác giả….
3.2.1- Về thể loại sáng tác.
- Thể loại giữ vai trò quan trọng trong văn học. Nhà nghiên cứu văn học, nhà bác
học Nga M.Bakhtin đã từng khẳng định: “Đằng sau cái mặt ngoài sặc sỡ và đầy tạp
âm ồn ào của tiến trình văn học, người ta không nhìn thấy cái vận mệnh to lớn và
cơ bản của văn và ngôn ngữ, mà nhân vật chính nơi đây trước hết là các thể loại,
còn trào lưu , trường phái chỉ là những nhân vật hạng nhì hoặc hạng ba”. Thể loại

là “nhân vật chính”, nhân vật số một của tiến trình văn học, điều này càng đúng với
văn học trung đại Việt Nam.
Vị trí của thể loại trong văn học Trung đại quan trọng tới mức nhiều khi tên
tác phẩm gắn liền với tên thể loại: Thiên đô chiếu, Hịch tướng sĩ, Bình Ngô đại
cáo,…Việc xác định thể loại là định hướng tốt cho tiếp cận các tác phẩm trong
chương trình nói chung, và các tác phẩm nghị luận trung đại lớp 10 nói riêng.Vì thế
trước khi tiếp cận bên trong tác phẩm, giáo viên cần cho học sinh nắm được những
kiến thức khái lược nhất về thể loại sáng tác.
- Với vấn đề này,giáo viên có thể dành một khoảng thời gian nhất định trong phần
tiểu dẫn để giới thiệu khái quát đại cương cho học sinh hiểu.Đặc biệt là với các thể
nghị luận trung đại- tính trừu tượng, khái quát cao- giáo viên phải cung cấp thêm
những kiến thức xoay quanh thể loại như: khái niệm, mục đích chức năng, kết cấu,
cách thức lập luận…thậm chí có dẫn chứng minh hoạ.Để từ đó, Học sinh có định
hướng rõ ràng khi tiếp cận văn bản.
Giáo viên: Trương Thị Hồng - Trường THPT Lê Viết Tạo
10
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail: ột số
* Ví dụ: Khi dạy văn bản “Đại cáo bình Ngô” của Nguyễn Trãi, trong phần tiểu
dẫn, giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu về thể cáo: mục đích chức năng, kết
cấu, cách thức lập luận…Từ đó có thể đạt các chuẩn kiến thức như gợi ý sau:
- Cáo là thể văn nghị luận có từ thời cổ ở Trung Quốc, thường được vua chúa hoặc
thủ lĩnh dùng để trình bày một chủ trương hay công bố kết quả một sự nghiệp để
mọi người cùng biết.
Trong thể cáo, có loại văn cáo thường ngày như chiếu, sách của vua truyền
xuống về một vấn đề nào đó, có loại văn đại cáo mang ý nghĩa một sự kiện trọng
đại, có tính chất quốc gia.
Nếu mục đích chức năng của hịch là cổ động, thuyết phục, kêu gọi đấu tranh
hoặc hiểu dụ, răn dạy thì mục đích của cáo là tuyên ngôn hoăc tổng kết một vấn đề,
một sự kiện. Cáo được viết sau khi sự kiện xảy ra.
- Cũng như hịch, cáo là thề văn nghị luận mang tính hùng biện, do đó kết cấu

phải chặt chẽ, lí luận phải sắc bén lời lẽ phải đanh thép, trang trọng, hào hùng.
Về kết cấu, nhìn chung bài cáo thường gồm bốn phần :
+ Phần mở đầu: nêu luận đề chính nghĩa.
+ Phần thứ hai: lên án, tố cáo tội ác của lực lượng phi nghĩa.
+ Phần thứ ba: thuật lại quá trình chinh phạt gian khổ và tất thắng của lực lượng
chính nghĩa với cảm hứng ngợi ca.
+ Phần thứ tư: tuyên bố chiến quả, khẳng định sự nghiệp chính nghĩa
- Về lập luận, để tăng sức thuyết phục, khẳng định, bài cáo thường có sự kết hợp
giữa lí lẽ và thực tiễn, giữa tư duy logic và tư duy hình tượng.
- Về lời văn, thể cáo vốn ban đầu được viết theo văn xuôi cổ, nhiêng về luận
thuyết hơn là tự sự. Dần dần về sau, có khi thể cáo dùng đan xen tản văn với biền
văn. Nhưng nhiều hơn cả thể cáo được viết bằng văn biền ngẫu, không có vần hoặc
có vần, thường có đối, câu dài ngắn không gò bó, mỗi cặp hai vế đối nhau. Tiến
Giáo viên: Trương Thị Hồng - Trường THPT Lê Viết Tạo
11
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail: ột số
thêm mỗi bước, cáo được viết theo thể tứ lục- một kiểu văn biền ngẫu, gồm hai câu
sóng đôi, mỗi câu mười chữ, được chia thành hai vế: vế trước bốn chữ, vế sau sáu
chữ( “ đau lòng nhức óc/ chốc đà mười mấynăm trời- Nếm mật nằm gai/ há phải
một hai sớm tối”)
- Trong văn cáo có sự kết hợp giữa lời văn tự sự và lời văn trữ tình. Lời văn
tự sự để kể, thuật, tả, tái hiện lại quá trình chinh phạt thắng lợi của lực lượng chính
nghĩa. Lời văn trữ tình để bộc lộ cảm xúc, tâm trạng, thái độ của chủ thể bài cáo.
Tuy nhiên, ngôn ngữ trần thuật của cáo thấm đượm cảm xúc.Vì vậy ngôn ngữ chủ
yếu của thể cáo là ngôn ngữ chính luận- trữ tình.
Sự trang trọng, tính chất thậm xưng, cách điệu, giàu chất biểu tượng là những
đặc điểm nổi bật của lời văn ở thể cáo. Điều này cho thấy, lời văn chịu sự qui định,
vừa phát huy cao nhất mục đích, chức năng của thể cáo là tuyên ngôn và tổng kết.
3.2.2- Bối cảnh sáng tác.
Bất kì một phát ngôn, một văn bản nào cũng đều được sản sinh ra trong một

bối cảnh nhất định và chỉ được lĩnh hội đầy đủ, chính xác trong bối cảnh của nó.Đó
có thể là bối cảnh giao tiếp rộng ( là toàn bộ những nhân tố xã hội, địa lí, chính trị,
kinh tế,văn hoá, phong tục, tập quán… của cộng đồng ngôn ngữ); đó có thể là bối
cảnh giao tiếp hẹp ( là nơi chốn, thời gian phát sinh câu nói, văn bản…).
Với tư cách là một tác phẩm văn học, văn bản nghị luận cũng chịu sự chi
phối của điều kiện lịch sử xã hội. Những vấn đề phức tạp của lịch sử xuất hiện
thường tác động lớn đến đời sống, số phận con người. Tất cả đều trở thành nguồn
cảm hứng để người nghệ sĩ phản ánh, một mặt ghi lại những biến đổi của thời cuộc,
mặt khác, bày tỏ chính kiến, quan niệm và cách nhìn nhận, đánh giá của mình. Vì
vậy, tác phẩm bao giờ cũng truyền đến người đọc một tư tưởng, một thái độ, thậm
chí có tác dụng liên kết xã hội bằng những hành động cụ thể. Phân tích các văn bản
nghị luận nhất thiết phải tìm hiểu lịch sử xuất hiện của chúng mới hiểu rõ và lí giải
Giáo viên: Trương Thị Hồng - Trường THPT Lê Viết Tạo
12
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail: ột số
chính xác: Tác phẩm phản ánh vấn đề gì? Phản ánh để làm gì? Phản ánh như thế
nào? Tác phẩm có ý nghĩa ra sao với đương thời và hiện nay? Bài học rút ra từ sự
phản ánh đó?.v.v…
Như vậy việc xem xét hoàn cảnh sáng tác là việc làm cần thiết để hiểu tư
tưởng, nội dung văn bản, thông điệp mà người sáng tác muốn gửi gắm vào tác
phẩm. Hoàn cảnh sáng tác có thể được xem xét từ hai góc độ:
+ Hoàn cảnh rộng: Bối cảnh lịch sử, thời đại mà tác giả sáng tác.
+ Hoàn cảnh hẹp: hoàn cảnh cụ thể ra đời tác phẩm ( thời gian, địa điểm, tâm thế
sáng tác…).
* Ví dụ: Khái quát sơ bộ về hoàn cảnh sáng tác một số văn bản nghị luận
chương trình lớp 10 như sau:
Tác phẩm Hoàn cảnh rộng (Thời đại- lịch sử- xã
hội…)
Hoàncảnh hẹp
(Thời gian, hoàn

cảnh sáng tác)
Đại cáo
bình Ngô
(Nguyễn
Trãi)
- Triều đại Hồ Quý Ly (1400-1407), Triều đại
Hậu Trần (1407-1413) với các phong trào khởi
nghĩa “Binh áo đỏ” (1410), Lam Sơn (1418).
- Triều đại Lê Sơ (1428-1527).
- Các nhân vật hào kiệt: Lê Lợi (Lê Thái Tổ), Lê
Lai, Nguyễn Trãi, Lê Văn An, Lê Văn Linh,
Lưu Nhân Chú, Lê Liễu…
- Tháng 1 năm 1428
sau chiến thắng giặc
Minh, Nguyễn Trãi
thừa lệnh Lê Lợi
viết “Đại cáo bình
Ngô” báo cáo trước
toàn thể dân
chúng,chấm dứt hơn
20 năm đô hộ của
giặc Minh,mở ra kỉ
Giáo viên: Trương Thị Hồng - Trường THPT Lê Viết Tạo
13
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail: ột số
nguyên độc lập dân
tộc.
Tựa “Trích
diễm thi
tập”

(Hoàng
Đức
Lương)
- Triều đại Lê Thánh Tông (1460-1497) có
nhiều đóng góp vào đời sống mọi mặt của
quốc gia Đại Việt, hoạt động sôi nổi trên
nhiều lĩnh vực bởi nhiều tài năng: tư tưởng
cao siêu, anh minh quyết đoán, hùng tài đại
lược, võ giỏi văn hay, tay không rời sách,
từng sáng lập “Hội Tao đàn” gồm 28 tiến sĩ
giỏi thơ văn nhất nước thời đó. Lê Thánh
Tông là một nhà văn hoá lớn.
- Việc thi cử, giáo dục thời này thịnh đạt nhất
trong lịch sử giáo dục và khoa cử thời phong
kiến Việt Nam, nhiều công trình biên soạn
tầm cỡ xuất hiện: Đại Việt sử kí toàn thư
(1479), Thiên Nam dư hạ tập…
- Sáng tác năm
1497.
Hiền tài là
nguyên khí
của quốc
gia
(Thân
NhânTrung)
- Triều đại Lê Thánh Tông (1460-1497) có
nhiều đóng góp vào đời sống mọi mặt của
quốc gia Đại Việt, hoạt động sôi nổi trên
nhiều lĩnh vực bởi nhiều tài năng: tư tưởng
cao siêu, anh minh quyết đoán, hùng tài đại

lược, võ giỏi văn hay, tay không rời sách,
từng sáng lập “Hội Tao đàn” gồm 28 tiến sĩ
giỏi thơ văn nhất nước thời đó. Lê Thánh
Tông là một nhà văn hoá lớn.
- Việc thi cử, giáo dục thời này thịnh đạt nhất
- Sáng tác 1484
Giáo viên: Trương Thị Hồng - Trường THPT Lê Viết Tạo
14
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail: ột số
trong lịch sử giáo dục và khoa cử thời phong
kiến Việt Nam, nhiều công trình biên soạn
tầm cỡ xuất hiện: Đại Việt sử kí toàn thư
(1479), Thiên Nam dư hạ tập…
3.2.3- Tìm hiểu những nét lớn về tiểu sử tác giả.
- Cuộc đời, sự nghiệp của tác giả chi phối nhiều đến qúa trình sáng tác tác
phẩm.Việc tìm hiểu tiểu sử tác giả sẽ giúp chúng ta hiểu sâu hơn tác phẩm. Đặc
biệt với những văn bản nghị luận trung đại thì tác giả là những trí thức phong kiến,
họ có những vị trí nhất định trong xã hội, có những vai trò, tư cách khác nhau khi
sáng tác.Vì vậy khi tìm hiểu ta chỉ cần tìm hiểu những yếu tố cơ bản về tiểu sử tác
giả đã chi phối ảnh hưởng đến tác phẩm, để từ đó tiếp cận, hiểu sâu hơn tinh thần
văn bản.
3.3.Khai thác các yếu tố bên trong văn bản nghị luận.
- Muốn chiếm lĩnh trọn vẹn một tác phẩm văn học, người học phải đi sâu tìm
hiểu, khám phá bên trong tác phẩm.Việc tìm hiểu, nghiên cứu tác phẩm văn học
bao giờ cũng phải tiến hành trực tiếp trên hai phương diện nội dung và hình thức.
Đây là những căn cứ cụ thể và khoa học nhất để tiếp nhận, lĩnh hội tác phẩm. Dưới
góc độ lí luận văn học, nội dung và hình thức là hai phạm trù có mối quan hệ chặt
chẽ, thống nhất không thể tách rời, tác động qua lại, quy định tính chất tồn tại của
nhau: nội dung chỉ có thể thể hiện trong hình thức, hình thức phải là hình thức của
một nội dung. Nếu nội dung tác phẩm cho phép người đọc lí giải câu hỏi: tác phẩm

viết về vấn đề gì, mục đích, ý nghĩa, giá trị,… thì hình thức giúp người đọc lí giải
tác phẩm viết như thế nào, hiệu quả ra sao, tính thẩm mĩ, khả năng rung cảm và
thuyết phục người đọc thế nào,…
- Khi bám sát văn bản trên hai phương diện này, cần chỉ ra:
Giáo viên: Trương Thị Hồng - Trường THPT Lê Viết Tạo
15
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail: ột số
+ Về mặt nội dung: cần tìm hiểu và nắm đề tài, chủ đề, cảm hứng nghệ thuật, hình
tượng của tác phẩm, các sự kiện, các chi tiết, tình tiết, biến cố… Xâu chuỗi chúng
lại theo những lôgic nhất định giúp người tiếp nhận lĩnh hội được tư tưởng, tình
cảm, thái độ, quan điểm, lập trường và giá trị của tác phẩm trên nhiều bình diện.
+ Về mặt hình thức: cần tìm hiểu các hình thức diễn đạt và các phương tiện diễn
đạt như hệ thống ngôn từ (với các đặc tính: chính xác, biểu cảm, hàm súc, hình
tượng; các lớp từ, các loại từ…), hệ thống biện pháp nghệ thuật, cách thức lập luận,
nhịp điệu, giọng điệu, kết cấu…Mục đích cuối cùng là chỉ ra tác dụng của chúng
trong việc biểu hiện tư tưởng, tình cảm, thái độ…của người tạo lập, sức thuyết
phục của tác phẩm, qua đó mà đánh giá được tài năng và tấm lòng của người tạo
lập.
Hơn bất cứ hoạt động nào, việc phân tích trực tiếp văn bản đòi hòi người
giáo viên phải có năng lực thực sự, trình độ kiến thức nhiều mặt, phân tích có nghệ
thuật,… mới giải mã được các lớp ý nghĩa một cách toàn diện, thấu đáo. Bất cứ
một vấn đề nào, nếu được lí giải một cách sâu sắc, thấu tình đạt lí sẽ thuyết phục
được người đọc, từ đó mới xuất hiện những rung cảm thật sự để mà yêu mến, quý
trọng.
3.4- Tăng cường kĩ năng đọc – hiểu, khả năng tư duy, trí tưởng tượng,
bồi đắp tâm hồn của học sinh trong mỗi giờ dạy.
- Văn nghị luận giàu tính trừu tượng, thiên nhiều về lí lẽ, lập luận.Với các
tác phẩm văn chính luận trung đại do ra đời trong bối cảnh văn hoá, xã hội phong
kiến nên chịu sự chi phối bởi hệ tư tưởng chính thống cũng như quan niệm văn
chương của thời đại. Trong quá trình dạy học người giáo viên một mặt phải tôn

trọng tính chỉnh thể của văn bản, bám sát văn bản để hướng dẫn học sinh đọc-hiểu,
mặt khác để hiểu thấu đáo các luận điểm và cách thức lập luận của tác giả trung
Giáo viên: Trương Thị Hồng - Trường THPT Lê Viết Tạo
16
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail: ột số
đại, giáo viên phải trau dồi tri thức văn hoá đọc cho bản thân và hướng dẫn học
sinh cách đọc tác phẩm của tiền nhân đúng với thi pháp của một thời đại, phù hợp
với ngữ cảnh đã sản sinh văn bản. Do đó, phương pháp dạy tích hợp trở thành
nguyên tắc bắt buộc. Khi người học có được kĩ năng đọc-hiểu thể loại thì việc
hướng dẫn, tổ chức học sinh tự chiếm lĩnh tri thức trở nên dễ dàng. Người thầy lúc
này trở thành nhà thiết kế, người kiến trúc sư của giờ học văn.
Văn chính luận trung đại bên cạnh những đặc trưng có tính phổ quát của thể
loại như tính lập luận chặt chẽ, dẫn chứng xác thực, sự uyên bác của người viết,
giọng điệu hùng hồn; kết hợp hài hòa vẻ đẹp trí tuệ và vẻ đẹp tình cảm, cảm xúc;
văn chính luận trung đại còn mang tính chất văn-sử-triết bất phân. Tính chất
nguyên hợp này làm nên giá trị độc đáo của thể loại. Do đó, trong quá trình hướng
dẫn học sinh đọc-hiểu, giáo viên phải nắm vững hệ thống tri thức thể loại và
phương pháp tích hợp cũng như tri thức văn hóa học để người dạy thực sự làm chủ
đối tượng.
- Mặt khác, với vai trò là người tổ chức hướng dẫn, giáo viên phải giúp học
sinh tự nhận thức, tự chiếm lĩnh tri thức thông qua những tiết dạy. Đó không chỉ là
những tri thức trong sách vở, mà còn là những tri thức được vận dụng trong cuộc
sống.Với các tác phẩm nghị luận, học sinh sẽ hiểu sâu hơn về lịch sử, thời đại, chủ
thể sáng tác, tư tưởng, thông điệp… được gửi gắm qua văn bản.
- Cùng với quá trình nhận thức, giáo viên còn phát huy vai trò tưởng tượng,
liên tưởng của học sinh để hình tượng có sức bay bổng và cảm hoá.Việc tạo ra
được hoàn cảnh “có vấn đề” sẽ làm nảy sinh cảm xúc, sự kích thích của cảm xúc
trong quá trình tri giác sẽ là điều kiện hoạt động của trí nhớ và hình thành biểu
tượng. Theo đó, hình dung, liên tưởng và tưởng tượng càng được mở rộng. Nếu
được đẩy mạnh, sự hút dẫn đối tượng vào bài học càng lớn.

Liên tưởng, tưởng tượng của học sinh có các loại sau đây: tưởng tượng tái
hiện, sáng tạo, có phê phán, phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát. Tuỳ thuộc vào
Giáo viên: Trương Thị Hồng - Trường THPT Lê Viết Tạo
17
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail: ột số
sự dẫn dắt, định hướng của giáo viên, sự liên tưởng và tưởng tượng của học sinh có
những biểu hiện cụ thể khiến bài học sinh động, hấp dẫn hơn. Vì thế, vai trò của
giáo viên là xây dựng câu hỏi (nghĩa là làm thay đổi tình thái của giờ học, hay nói
cách khác là mở ra tình huống “có vấn đề”, xác định tâm thế thực tại và đặt học
sinh vào các yêu cầu của việc nhận thức) để khai thác hết khả năng này của học
sinh. Vận dụng linh hoạt các dạng câu hỏi sau đây: phát hiện, tái hiện, phân tích, so
sánh, tranh luận, vận dụng kiến thức thông qua các hình thức:
+ Liên tưởng hiện thực xác định tác phẩm trong quan hệ với hiện thực của đời
sống xã hội.
+ Liên tưởng mối quan hệ giữa nhân vật và hoàn cảnh, không gian và thời gian
nghệ thuật, các nhân vật với nhau và với hoàn cảnh điển hình.
+ Liên tưởng mối quan hệ giữa các chi tiết, tình huống nghệ thuật, các điểm sáng
thẩm mĩ cùng hoặc ngược chiều,…
+ Tưởng tượng về khả năng phát triển của các hình tượng nghệ thuật trung tâm.
+ Liên tưởng với các hình ảnh, hình tượng, biểu tượng của tác phẩm khác.
- Văn học là một bộ giàu tính nghệ thuật. Một tác phẩm văn học giàu tính nghệ
thuật không chỉ ở chỗ nó đem lại cho người đọc sự thích thú, hấp dẫn nhờ nghệ
thuật diễn đạt mà ở chỗ cái đẹp ấy đến lượt mình lại tạo ra trong lòng người đọc
những rung động thẩm mĩ, tình yêu đối với cái đẹp, làm cảm nhận thẩm mĩ của con
người ngày một phong phú hơn.Muốn có được điều này, đòi hỏi người giáo viên
Ngữ văn phải có những phẩm chất, tư chất nghệ thuật, để từ đó giúp học sinh tiếp
nhận lĩnh hội văn bản một cách tự nguyện như một nhu cầu tinh thần thực sự.
Để “gia tăng chất văn học” cho bài dạy các văn bản nghệ thuật, người dạy có
thể sử dụng nhiều cách: kể chuyện giai thoại, kể chuyện danh nhân, kể chuyện lịch
sử,… một cách lôi cuốn, hấp dẫn, đúng lúc, đúng chỗ, vừa kể vừa kèm theo những

lời bình luận sâu sắc, thấm thía ứng với một khía cạnh nào đó của bài học; vận
Giáo viên: Trương Thị Hồng - Trường THPT Lê Viết Tạo
18
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail: ột số
dụng những hiểu biết về văn hoá, nghệ thuật mỗi giai đoạn cũng là cách phụ hoạ
cho bài giảng thêm phong phú, sinh động; dùng những bài thơ, câu chuyện có tính
chất triết lí phù hợp với từng chi tiết của văn bản; cùng với giọng văn, khẩu khí,
động tác, cử chỉ, điệu bộ là cách diễn đạt lôi cuốn…để bài giảng đạt hiệu quả tốt
nhất (Tất nhiên, cần chú ý tính cân đối về thời gian quy định cho mỗi bài).
4- Kiểm nghiệm.
Từ thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy việc tiếp cận một tác phẩm nghị luận
(nghị luận trung đại) trong chương trình là tương đối khó với các em học sinh.Bản
thân Tôi luôn trăn trở, suy nghĩ để tìm ra những giải pháp khả quan nhất giúp học
sinh cải thiện kĩ năng tiếp cận bài học một cách chủ động, có hiệu quả.Trước đây
khi chưa áp dụng các giải pháp này, tôi thấy đôi khi bài dạy còn có phần lúng túng,
chưa chủ động được về thời gian, học sinh chưa hiểu rõ bài học, tính thực hành
chưa cao. Sau một năm áp dụng vào thực tiễn giảng dạy tại 2 lớp 10D và 10H
trường THPT Lê Viết Tạo- Hoằng Hoá, tôi nhận thấy những giải pháp này có
những ưu điểm sau đây:
1. Giờ học gây hứng thú thực sự cho học sinh, sự yêu thích tăng lên rõ
rệt. Không những học sinh hiểu văn bản mà còn hiểu thêm về lịch sử.
2. Phát huy được sự tích cực chủ động của học sinh trong giờ học. Giờ
học tác phẩm trở thành giờ phát hiện những thông tin, nuôi dưỡng cảm xúc và
mĩ cảm nghệ thuật, bày tỏ quan điểm, thái độ và cách nhìn mới mẻ của học
sinh.
3. Phát huy năng lực nhiều mặt của học sinh: khả năng bình luận, thẩm
bình, ngôn ngữ và cách diễn đạt được nâng lên rõ rệt.
Giáo viên: Trương Thị Hồng - Trường THPT Lê Viết Tạo
19
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail: ột số

Kết quả cụ thể:
HỌC KỲ I ( khi chưa áp dụng giải pháp)
Lớp

số
Điểm kiểm tra
0 - 2 3 - 4 5 - 6 7 - 8 9 – 10
SL % SL % SL % SL % SL %
10D8 42 2 4,8 10 23,8 25 60,5 5 11,9 0 0
10E8 44 4 9,0 13 29,5 25 57,0 2 4,5 0 0
HỌC KỲ II ( sau khi đã áp dụng giải pháp)
Lớp

số
Điểm kiểm tra
0 - 2 3 - 4 5 - 6 7 - 8 9 – 10
SL % SL % SL % SL % SL %
10D8 42 0 0 4 9,5 21 60,0 16 38,1 1 2,4
10E8 44 1 0 6 13,6 26 61,4 10 22,7 1 2,3
VI. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT.
1. Việc giảng dạy các văn bản nghị luận trong chương trình Ngữ Văn nói
chung và trong chương trình lớp 10 nói riêng có một ý nghĩa quan trọng: không chỉ
mở rộng phạm vi hiểu biết về các thể loại văn học, hiểu biết về các vấn đề chính trị
xã hội, văn hoá (trong nhiều không gian, thời gian khác nhau)…mà còn xây dựng
Giáo viên: Trương Thị Hồng - Trường THPT Lê Viết Tạo
20
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail: ột số
cho học sinh thái độ đúng, quan điểm tiến bộ về các vấn đề chính trị xã hội, văn
hoá, hình thành những phẩm chất cao đẹp, năng lực ứng xử, biết phát hiện và giải
quyết các vấn đề một cách thoả đáng, hợp lí, bồi dưỡng các kĩ năng cần thiết cho

hành trang tương lai.
2. Thực tiễn giảng dạy văn bản nghệ thuật nói chung, văn bản chính luận nói
riêng, việc tuân thủ nguyên tắc: bám sát hoàn cảnh nảy sinh tác phẩm (hoàn cảnh
xã hội, hoàn cảnh cảm hứng), bám sát văn bản ngôn từ tác phẩm, dựa vào đặc điểm
cá tính sáng tạo của nhà văn, những tri thức về văn hoá và quy luật tâm lí, xã hội …
vẫn là những căn cứ khoa học vững chắc trong việc chiếm lĩnh và triển khai nội
dung, hình thức, ý nghĩa và các giá trị tác phẩm.
3. Việc giảng dạy các văn bản nghị luận gặp không ít khó khăn về nhiều mặt
(tầm hiểu biết về chính trị, lịch sử, văn hoá, nghệ thuật, tài liệu tham khảo, thời
gian, không gian của văn bản, tâm lí giảng dạy của giáo viên và tiếp nhận của học
sinh…). Vì vậy, đòi hỏi giáo viên phải nỗ lực rèn luyện không ngừng mới mong có
những giờ học hiệu quả thật sự theo tinh thần đổi mới hiện nay.
Một số giải pháp dạy học các văn bản nghị luận trong chương trình Ngữ văn
lớp 10 nói riêng và trong chương trình THPT nói chung theo hướng này không phải
là những “lý thuyết trừu tượng” mà là sự cụ thể hoá bằng việc thiết kế bài giảng,
quá trình hiện thực hoá bài giảng trên lớp. Việc đưa ra một vài giải pháp có tính bổ
trợ thêm như trên chỉ là những kinh nghiệm có tính chất cá nhân mà bản thân tôi
đúc rút trong quá trình giảng dạy. Vì thế, khó tránh khỏi những khiếm khuyết và
hạn chế. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ phía quý thầy cô và các bạn
đồng nghiệp trong tỉnh!
Thanh Hoá ngày 20 tháng 05 năm 2013
Xác nhận của Hiệu trưởng Tôi xin cam đoan SKKN trên đây là do tôi
tự viết, không sao chép của người khác
Giáo viên: Trương Thị Hồng - Trường THPT Lê Viết Tạo
21
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail: ột số

Trương Thị Hồng
Tài liệu tham khảo:
1- Từ điển thuật ngữ văn học- Lê Bá Hán,Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi( chủ

biên)- NXB Đại Học Quốc gia Hà Nội, 1997.
2- Phân tích tác phẩm văn học Trung đại Việt Nam từ góc nhìn thể loại- Lã
Nhâm Thìn- NXB Giáo dục Việt Nam, 2009.
3- Mấy vấn đề thi pháp Trung đại Việt Nam- Trần Đình Sử- Nxb Giáo dục Hà
Nội, 1999.
4- Bồi dưỡng nâng cao văn học lớp 10- Nguyễn Hữu Quang, Phan Thị Huỳnh
Yến- NXB TP. Hồ Chí Minh, 2002.
5- Thiết kế bài học tác phẩm văn chương ở nhà trường phổ thông- Tập 1- Phan
Trọng Luận- NXB Giáo dục, 1998.
6- Sách giáo khoa Ngữ văn10- Tập I - Nhiều tác giả- NXB Giáo dục, 2006
Giáo viên: Trương Thị Hồng - Trường THPT Lê Viết Tạo
22
Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail: ột số
7- Sách giáo khoa Ngữ văn 10 Nâng cao- Tập I - Nhiều tác giả- NXB Giáo dục,
2006
8- Sách giáo khoa Ngữ văn10- Tập II- NXB Giáo dục, 2006
9- Sách giáo khoa Ngữ văn 10 Nâng cao- Tập II - Nhiều tác giả- NXB Giáo
dục, 2006

Giáo viên: Trương Thị Hồng - Trường THPT Lê Viết Tạo
23

×