Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

một vài kinh nghiệm rèn luyện kỹ năng làm bài nghị luận văn học cho học sinh thpt - lớp 12.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (303.46 KB, 45 trang )

BM01-Bìa SKKN

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
Đơn vị THPT Nguyễn Đình Chiểu
----------------------Mã số: ........................
(Do HĐKH Sở GD&ĐT ghi)

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT VÀI KINH NGHIỆM RÈN LUYỆN
KỸ NĂNG LÀM BÀI NGHỊ LUẬN VĂN HỌC
CHO HỌC SINH THPT - LỚP 12.

Người thực hiện: Nguyễn Thị Lê
Lĩnh vực nghiên cứu:
- Quản lý giáo dục :

1

- Phương pháp dạy học bộ môn: Ngữ văn 1
- Lĩnh vực khác:

1

Có đính kèm: Các sản phẩm khơng thể hiện trong bản in SKKN
1 Mơ hình

1 Phần mềm

1 Phim ảnh


1 Hiện vật khác

Năm học: 2013-2014.
1


2


Sáng kiến kinh nghiệm: MỘT VÀI KINH NGHIỆM RÈN LUYỆN KỸ NĂNG
LÀM BÀI NGHỊ LUẬN VĂN HỌC CHO HỌC SINH THPT- LỚP 12.
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Tác phẩm văn học nghệ thuật là một “chiếc gương soi” của cuộc sống, là một
kho kinh nghiệm sống, một kho tư liệu dồi dào về cuộc sống là ý thức, băn khoăn,
rung động của con người trước cuộc sống. Cho nên để hiểu cuộc sống một cách cụ
thể, để có thể hình dung một cách cụ thể thời đại đã qua, không gì có thể thay thế
bằng tác phẩm văn chương.( Lí luận văn học – Vấn đề và suy nghĩ, NXB GD,1998)
Từ việc tiếp nhận những giá trị tư tưởng, thẩm mĩ qua tác phẩm văn học trong
nhà trường nói riêng, mỗi học sinh tự bày tỏ sự nhận thức, tình cảm, thái độ … của
bản thân thông qua bài làm văn. Đó là kết qủa của q trình lĩnh hội tri thức, là thành
quả học tập của các em.
Là một giáo viên dạy Văn, tơi ln mong muốn học trị của mình làm được
những bài văn hay, đạt điểm cao trong các bài kiểm tra, qua các kì thi. Tuy nhiên, đó
khơng phải là một việc đơn giản. Bài văn hay trước hết phải là bài văn viết đúng
(đúng theo nghĩa tương đối, nghĩa là trong khuôn khổ nhà trường). Hay và đúng có
mối quan hệ mật thiết với nhau. Bài văn hay trước hết phải viết theo đúng yêu cầu của
đề bài, đúng những kiến thức cơ bản, hình thức trình bày đúng quy cách …
Xác định đúng yêu cầu của đề bài là rất cần thiết, bước này giúp học sinh thể
hiện đúng chủ đề của bài văn, tránh lạc đề hay xa đề. Xác định đúng yêu cầu của đề
cũng giúp người viết lập được một dàn ý tốt và do đó cũng tránh được sự dài dịng, lan

man “Dây cà ra dây muống”, “Trống đánh xi, kèn thổi ngược” tạo được sự thống
nhất, hài hoà giữa các phần của bài viết, tránh tình trạng “Đầu voi đuôi chuột”. Mặt
khác, việc viết đúng kiến thức cơ bản vô cùng quan trọng, kiến thức cơ bản là “bột”,
mà “Có bột mới gột nên hồ”.
Hình thức trình bày là sự thể hiện hình thức bố cục của bài văn trên trang giấy.
Một bài văn đúng quy cách là bài văn mà khi nhìn vào tờ giấy phần bài làm của học
sinh chưa cần đọc, chúng ta đã thấy rõ ba phần: Mở bài, thân bài và kết bài. Muốn thế,
người viết không chỉ phải chú ý đến nội dung mà hình thức cũng phải rõ ràng.
Trong thực tế dạy – học tơi thấy bài văn của học sinh mình chưa đáp ứng được
những yêu cầu của một văn bản trong nhà trường. Bài văn của các em vẫn còn hiện
tượng lạc đề, xa đề do không chú ý đến việc tìm hiểu đề; đoạn văn trong bài thường
sai quy cách ( các em thường viết đoạn khơng có câu chủ đề hoặc có nhiều câu chủ đề
trong một đoạn,…). Bên cạnh đó, sự liên kết giữa các đoạn văn chưa lôgíc ( triển khai
ý nọ sọ ý kia, không nhất quán, trùng lặp,…).Thậm chí, có rất nhiều em đã học đến
lớp 12 nhưng hồn tồn khơng biết làm một bài văn nghị luận đúng yêu cầu ( một số
em để giấy trắng, một số khác thì viết linh tinh để đối phó trong bài kiểm tra). Trong
3


khi đó phần nghị luận văn học chiếm tỉ lệ 50% điểm số bài thi, cho nên tình trạng học
sinh điểm dưới trung bình là rất cao. Đó cũng là lý do khiến các em lo sợ, không hào
hứng khi học môn Ngữ văn, nhất là phân môn Tập làm văn.
Từ những lý do đó, tơi đã tiến hành tìm tòi, nghiên cứu và vận dụng vào thực tế
giảng dạy “Một vài kinh nghiệm rèn luyện kỹ năng làm bài nghị luận văn học cho
học sinh THPT- Lớp 12”
II.CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Cở sở lý luận:
Chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo Quyết định số 16/2006/QĐBGDĐT ngày 5/6/2006 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã nêu: “Phát huy tính tích cực,
tự giác, chủ động, sáng tạo của HS, phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối
tượng học sinh, điều kiện của từng lớp học, bồi dưỡng cho HS phương pháp tự

học, khả năng hợp tác, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác
động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho HS”.
Tổ chức hoạt động dạy học theo hướng tích cực, phát huy năng lực chủ động, sáng
tạo ở cả người dạy lẫn người học, chú trọng khái quát nội dung kiến thức tạo thuận lợi
để học sinh lĩnh hội và phát triển các thao tác tư duy khoa học. Tăng cường và sử
dụng hợp lý các phương tiện trong dạy học,“nâng cao chất lượng thực hành hướng
tới đảm bảo sự phát triển năng lực cho mỗi cá nhân”( Tài liệu bồi dưỡng giáo viên
dạy lớp 9- Vụ giáo dục trung học trang 6,7). Lớp 9 cũng như lớp 12 là những lớp cuối
cấp nên có một vị trí hết sức quan trọng: vừa phải tổng kết được những kiến thức, kĩ
năng được học tập, rèn luyện trong quá trình học, vừa phải chuẩn bị cho các kỳ thi, tạo
tâm thế, tiềm lực cho các em lên bậc Đại học hoặc đi vào cuộc sống thực tế.
Nghị luận nói chung, nghị luận về một tác phẩm Văn học nói riêng có vị trí rất
quan trọng trong chương trình Tập làm văn lớp 12. Nghị luận văn học là một dạng
nghị luận mà các vấn đề đưa ra bàn luận là các vấn đề văn học: tác phẩm, tác giả, thời
đại văn học, trào lưu, các giá trị về nội dung, nghệ thuật, hình tượng,... của một tác
phẩm cụ thể.
Xuất phát từ đặc trưng của văn học: có tính hình tượng, hàm súc, đa nghĩa, hệ
thống; là nghệ thuật ngôn từ; là phương tiện chuyển tải những tư tưởng, tình cảm của
nhà văn để từ đó mang đến nội dung giáo dục sâu sắc về tình cảm, thẩm mĩ cho người
đọc. Do vậy, khi làm bài nghị luận văn học, người viết phải phát hiện được các giá trị
nội dung tư tưởng và nghệ thuật thẩm mĩ, nền cảm xúc, của tác phẩm, tác giả đồng
thời thể hiện được năng lực cảm thụ, thưởng thức văn học của cá nhân.
Mặt khác, cũng cần hiểu rằng một tác phẩm văn học ra đời là đứa con tinh thần
của nhà văn; chịu sự chi phối của tư tưởng, quan niệm và tài năng của tác giả. Đồng
thời, nó cũng phản ánh một thời đại lịch sử (bối cảnh tác phẩm) trong một hoàn cảnh
4


xã hội nhất định (hồn cảnh ra đời). Do đó, khi làm bài nghị luận văn học cần huy
động tri thức về thời đại của tác giả, về hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, về văn học và

về tiếng Việt... Khi nghị luận về tác phẩm văn học phải đặt tác phẩm vào thời đại mà
tác phẩm phản ánh cũng như hoàn cảnh tác phẩm ra đời để thấy rõ giá trị nội dung và
nghệ thuật của tác phẩm.
Theo cách thức nghị luận và phương pháp lập luận có thể chia thành các kiểu bài
nghị luận văn học: phân tích, bình luận, chứng minh. Người ra đề cũng có thể kết hợp
nhiều yêu cầu trong một đề văn. Đó là lí do học sinh thường gặp kiểu bài hỗn hợp.
Như vậy, để làm tốt bài nghị luận văn học, cần cho học sinh hiểu rõ tính chất
tổng hợp của kiểu bài này. Giáo sư Lê Trí Viễn đã có lời nhắn nhủ: “Dạy văn lấy
cảm làm đầu”. Người giáo viên dạy học sinh làm bài văn nghị luận văn học không thể
nghèo nàn cảm xúc. Cho nên hướng gợi ý học sinh trình bày những cảm nhận, đánh
giá tác phẩm phải xuất phát từ những rung cảm thẩm mĩ chân thật; phải biết kết hợp
linh hoạt nhiều thao tác lập luận; phát huy tính tích cực, sáng tạo của cá nhân, khơng
gị ép theo khn mẫu.
Năm 2008, Bộ Giáo dục tiếp tục triển khai cho giáo viên trên toàn quốc một số
vấn đề đổi mới phương pháp dạy học mơn Ngữ văn, trong đó phương pháp giảng dạy
phân mơn Tập làm văn được chú trọng nhiều nhất cũng đã mở ra nhiều hướng suy
nghĩ mới, giúp giáo viên giảng dạy tốt hơn nếu biết tự nghiên cứu và vận dụng sáng
tạo hơn.
2.Cơ sở thực tiễn:
Môn Ngữ văn trong nhà trường THPT gồm có ba phân mơn: Đọc văn, tiếng Việt
và Tập làm văn.Trong thực tế, phân môn Tập làm văn ln được coi là phân mơn khó
nhất khơng chỉ đối học sinh mà còn đối với cả giáo viên. Bởi để làm được bài văn hay
đòi hỏi tư duy, kỹ năng và một phần năng khiếu của người viết.
Về phía giáo viên:
Trong chương trình nghị luận văn học lớp 12, nghị luận về một tác phẩm, một
đoạn trích văn xuôi; nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ; nghị luận về một ý kiến bàn
về văn học đã được tách ra thành từng phần, từng bài để hướng dẫn cho học sinh nắm
được đặc trưng cơ bản của từng dạng bài.Từ đó, giúp học sinh có cách làm từng loại
bài văn cụ thể theo yêu cầu của đề bài.Tuy nhiên, do thời gian theo PPCT dành cho
tiết học Tập làm văn này ít. Hơn nữa, bản thân tôi cũng như một số giáo viên trong tổ

khi dạy những tiết Tập làm văn chưa chú trọng, chưa đầu tư nghiên cứu kỹ nội dung,
kiểu bài,...để có phương pháp dạy phù hợp.Thông thường đến những tiết Tập làm văn,
giáo viên chỉ hướng dẫn học sinh nắm được nội dung của bài làm văn đó. Chẳng hạn,
cũng hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề, lập dàn ý chi tiết, viết mở bài, thân bài, kết bài
cho những đề văn mà sách giáo khoa đưa ra. Nhưng một thực tế, nhiều đề trong số
5


những đề đó nó khơng hồn tồn thiết thực với chương trình, mục đích mà học sinh
lớp 12 đang học.Trong khi đó, một số giáo viên lại khơng linh động khi soạn giáo án
để thay thế đề bài khác phù hợp với chương trình học sinh lớp 12 đang tiếp cận mà
vẫn đảm bảo yêu cầu về kiểu bài.
Việc ra đề kiểm tra của giáo viên hiện nay cũng còn nhiều điều cần bàn. Một số
giáo viên không nghiên cứu kỹ chương trình, khơng nắm chắc u cầu của từng kiểu
bài sẽ dẫn đến ra đề không chuẩn mực, không đảm bảo tính khoa học, tính tư tưởng,
tính thực tế. Đề văn khơng có tác dụng gợi tư duy sáng tạo khi cảm thụ văn học của
học sinh.
Về phía học sinh:
Theo kết quả điều tra của bản thân tôi vào đầu năm học bằng phiếu lấy ý kiến:
Học phân môn Tp lm vn:

Thớch ă

Khụng thớch ă

Nng lc hc Tp lm vn ca em mc no?
Gii ă
Lm bi Tp lm vn:

Khỏ ă

Khú ă

TB ă

Yu ă
D ă

Theo bn thõn em, th loại văn bản nào sau đây đối với em là khú lm bi
nht?
Thuyt minh ă
Ngh lun ă
Kt qu kho sỏt cho thấy, trong tổng số 70 phiếu điều tra học sinh khối 12, trong
đó có đến hơn 2/3 ý kiến không thích học phân môn Tập làm văn, các em cho đây là
phân mơn khó và học rất yếu, đặc biệt là ở thể loại văn nghị luận. Cụ thể:
Chưa coi trong bộ môn với các môn khoa học tự nhiên nên chưa đầu tư, chưa có
thái độ học tập đúng đắn; chưa có thói quen chuẩn bị bài trước khi đến lớp.
Học sinh học Tập làm văn một cách máy móc. Trước một đề bài các em ít nghiên
cứu, chỉ đọc lống thống rồi viết theo kiểu đối phó.
Nhiều bài văn chưa đạt yêu cầu do chưa biết cách viện dẫn, dẫn chứng nghèo
nàn, thiếu chính xác và không lôgíc.
Học văn nghị luận mà chưa biết cách phân biệt thể loại, kiểu bài.
Thiếu năng lực phân tích cần thiết, chưa thấy được cái hay cái đẹp trong văn
chương.
Nhiều học sinh khi viết bài mắc lỗi về dùng từ, đặt câu, lập luận, viết đoạn, hành
văn và nhiều lỗi khác.

6


Trước thực trạng trên, bản thân tôi là người phụ trách bộ môn của trường, đồng

thời là giáo viên trực tiếp giảng dạy lớp 12, tôi luôn băn khoăn, trăn trở làm thế nào để
giúp học sinh nắm và làm tốt bài Tập làm văn, đặc biệt là bài nghị luận văn học.
Với mục đích là rèn luyện cho học sinh lớp 12 thành thạo những kỹ năng cơ bản
nhất, thiết thực nhất, thậm chí là cụ thể hóa khi làm bài nghị luận văn học. Và mục
tiêu chung là giúp hơn 60% học sinh yếu của trường cũng có thể đậu tốt nghiệp môn
Ngữ văn.
Sáng kiến kinh nghiệm này nhằm đạt được mục đích và mục tiêu trên, thực tế
những năm qua chúng tôi đã vận dụng trong việc dạy học làm văn nghị luận văn học ở
lớp 12 và đã đạt được những kết quả bước đầu đáng ghi nhận: Trên 85% học sinh khối
12 khơng cịn “chống ngợp” với văn nghị luận, không rơi vào tâm lí sợ làm nghị luận
văn học; học sinh chủ động, tích cực và thích học và làm nghị luận văn học hơn. Điều
đó thể hiện rất rõ qua kết quả các bài kiểm tra, bài thi.Tỉ lệ đậu tốt nghiệp được nâng
lên đáng kể qua từng năm.
Những giải pháp tôi đưa ra đây chắc chắn khơng cịn là những giải pháp mới lạ.
Nhưng đây là những giải pháp thiết thực, cụ thể hóa để phù hợp với đối tượng học
sinh trường THPT Nguyễn Đình Chiểu .
III.TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP
Để có một bài văn hồn chỉnh người viết phải trải qua các bước :Tìm hiểu đề,
tìm ý; lập dàn ý; viết bài văn; đọc và sửa bài. Tuy nhiên ở phạm vi bài viết này tôi chỉ
tập trung một số vấn đề có tính thiết thực nhất đối với học sinh lớp 12 như sau:
1.Tìm hiểu để
Để tìm hiểu để tốt, người viết cần đọc kĩ đề, chú ý từ ngữ then chốt để xác định
đúng yêu cầu về nội dung, hình thức và tư liệu sử dụng.
a)Xác định kiểu bài: Đề bài yêu cầu nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ; nghị
luận về một đoạn trích, một tác phẩm văn xuôi hay nghị luận về một ý kiến bàn về
văn học? Lời yêu cầu về kiểu bài theo lối trực tiếp hay gián tiếp? Thông thường học
sinh khi nhận được đề bài hay bỏ qua khâu này, nhưng các em lại không biết rằng đây
là việc quan trọng giúp các em nhận thức tốt các khâu còn lại trong bước tìm hiểu đề.
Vì vậy, khi dạy tơi luôn yêu cầu học sinh thực hiện khâu này trước tiên mà không bao
giờ được bỏ qua.

Chẳng hạn:
Đề 1: Phân tích hình tượng người lính Tây Tiến qua đoạn thơ sau:
...Tây Tiến đồn binh khơng mọc tóc
Qn xanh màu lá dữ oai hùm
7


Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sơng Mã gầm lên khúc độc hành...
( Trích Tây Tiến - Quang Dũng)
Đề 2: Vẻ đẹp của một đoạn trong bài thơ Tây Tiến –Quang Dũng
Đề 3: Phân tích bài thơ sau của Hồ Chí Minh:
"Tiếng suối trong như tiếng hát xa,
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa.
Cảnh khuya như vẽ, Người chưa ngủ,
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà."
Đề 4: Phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ngồi xa của Nguyễn Minh Châu.
Đề 5: Phân tích giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo trong đoạn trích Vợ chồng
Aphủ của nhà văn Tơ Hồi.
Đề 6 : Nhà nghiên cứu Đặng Thai Mai cho rằng: “Nhìn chung văn học Việt
Nam phong phú, đa dạng; nhưng nếu cần xác định một chủ lưu, một dịng chính,
qn thơng kim cổ, thì đó là văn học yêu nước”. Hãy trình bày suy nghĩ của anh (chị)
đối với ý kiến trên.
Với các đề bài trên, giáo viên hướng dẫn học sinh làm thế nào để xác định đúng
nhất, nhanh nhất các dạng đề. Muốn vậy, giáo viên phải hướng học sinh dựa vào từ
ngữ có tính chất định hướng, gợi yêu cầu của đề. Đồng thời, phải giúp học sinh thấy

được sự khác nhau của các từ ngữ trong đề nổi để từ đó có cơ sở xác định đúng các
thao tác trọng tâm.
Những đề bài cho ở trên, lưu ý những từ, cụm từ in nghiêng, gạch chân giúp học
sinh nhận diện yêu cầu của đề bài. Căn cứ vào đó ta nhận diện được:
Đề1 là nghị luận về một đoạn thơ; đề 1 lời yêu cầu về kiểu bài trực tiếp- đề đóng
(đề nổi), đề 2 lời yêu cầu về kiểu bài gián tiếp- đề mở .
Đề 3 nghị luận về một bài thơ (đề đóng)
Đề 4 nghị luận về một tác phẩm văn xi (đề đóng)

8


Đề 5 nghị luận về một đoạn trích văn xuôi (đề đóng)
Đề 6 nghị luận về một ý kiến bàn về văn học- đề mở ( đề chìm).
Đề 1, 3, 4, 5 tháo tác nghị luận chính là phân tích; đề 2 thao tác chính là bình
luận, phân tích; đề 6 thao tác chính là chứng minh, phân tích.
b)Xác định nội dung trọng tâm yêu cầu của đề:
Có thể căn cứ vào đề bài để xác định nội dung trọng tâm. Có bài viết chỉ cần dựa
vào đề bài là có thể nhận thấy nội dung trọng tâm. Nhưng phần lớn các bài viết đều
đòi hỏi người viết phải suy luận thêm: qua nội dung trước mắt (được thể hiện rất rõ ở
đề bài) đề bài yêu cầu người viết phải nhận thức thêm về vấn để gì ? Đó là những vấn
đề tư tưởng chủ đề sâu sắc của tác phẩm mà mọi chi tiết, hình ảnh, câu chữ,... của tác
phẩm đều hướng đến thể hiện.
Chẳng hạn với đề bài Theo anh (chị), tính dân tộc trong bài thơ 'Việt Bắc” được
hiểu hiện cụ thể ở những phương diện nào? Trình bày vắn tắt và nêu dẫn chứng minh
hoạ.
Nội dung trọng tâm của bài viết là:Phân tích tính dân tộc trong bài thơ "Việt
Bắc"của Tố Hữu. (Tr 5-Rèn luyện kỹ năng làm bài thi tốt nghiệp và đại học mơn VănNXB ĐHQG Hà Nội)
Kỹ năng tìm hiểu đề là kỹ năng định hướng cho tồn bộ q trình thực hiện một
bài Tập làm văn.Tuy vậy, đa số học sinh thường khơng chú ý đến bước này. Vì vậy,

trong q trình làm bài các em thường lạc đề hoặc xa đề nên bài văn thường khơng có
điểm cao. Cũng chính vì lẽ đó hướng dẫn các em làm tốt bước này sẽ giúp học sinh
tránh được việc lạc đề, xa đề. Từ đó bài văn sẽ tốt hơn.
Nắm được hạn chế đó của học sinh nên tơi ln hướng dẫn học sinh thực hiện
thao tác này và nó được lặp đi lặp lại ở mỗi bài viết cũng như trước các đề trong bài
học. Trên cơ sở đó các em sẽ biến nó thành một kỹ năng cần thiết trước khi viết bài.
Để học sinh xem tìm hiểu đề là một bước khơng thể thiếu khi làm bài thì giáo
viên phải giúp các em thành thạo bước này trong quá trình dạy học. Người giáo viên
nên tận dụng thời gian để cho các em luyện tập. Chẳng hạn, ra đề và yêu cầu HS về
nhà thực hiện, trước các bài viết số 1, số 2, số 3, dựa trên nội dung ơn tập đã thống
nhất.
Để giúp học sinh tìm hiểu đề, trước một đề bài tôi thường yêu cầu học sinh đọc
nhiều lần (thậm chí yêu cầu học sinh đọc thuộc đề); lấy bút chì gạch chân những từ
cần chú ý, chép lại đề với những ý có gạch đầu dòng để làm cho nổi bật các yêu cầu
của đề; xác định ba yêu cầu của đề. Ví dụ: Phân tích hình tượng người lính Tây Tiến
trong đoạn thơ sau:
...Tây Tiến đồn binh khơng mọc tóc
9


Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành...
( Trích Tây Tiến - Quang Dũng)
c)Xác định các thao tác lập luận
Có nhiều thao tác lập luận: giải thích, chứng minh, phân tích, so sánh, bác bỏ,

bình luận (trong đó, thao tác giải thích và chứng minh tạm được coi là những thao tác
bộ phận của thao tác phân tích). Mỗi thao tác lại có những ưu thế riêng, trong bài văn
nghị luận nên vận dụng tổng hợp các thao tác lập luận một cách phù họp để bài viết
đạt hiệu quả cao nhất. Muốn vậy, đòi hỏi người viết phải nắm chắc được đặc điểm
chung của một số thao tác lập luận cơ bản. Trên thực tế, những thao tác này học đã
được học từ các lớp dưới, tuy nhiên không phải học sinh nào cũng nhớ và thành thạo
khi làm bài.Vì vậy, ngay từ bài hướng dẫn học sinh làm bài nghị luận về một đoạn
thơ, bài thơ (lớp 12), tôi yêu cầu các em phải ôn lại những thao tác lập luận đã học và
bắt buộc các phải em ghi nhớ. Cứ thế, trong suốt quá trình luyện tập- trái buổi ở
những đề cụ thể của bất kì kiểu bài nào.
Dưới đây là đặc điểm chung của một số thao tác lập luận cơ bản.
Phân tích: chia tách sự vật, hiện tượng thành nhiều yếu tố nhỏ để đi sâu vào xem
xét một cách kĩ lưỡng nội dung và mối quan hệ bên trong của hiện tượng và sự vật đó.
Khi phân tích cần chú ý gắn cái riêng với cái chung, không nên tách rời sự vật đối
tượng khỏi cái chung khiến chúng trở nên lẻ tẻ, vụn vặt. Ví dụ:
Con sông Đà "tn dài, tn dài như áng tóc trữ tình..." câu văn dài chất chứa
niềm yêu say mê của Nguyễn Tuân với sông Đà. Biện pháp so sánh không chỉ gợi
chiều dài của dịng sơng mà cịn cảm nhận về dáng hình, dịng chảy của nó. Sơng Đà
trong một sự vận động, chảy trôi miên man, vô tận. Sông Đà hung dữ đã thay bằng
hình ảnh một con sơng mềm mại, uốn lượn, được hình dung như mái tóc của người
thiếu nữ. Hình ảnh gợi cảm, dun dáng, tình tứ, có khá năng tạo ra những trường
liên tưởng rộng lớn qua trí tưởng tượng sinh động của nhà văn. (Đề bài : Phân tích
hình ảnh thơ mộng, trữ tình của những dịng sơng Việt Nam qua hai bài tuỳ bút
Người lái đị sơng Đà (Nguyễn Tn) và Ai đã đặt tên cho dịng sơng ? (Hồng Phủ
Ngọc Tường).

10


Trong đoạn văn trên, người viết đã phân tích câu văn (Con sơng Đà) “tn dài,

tn dài như áng tóc trữ tình...” trên cả hai phương diện: nội dung (chiều dài cùa
dịng sơng; dáng hình, dồng chây cửa nó; hình ảnh một con sông mềm mại, uốn
lượn,...) và nghệ thuật (Biện pháp so sánh; Hình ảnh gợi cảm; trường liên tưởng
rộng lớn,..) để làm rõ ý văn của tác giả.
So sánh: đối chiếu hai hay nhiều sự vật, hoặc là các mặt trong cùng một sự vật
nhằm chỉ ra những nét tương đồng hay khác biệt, từ đó thấy rõ đặc điểm và giá trị
cùa từng sự vật. Khi so sánh cần chú ý lựa chọn và duy trì một tiêu chí, một bình diện
so sánh nhất định. Chẳng hạn:
Nguyễn Văn Siêu đã rất đúng đắn khi đặt ra một u cầu cho văn chương chân
chính, đó phải là tiếng nói, hơi thở của cuộc sống đời thường, đưa ra nhiệm vụ phản
ánh hiện thực cho văn chương. Yêu cầu này đòi hỏi ở nhà văn một sự tinh tế, nhạy
cảm, thức nhọn các giác quan rất cao để có thế giới quan cuộc sống, nhập thân vào
cuộc sống để khám phá, tìm tịi. Một tác phẩm ưu tú "khơng đem đến một cách cho
người đọc sự thoát ly hay sự quên", nó đem đến cho người đọc hơi thỏ, nhịp đập của
chính cuộc đời cho người đọc những “bài học trơng nhìn và thưởng thức" (Theo
dịng)-Thạch Lam. “Tác phẩm văn nghệ phải thể hiện sự sống thật hơn là sự sống
bình thường, cơ đọng hơn, khái qt hơn, cao hơn cuộc sống mà văn là cuộc sống”
(Trường Chinh), Người nghệ sĩ phải nhận thức, phản ánh cuộc sống có lí tưởng, chứ
khơng phải mình họa li tưởng cuộc sống. Lí tưởng nằm ngay trong cuộc sống chứ
khơng tách ra khỏi cuộc sống, khơng khiến người ta thốt ly hay quên lãng ... (Bài
viết: Trong một bức thư luận bàn về văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết: “Văn
chương [...] có loại đáng thờ. Có loại khơng đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại
chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người”. Hãy
phát biểu ý kiến về quan niệm trên).
Đoạn văn trên có sự so sánh trong quan niệm về văn chương của các tác giả:
Nguyễn Văn Siêu, Thạch Lam, Trường Chinh, Từ đó, người đọc thấy đượe sự tương
đồng trong quan niệm cùa các tác giả về vấn đề này.
Bác bỏ: dùng lập luận đầy đủ để chứng minh một ý kiến nào đó là sai. Muốn bác
bỏ một ý kiến nào đó, cần trích ý kiến đó rồi trả lời bằng những lập luận: ý kiến đó
sai ở chỗ nào và vì sao như thế là sai. Ví dụ:

Nguyễn Văn Siêu đã rất đúng đắn khi đặt ra một yêu cầu cho văn chương chân
chính, đó phải là tiếng nói, hơi thở của cuộc sống đời thường, đưa ra nhiệm vụ phản
ánh hiện thực cho văn chương... […]
Tuy nhiên, cũng cần quan tâm đến hình thức nghệ thuật. Hình thức và nội dung
cần có sự tương xứng. Nghệ thuật giúp nội dung trở nên đặc sắc hơn. Một tác phẩm
hay phải là một chỉnh thể thẩm mĩ, là sự gắn bó, quyện hịa giữa hai mặt hình thức và
nội dung. Văn học “như người con gái đẹp” (ý Chế Lan Viên) khônq chỉ lôi cuốn
11


người ta bằng y phục, dáng hình mà cịn làm mê đắm lòng người bằng vẻ đẹp nhân
phẩm bên trong. Một tác phẩm văn học chỉ hay khi kết tinh cao độ sự độc đáo, mới lự
của hình thức và sự sâu kín của nội dung, là một chỉnh thề thống nhất, hài hịa. Tính
nhạc dặt dìu được rạo nên từ thể thơ năm chữ như ru, như hát, như thủ thỉ tâm tình
của một bài thơ đẹp như “Thơ tình cuối mùư thu” đã dần người đọc dạo bước mùa
thu, dạo bước tình yêu. Hình ảnh thơ trong sáng, giản dị, nghệ thuật ngắt dòng, lặp
từ rất khéo léo, thành cơng khiển bài thơ như một điệp khúc tình yêu ngân vang, tha
thiết....[…]
Như vậy, ý kiến, quan niệm của Nguyễn Văn Siêu [...] thiếu cái nhìn tồn diện,
chưa nhận thức đầy đủ về giá trị, vai trò của rác yếu tố hình thức, nghệ thuật trong
văn chương.(Bài viết: "Trong một bức thư luận bàn vể văn chương, Nguyễn Văn Siêu
có viết: “Văn chương [...] có loại đáng thờ. Có loại không đáng thờ. Loại không đáng
thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con
người”. Hãy phát biểu ý kiến về quan niệm trên").
Trong phần văn bản trên, người viết đã sử dụng thao tác bác bỏ để bác đi ý kiến
của Nguyễn Văn Siêu khi ơng phủ nhận hồn tồn vai trị của hình thức nghệ thuật
trong sáng tác văn học. Bằng việc đưa ra những vấn đề lí luận và phân tích một Ví dụ
cụ thể (bài thơ “Thơ tình cuối mùa thu” của Xuân Quỳnh), người viết đã khẳng định
vai trị khơng thể thiếu của nghệ thuật đối với một tác phẩm văn học có giá trị. Từ đó,
chỉ ra thiếu sót trong quan niệm của Nguyễn Văn Siêu: thiếu cái nhìn tồn diện, chưa

nhận thức đầy đủ về giá trị, vai trị của các yếu tố hình thức, nghệ thuật trong văn
chương.
Bình luận: bàn bạc và đánh giá vể sự đúng sai, thật giả, lợi hại của các tác phẩm,
các vấn đề văn học, các ý kiến bàn về văn học,... Muốn bình luận một vấn đề cần lưu
ý xác định đối tượng bình luận, giới thiệu đối tượng đó và đề xuất ý kiến bình luận
(phân tích đối tượng một cách cụ thể và nhìn đối tượng từ nhiều mối quan hệ). Chẳng
hạn:
Hình ảnh người lính Tây Tiến là một bức tượng đài đẹp đẽ với tư thế hiên ngang,
với khí phách anh hùng và có cả những say mê, ước vọng lãng mạn, đẹp đẽ. Nhưn thơ
Quang Dũng còn tả rất thực về những mất mát, hy sinh của đồn binh Tây Tiến.
Khơng thi vị hóa hiện thực, ngịi bút thơ Quang Dũng dám nhìn nhận vào nhữnq tổn
thất tất yếu của con người trong chiến tranh tàn khốc (Bài viết “Vẻ đẹp bi tráng của
người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng”).
Trong đoạn văn trên, người viết đã sử dụng thao tác bình luận để đánh giá vể thơ
Quang Dũng mà cụ thể là bài thơ "Tây Tiến" và hình ảnh người lính trong bài thơ.
Hình ảnh người lính Tây Tiến “là một bức tượng đài đẹp đẽ”. Thơ Quang Dũng “tả
rất thực vể những mất mát, hy sinh của đoàn binh Tây Tiến. Khơng thi vị hóa hiện
thực [...] dám nhìn nhận vào những tổn thất tất yếu của con người trong chiến tranh
12


tàn khốc”.
(Tr 5,6,7-Rèn luyện kỹ năng làm bài thi tốt nghiệp và đại học mơn Văn-NXB ĐHQG
Hà Nội)
Ngồi những thao tác trên, trong bài viết cần vận kết hợp nhiều thao tác khác để
bài viết được sáng tỏ, có sức thuyết phục. Tuy nhiên, điều quan trong ở khâu này là
học sinh phải xác định được trong một đề bài cụ thể thao tác nào là trọng tâm, là
chính, cần sử dụng nhiều; thao tác nào là phụ? Muốn vậy, giáo viên hướng dẫn học
sinh chú ý ở những từ ngữ nêu rõ thao tác lập luận biểu hiệu ở đề bài, để xác định cho
đúng.

Ví dụ: Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn Chiếc thuyền
ngoài xa của Nguyễn Minh Châu. Ở đề bài này học sinh cần xác định phải kết nhiều
thao tác: phân tích, chứng minh, giải thích, bác bỏ, bình luận,… Trong đó, thao tác
phân tích và bình luận là chính.
d. Xác định phạm vi tư liệu
- Đối với những để bài thuộc kiểu bài nghị luận về một ý kiến bàn về văn học,
phạm vi tư liệu là bản thân ý kiến đó và những tác phẩm văn học tiêu biểu.
Chẳng hạn với đề bài: Anh (chị) hãy hày tỏ quan điểm cửa mình về ý kiến của
nhà văn Pháp La Bơ-ruy-e:“Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho
ta những tình cảm cao quý và can đảm, khơng cần tìm một ngun tắc nào để đánh
giá nó nữa: đó là một cuốn sách hay và do một nghệ sĩ viết ra”.
Phạm vi tư liệu là: Ý kiến của La Bơ-ruy-e; những tác phẩm văn học tiêu biểu.
- Đối với những đề bài thuộc kiểu bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ; một tác
phẩm, một đoạn trích văn xuôi, phạm vi tư liệu nằm trong chính những tác phẩm văn
học là đối tượng của bài viết. Ví dụ:
Đề bài “Phân tích hình ảnh thơ mộng, trữ tình của những dịng sơng Việt Nam
qua hai bài tuỳ hút "Người lái đị sơng Đà" (Nguyễn Tn) và "Ai đã đặt tên cho
dịng sơng?" (Hồng Phủ Ngọc Tường).
Phạm vi tư liệu: Tác phẩm Người lái đồ sông Đà (Nguyễn Tn) và Ai đã đặt tên
cho dịng sơng? (Hồng Phủ Ngọc Tường); dẫn chứng từ thực tế/trong văn học về
những dịng sơng Việt Nam.
Kết quả của bước tìm hiểu đề giúp học sinh xác định được tất cả các yêu cầu của
đề bài: về kiểu bài, về nội dung trọng tâm của đề, thao tác lập luận, phạm vi dẫn
chứng.
Ví dụ: Phân tích nhân vật Mị trong đoạn trích “ Vợ chồng A Phủ” của Tơ Hồi
Học sinh cần xác định được:
13


+Kiểu bài: nghị luận về một đoạn trích văn xuôi- phân tích nhân vật trong đoạn

trích.
+Nội dung trọng tâm:phân tích nhân vật Mị-> tư tưởng, tình cảm của nhà văn qua
đoạn trích.
+Thao tác lập luận:phân tích, giải thích, chứng minh, bình luận,...Trong đó phân
tích và bình luận là hai thao tác chính.
+Phạm vi tư liệu:đoạn trích “ Vợ chồng A Phủ”, mở rộng cả tác phẩm
Trong quá trình dạy – học (nhất là ở tiết trả bài) tôi đã cho học sinh thấy một
cách nghiêm túc rằng lạc đề là lỗi nặng nhất, nghiêm trọng nhất của một bài Tập làm
văn. Một bài văn lạc đề dù có những đoạn văn hay đến đâu cũng không thể đạt được
điểm cao. Đối với giáo viên, trước một đề Tập làm văn việc tìm hiểu đề là đơn giản
nhưng với học sinh khâu này rất quan trọng. Vì vậy, trước bất cứ một đề văn nào giáo
viên luôn yêu cầu học sinh thực hiện tốt khâu này.
Có thể nói rằng đây là một bước mất ít thời gian của tiết học nhưng nó mang lại
hiểu quả rất tốt cho học sinh. Thực tế, nhiều năm dạy lớp 12, đặc biệt ở tiết luyện tập
trái buổi tôi đã áp dụng giải pháp này và từng bước đạt được kết quả đáng kể. Chỉ qua
một, hai tiết hướng dẫn tìm hiểu đề, dù là những học sinh kém về môn Văn nhưng ít
nhiều các em vẫn nhận thức được đúng yêu cầu của đề bài.Trong những lớp tôi phụ
trách, trường hợp học sinh hiểu sai đề chỉ là 1 hoặc 2 em ở bài viết số 1 và kết quả
được nâng ở những bài viết tiếp theo.
2. Lập dàn ý
Đối tượng của bài nghị luận văn học là đa dạng, tuy nhiên xuất phát từ nhu cầu
thiết thực, phù hợp đối tượng học sinh. Nên ở giải pháp này tôi chỉ giới hạn dạng đề
nghị luận về một đoạn thơ, một tác phẩm, đoạn trích văn xuôi.
Việc lập dàn ý giúp người viết bao quát được vấn đề, đảm bảo được tính hệ thống
của lập luận, tính cân đối của bài viết, xác định được mức độ trình bày mỗi ý, từ đó
phân bố thời gian hợp lí. Có hướng dẫn học sinh sắp xếp các ý theo trình tự nội dung,
nghệ thuật, rồi đến nhận xét, đánh giá, suy nghĩ của bản thân (thường là phân tích các
tác phẩm văn xi).Có thể sắp xếp đan xen giữa nội dung, nghệ thuật và nhận xét
đánh giá, suy nghĩ của thân (phổ biến trong phân tích thơ). Lập dàn ý tốt, viết sẽ dễ
dàng hơn, nhanh hơn, hay hơn nhờ biết lựa chọn đúng cách diễn đạt, cách trình bày

bài viết. Dàn ý của bài văn nghị luận có cấu trúc ba phần. Mỗi phần có nhiệm vụ
riêng:
a ) Mở bài
Người ta thường nói: Văn hay chưa hẳn là dài- Mới đọc mở bài đã biết văn
hay. Mở bài có vai trị quan trọng đối với một bài văn. Mở bài đúng và hay sẽ khai
14


thông được mạch văn. Ở phần mở bài, người viết cần giới thiệu khái quát vấn đề sẽ
nghị luận, sẽ làm sáng tỏ trong bài viết. Để có được đoạn mở bài hay, cần nêu trọng
tâm và phạm vi vấn đề sẽ bàn bạc một cách ngắn gọn, viết tự nhiên, khúc chiết và
mới mẻ.
Nhìn chung có hai cách chính: mở bài trực liếp và mở bài gián tiếp.
Ví dụ: Đề bài Phân tích hình tượng người lính Tây Tiến qua đoạn thơ:
...Tây Tiến đồn binh khơng mọc tóc
Qn xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành...
( Trích Tây Tiến - Quang Dũng)
- Mở bài trực tiếp, người viết nêu ngay vấn đề trọng tâm. Chẳng hạn:
Tây Tiến là bài thơ đặc sắc của Quang Dũng viết về đề tài người lính trong kháng
chiến chống Pháp nói riêng và thơ ca Việt Nam nói chung . Bài thơ đã khắc họa
thành cơng hình tượng người lính Tây Tiến: anh hùng, lãng mạn, hi sinh anh dũng vì
q hương đất nước. Hình tượng người lính hiện lên rõ nét nhất qua đoạn thơ sau:
“...Tây Tiến đoàn binh khơng mọc tóc
Qn xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành... ”
Trong mở bài trên, người viết trực tiếp giới thiệu bài thơ của Quang Dũng và vị
trí, vai trò của tác phẩm đối với tác giả và nền văn học Việt Nam (lí do để người viết
“yêu thích” tác phẩm- tình cảm, ấn tượng khái quát của người viết).
15


-Mở bài gián tiếp, người viết xuất phát từ một vấn đề khái quát hơn, một ý kiến,
một câu chuyện, một câu thơ, đoạn văn, một phát ngôn của nhân vật nổi tiếng nào
đó,... dẫn dắt người đọc đến vấn đề sẽ bàn luận trong bài viết. Cũng đề bài trên, ta có
thể mở gián tiếp như sau:
Văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975 viết về đề tài người lính đã để lại nhiều
bài thơ hay. Nếu như Đồng chí của Chính Hữu, Nhớ của Hồng Nguyên là những tiếng
thơ về người lính xuất thân từ “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá” thì Tây
Tiến lại viết từ cảm hứng thẩm mĩ của một lớp chiến sĩ hoàn toàn khác. Bài thơ hiện
lên bức chân dung, vẻ đẹp tâm hồn của người lính- những chàng trai thành thị trong
cuộc kháng chiến chống Pháp. Tiêu biểu nhất qua đoạn thơ sau:
“...Tây Tiến đồn binh khơng mọc tóc
Qn xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành... ”

Mở bài trên đi từ vấn đề khái quát của đối tượng chính trong đề bài, lập luận theo
lối so sánh, dẫn dắt vào vấn đề.
Tóm lại, khi mở bài người viết cần chủ động viết thật sáng tạo, để chẳng những
khơi gợi hứng thú theo dõi văn phong mà còn gây được sự chú ý của người đọc về
vấn đề sẽ viết.
Trên đây là những vấn đề về mặt lý thuyết. Thực tế, đối tượng học sinh tôi dạy
đến 90% là yếu-kém ở khâu viết mở bài, đa số các em khơng có khả năng tư duy, suy
luận, cảm thụ. Ở tiết luyện tập đầu tiên khi yêu cầu các em viết mở bài có nhiều em
hồn tồn khơng biết viết như thế nào? Vận dụng kiến thức ở phần nào trong bài Đọc
văn để viết ?... Vì vậy, khi dạy học sinh viết mở bài, giáo viên đã cụ thể hóa về cách
viết- chọn cách trực tiếp, các nội dung kiến thức để viết mở bài, cách dẫn vào vấn đề
cần bàn luận. Có nghĩa là hướng các em tìm hiểu, ghi nhớ theo khả năng bản thân
những kiến thức cần thiết để viết mở bài (Chẳng hạn: cần nắm được tác giả, nhận
định về tác giả, tác phẩm, các hình tượng ...). Bởi vì, học sinh của chúng tôi tuy khả
năng sáng tạo, suy luận kém nhưng các em vẫn có thể ghi nhớ, thậm chí là bắt chước.
Cũng đề bài trên, tôi hướng dẫn các em viết mở bài như sau: Quang Dũng là nhà
thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp, một nghệ sĩ đa tài -viết văn, làm thơ,
16


vẽ tranh, soạn nhạc. Nhưng Quang Dũng trước hết là một nhà thơ mang hồn thơ
phóng khống, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa. Ơng có rất nhiều bài thơ hay viết về
người lính trong đó có bài"Tây Tiến". Bài thơ đã khắc họa thành cơng hình tượng
người lính Tây Tiến: anh hùng, lãng mạn, hi sinh anh dũng vì quê hương đất nước.
Tiêu biểu nhất qua đoạn thơ sau:
“...Tây Tiến đồn binh khơng mọc tóc
Qn xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành... ”
Mở bài trên, giới thiệu khái quát về tác giả, dẫn vào bài thơ rồi dẫn vào hình tượng
người lính.
Yêu cầu của tôi là các em vận dụng cách mở bài này cho tất cả các đề cùng dạng,
chỉ có khác ở nội dung, tư liệu. Ưu điểm của cách mở bài này là học sinh khơng lan
man, khơng viết dài dịng, không dẫn dắt lủng củng, thiếu ý hoặc thừa ý. Hạn chế là
chưa phát huy hết được khả năng sáng tạo của tất cả học sinh. Tuy nhiên, theo kinh
nghiệm dạy ơn thi tốt nghiệp THPT, để có kết quả như mong muốn chúng ta cần có
giải pháp cụ thể như vậy.
Đối chiếu với những năm học trước, năm học này tôi áp dụng ngay từ bài hướng
dẫn bài viết số 1, kết quả cho thấy, rõ ràng trên 95% học sinh lớp 12A1, 80 % học
sinh lớp 12A2 đã biết viết mở bài đúng yêu cầu đề bài; số còn lại cũng đạt được
khoảng 60% đến 80% yêu cầu viết mở bài, khơng có trường hợp để giấy trắng.
b) Thân bài

Trong một bài văn nghị luận, phần thân bài có nhiệm vụ làm sáng tỏ vấn đề mà
mở bài đã nêu. Nếu xem phần mở bài chỉ có nhiệm vụ đặt vấn đề thì phần thân bài
ứng với thao tác giải quyết vấn đề đó. Ở phần thân bài, người viết cụ thể hoá vấn đề
cần nghị luận - được gọi là luận đề bằng một hệ thống luận điểm. Mỗi luận đề được
phát triển bằng nhiều luận cứ,
Thân bài gồm nhiều đoạn văn. Giữa các đoạn có câu văn hoặc từ chuyển tiếp nối
kết các luận điểm với nhau làm cho bài văn liền mạch. Về lí thuyết, mỗi đoạn thân
bài tập trung làm nổi bật một luận điểm. Luận điểm đó thường được thể hiện bằng
17


một câu chốt. Vị trí của câu chốt: đứng đầu hoặc đứng cuối đoạn văn. Nhưng trên
thực tế, luận điểm thường có nhiều nội dung nên luận điểm ấy cần chia ra thành nhiều

đoạn. Trường hợp này, giữa các đoạn văn bộ phận của luận điểm vẫn phải có sự
chuyển tiếp và mỗi đoạn văn cũng có một câu chốt nêu lên chủ để của đoạn.
Chẳng hạn, với đề bài “Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng thiên nhiên và con
người Việt Bắc trong đoạn thơ sau: Ta về, mình có nhớ ta ... Nhớ ai tiếng hát ân tình
thuỷ chung”, bài viết sẽ có hai luận điểm trung tâm là hình tượng thiên nhiên và con
người Việt Bắc. Luận điểm hình tượng thiên nhiên Việt Bắc lại có một số nội dung
bộ phận như: cảnh mùa đông Việt Bắc, cảnh mùa xuân Việt Bắc, cảnh mùa hạ Việt
Bắc,... Khi đó, luận điểm này sẽ được triển khai như sau:
Cảnh vật Việt Bắc được khắc họa rất điển hình. Tố Hữu đã mượn hình ảnh của
hoa chuối đỏ tươi để gợi dậy một nét đặc trưng của mùa đông Việt Bắc. Có người
cho rằng hình ảnh hoa chuối lần đầu tiên đi vào thơ Tố Hữu nhưng đã tạo được ấn
tượng đặc biệt với người đọc. Cảnh mùa đông có nét ấm áp, rực rỡ, tươi tắn, chứ
khơng phải là sự lạnh lẽo, hắt hiu. Bức tranh đan dệt bởi nhiều màu sắc: xanh, đỏ
tươi, vàng [...].
Nếu mùa đông Việt Bắc sống dậy từ sắc đỏ của hoa chuối thì mùa xuân Việt
Bắc được gợi ra từ sắc trắng của hoa mơ, sắc xanh của rừng, tạo nên nét đẹp tinh
khôi, thơ mộng của cảnh. Màu trắng của hoa có khả năng bao chiếm khơng gian,
nhấn mạnh sự thanh khiết của cảnh vật [...]
Nếu câu thơ mùa xuân bừng sáng sắc trắng của hoa mơ thì câu thơ mùa hạ
lại ngân lên tiếng ve quen thuộc của núi rừng Việt Bắc. Tiếng ve dệt thành bản
đồng ca mùa hạ rộn ràng, tươi vui [...]
Không rực rỡ, tươi tắn dưới ánh sáng mặt trời, hình ảnh vầng trăng mùa thu
hịa bình mát rượi và tiếng hát ân tình vang ngân của con người đã làm sáng lên
bức tranh mùa thu. Bức tranh ẩy lắng lại trong nét đẹp quyến rũ, gợi cảm [...]
Những đoạn văn trên đều là những bộ phận của luận điểm thiên thiên Việt Bắc.
Câu văn Cảnh vật Việt Bắc được khắc họa rất điển hình nêu lên luận điểm cho cả bốn
đoạn văn. Những câu được in nghiêng đậm vừa mang vai trò là câu chuyển tiếp vừa
mang vai trò là câu chốt cho từng đoạn văn. Mặt khác, giữa các đoạn văn có sự liên
kết còn được thể hiện ở việc khung cảnh thiên nhiên các mùa được trình bày theo thứ
tự thời gian: đơng, xn, hạ, thu.

Mơ hình chung của phẩn thân bài trong bài văn nghị luận là:
- Luận điểm 1:...
+ Luận cứ 1:...
+ Luận cứ 2:...
18


- Luận điểm 2:...
+ Luận cứ;...
Phần thân bài là phần giải quyết vấn đề, nên khi lập dàn ý đến khâu này đòi hỏi
học sinh phải xác định được cụ thể các luận điểm, luận cứ, dẫn chứng. Đồng thời,
phải biết sắp xếp các luận điểm, luận cứ theo trình tự lôgíc. Nên đánh số thứ tự cho
từng luận điểm, luận cứ (Tr8,10-Rèn luyện kỹ năng làm bài thi tốt nghiệp và đại học
môn Văn-NXB ĐHQG Hà Nội).Chẳng hạn, đề: Phân tích nhân vật Việt trong tác
phẩm Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi, học sinh cần xác lập luận điểm,
luận cứ như sau:
Luận điểm 1: Là cậu bé ngây thơ, hồn nhiên, vô tư, trẻ con, hiếu thắng nhưng giàu
tình thương yêu.
Luận cứ:
+ Thích bắt ếch, câu cá, bắt chim..
+ Đánh giặc không sợ chết, sợ ma

+ Đi bộ đội vẫn giắt theo ná thun
+ Hiếu thắng: thích giành phần hơn với chị

……………………
Luận điểm 2: Là một chiến sĩ trẻ dũng cảm, kiên cường, anh hùng.
Luận cứ:
+ Khi cịn bé Việt đã dám xơng thẳng vào đá cái thằng đã giết cha mình.
+ Khi lớn lên Việt đòi đi tòng quân để trả thù cho ba má, để giải phóng q

hương.
+ Khi xơng trận: chiến đấu dũng cảm. Đã dùng thủ pháo tiêu diệt được một-xe
bọc thép của giặc Mĩ.
+ Bị trọng thương: Một mình nằm giữa chiến trường, với đơi mắt khơng nhìn
thấy gì, tồn thân đau điếng Việt vẫn quyết tâm trong tư thế chờ tiêu diệt quân thù.
Đây là phần chiếm nhiều thời gian, ghi điểm nhiều nhất và cũng là phần tích hợp
nhiều nhất của ba phân mơn. Vì vậy, khi hướng dẫn học sinh thực hiện phần này bao
giờ tôi cũng yêu cầu các em phải nắm được nội dung của những bài Đọc văn cụ thể,
tránh tình trạng khi lập dàn ý mà lại không nắm được kiến thức bài học, điều này dễ
dẫn đến tâm lí ngại ngùng, chán nản, hoang mang trong các em. Thường thì, tơi cho
đề các em tham khảo, luyện tập trước ở nhà. Đến tiết luyện tập trái buổi, trước hết yêu
cầu một đến hai học sinh trình bày phần bài chuẩn bị ở nhà lên bảng, cả lớp nhận
xét,chỉnh sửa, bổ sung hoàn thiện ; hoặc có đề do khơng có thời gian trên lớp thì tơi
19


thu về nhà chấm- trả sau. Cứ thế, quy trình này đã trở nên quen thuộc đối với các em,
cho nên có những tiết học Đọc văn đã hết bài mà tôi chưa cho đề tham khảo là học
sinh hỏi ngay “ Khơng có đề ơn tập à cơ?”. Làm được như vậy nên dù đây là phần khó
và dài, nhưng đa số học sinh đã đạt được yêu cầu.
c) Kết bài

Kết bài là phần kết thúc bài viết. Vì vậy nó tổng kết, thâu tóm lại vấn đề đã
đặt ra ở mở bài và phát triển ở thân bài. Một kết bài hay khơng chỉ làm nhiệm vụ
"gói lại" mà cịn phải "mở ra" - đó là khơi gợi suy nghĩ, tình cảm của người đọc.
Thâu tóm lại nội dung bài viết khơng có nghĩa là lặp lại mà phải dùng một hình
thức khác để khái quát ngắn gọn. Khơi gợi suy nghĩ hay tạo dư ba trong lòng
người đọc là câu văn khi đã khép lại vẫn khiến cho người đọc day dứt, trăn trở
hướng về nó.
Trong thực tế, việc viết văn nghị luận chúng ta thường gặp một số kiểu kết bài

như sau:
Kết bài tóm tắt và nhận xét khái quát về nội dung, tư tưởng của người viết đã
trình bày trước đó. Đây là cách thơng thường và cũng là yêu cầu cơ bản nhất của
kết bài, nhưng không đáp ứng tốt yêu cầu gợi dư ba cho bài viết. Ví dụ:
Nói tóm lại, tính dân tộc trong bài thơ "Việt Bắc" của Tố Hữu được thể hiện ở
nhiều phương diện khác nhau: đề tài, thể thơ, cách xưng hơ “mình” - “ta”,
những hình ảnh thơ,... Và những phương diện biểu hiện tính dân tộc ấy đã được
minh chứng bằng những câu thơ đầy thuyết phục. ( Đề bài: "Theo anh (chị), tính
dân tộc trong bài thơ “Việt Bắc” được biểu hiện cụ thể ở những phương diện
nào? Trình bày vắn tắt và nêu dẫn chứng minh hoạ”).
Kết bài khái quát nội dung và đạt ra câu hỏi nhằm khơi gợi suy nghĩ và tình
cảm ở người đọc. Chẳng hạn:
Chỉ một tình huống mà thấu tỏ bao triết nhân sinh chỉ một câu chuyện nhặt vợ
mà Kim Lán đã đưa tới cho bạn đọc những hài học về số phận von người, tình
yêu thươnq, niềm hy vọng, học cách "nghĩ đến cái sống trong khi người ta chỉ
nghĩ đế cái chết”. Cách xây dựng tình huống độc dáo, giọng văn tỉnh táo, khách
quan đã giúp Kim Lân tái hiện chân thực hiện thực cuội sống và chở đi những
chiều sâu tư tưởng khôn cùng. Chỉ khi thấm rỏ, quyện hịa máu tim của người
nghệ sĩ, tình huống truyện mới đạt được đỉnh cao của nghệ thuật, tìm kiếm được
những giá trị nhân sinh. “Nghệ thuật là những câu trả lời đầy thẩm mĩ cho con
người”. Những câu trả lời ấy ta đã tìm ở một tình huống hay chăng?. (Đề bài::
"Phân tích giá trị nghệ thuật của việc xây dựng tình huống truyện trong truyện
ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân").
Kết bài khái quát nội dung và mở rộng, nâng cao vấn đề đã được bàn bạc
20


trong phần thân bài
Như vậy, ý kiến, quan niệm của Nguyễn Vãn Siêu đã nhìn nhận được những
chức nâng cao quý, đặc trưng thẩm mĩ quan trọng của văn chương chân chính,

song lại thiểu cái nhìn tồn diện, chưa nhận thức đầy đủ về giá trị, vai trò của các
yếu tố hình thức, nghệ thuật trong văn chương. Từ đây, ta hiểu rằng, một tác
phẩm hay phải là một chỉnh thể thẩm mĩ, là sự gắn bó, quyện hịa giữa hai mặt
hình thức và nội dung.
Điều đó có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc sáng tác văn học của các nhà
văn và việc tiếp nhận văn học của độc giả. (Bài viết: Trong một bức thư luận bàn về
văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết: “Văn chương [...] có loại đáng thờ. Có loại
khơng đáng thờ. Loại khơng đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng
thờ là loại chuyên chú ở con người”. Hãy phát biểu ý kiến về quan niệm trên). (Rèn
luyện kỹ năng làm bài thi tốt nghiệp và đại học môn Văn-NXB ĐHQG Hà Nội)
Như vậy, có rất nhiều cách để mở bài và kết bài. Dựa theo khả năng và hướng
triển khai bài viết mà mỗi bài viết lại có một mở bài và kết bài tương ứng, phù hợp.
Tuy nhiên, với đối tượng học sinh của tôi, để các em tự sáng tạo ra một kết bài thì
thường là các em chỉ tóm tắt lại nội dung của phần thân bài. Cho nên ở phần này, bản
thân giáo viên cũng cần định hướng cụ thể.Tơi u cầu, thâu tóm nội dung trọng tâm
và cảm nhận của bản thân về vấn đề nghị luận trên. Ví dụ viết kết bài cho đề Phân
tích nhân vật người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của
NMC như sau:
“Qua những nét khắc hoạ ấn tượng, người đàn bà hàng chài đã trở thành một biểu
tượng đầy ám ảnh, giúp nhà văn NMC thể hiện những tư tưởng đạo lí sâu sắc cho
truyện ngắn. Đó là niềm cảm thương và nỗi lo âu cho số phận những con người bất
hạnh, khốn khổ, bị cầm tù giữa đói nghèo tăm tối và bạo lực; đó cịn là niềm tin u
trước những phẩm chất tôt đẹp trong tâm hồn, tính cách những con người ln sống
với lịng nhân hậu vị tha và dũng cảm.Tác phẩm cũng rung lên hồi chuông báo động
về tình trạng bạo lực gia đình và hậu quả khơn lường của nó”.
3.Trình bày dẫn chứng
Có nhiều cách trình bày dẫn chứng
Cách 1: Đưa dẫn chứng thành câu văn riêng biệt và trích xuống dòng, thường được
dùng cho những câu thơ, câu văn hay.
Chẳng hạn, trong những ví dụ sau, phần trích dẫn được đưa vào ngoặc kép

Nhờ tiếp thu được tính hiện đại của thơ tượng trưng Pháp thế kỷ XIX, Xuân Diệu
góp phẩn làm phát triển nghệ thuật thơ ca, nhạc điệu câu thơ trở nên phong phú hơn,
khả năng chiếm lĩnh và diễn đạt thế giới khách quan và nội tâm tinh vi, màu nhiệm
21


hơn, đạc biệt là quan hệ tương giao giữa các giác quan:
“Này lắng nghe em khúc nhạc hồng
Này lắng nghe em khúc nhạc thơm”
Tràng có một ngoại hình rất dễ gây ấn tượng cho người đọc: "Hắn bước ngật
ngưỡng trên con đường khẳng khiu. Hắn vừa đi, vừa tủm tỉm cười, hai con mắt nhỏ tí,
quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho cái mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp
nlìính những ý nghĩ vừa lý thú, vừa dữ tợn.. Trẻ con trêu đùa, Tràng ngửa mặt lên
cười hềnh hệch, cái áo nâu Tràng vắt sang một bên cánh tay, cái đầu trọc nhẵn chúi
về phía trước”.
Cách 2: Dùng một số chữ đặt ẩn trong câu văn.
Ví dụ: Lối ví von trong “Tương tư” cũng rất gần với dân gian. Nói về tình u,
dân gian vơ cùng tinh tế “nói xa” rổi mới “nói gần”, khơng bao giờ “nổi thẳng như
ruột ngựa”. Bày tỏ niềm tiếc nuối vì người thương đã lấy chồng, chàng trai phải đưa
đẩy, xa xôi rồi mới bày tỏ nỗi niềm.
Tác giả cho A Phủ xuất hiện khá đột ngột trong một hoàn cảnh đánh nhau với A
Sử, bị bát, bị đánh độp tàn nhẫn ở nhà thống lí Pá Tra, rồi mới kể về lai lịch của nhân
vật. Đó là một người nghèo khổ đã mất hốt cả mẹ cha và anh em trong một trận đậu
mùa khủng khiếp đã phải sống kiếp bơ vơ khi cịn rất nhỏ và “người làng đói bụng đã
bắt A Phủ đưa xuống bán đổi lấy thóc của người Thái ở dưới cánh đồng”. Không cam
chịu cuộc sống khốn khổ, mới 10 tuổi đầu A Phủ đã tự khẳng định tính cách gan góc:
một mình kiếm sống, học hỏi đù thứ nghề “biết đúc lưỡi cày lại cày giỏi và đi săn bị
tót rất bạo”.
Cách 3: Tóm tắt ý dẫn chứng thành lời văn của mình, thường dùng cho văn xuôi
và văn tự sự.

Chẳng hạn, trong ví dụ dưới đây, diễn biến của truyện đã được tóm tắt ngắn gọn
trở thành lời văn của người viết:
Tràng dẫn người đàn bà lạ về làm vợ, để xây dựng gia đình, tiếp nối sự sống.
Trên bờ vực thẳm của cái chết, họ tìm đến sự sống. Tràng vui sướng vì sự kiện to lớn,
bất ngờ của đời anh: Anh đã có vợ, anh đang dăn vợ về nhà. Đói, chết tràn lan, mình
cũng đói, mẹ già cũng đói. Thế mà lại lấy vợ vào lúc này! Thật lạ lùng và thú vị. Có
lúc anh cảm thấy ngượng ngùng, lúng túng. (Tr 11,12-Rèn luyện kỹ năng làm bài thi
tốt nghiệp và đại học môn Văn-NXB ĐHQG Hà Nội)
Trong một bài làm văn, nên dùng đồng thời ba cách, không nên thiên quá về một
cách nào.(với những học sinh khá). Đối với học sinh trường tôi, thường khi nghị luận
về tác phẩm thơ, tôi hướng dẫn học sinh theo cách 1, tác phẩm văn xuôi theo cách 2.
(Bởi các em rất yếu trong cách trình bày, mà yêu cầu kết hợp nhiều cách trong một
22


bài viết dễ dẫn đến tình trạng lẫn lộn, lủng củng). Định hướng cụ thể, rõ ràng cho các
em trình bày dẫn chứng như vậy nên về hình thức bài viết của các em rõ ràng hơn, nội
dung sinh động hơn, trách được nhiều lỗi hơn.
4.Cách chuyển ý
Chuyển ý có nhiệm không kém phần quan trọng trong một bài làm văn: đảm bảo
bài văn có sự liên tục, uyển chuyển, phát triển tự nhiên; xác định mối quan hệ chặt chẽ
giữa các ý tạo nên bài văn. Có nhiều cách chuyển ý:
Cách 1:: Chuyển ý bằng cách dùng các kết từ: trước tiên, trước hết, tiếp
theo,...Chẳng hạn:
“Tiếp theo “Việt Bắc” là “Gió lộng” (1955 - 1961) - tập thơ ra đời trong giai
đoạn Cách mạng mới. “Gió lộng” dạt dào bao nguồn cảm hứng lớn lao. Nhà thơ
hướng về quá khứ để thấm thía những nỗi đau khổ của cha ông, công lao của những
thế hệ đi trước mở đường, từ đó ghi sâu ân tình của cách mạng,..”.
Cách 2: Chuyển ý bằng câu.


Dùng câu có cấu trúc “Nếu... thì...” để tóm tắt ý trên và mở ra ý mới. Ví dụ:
“Nếu như “Việt Bắc” là tiếng ca hùng tráng, thiết tha về cuộc kháng chiến chống
Pháp và những con người kháng chiến thì “Gió lộng” hướng về q khứ để thấm thía
những nỗi đau khổ của cha ông, công lao của những thế hệ đi trước mở đường, từ đó
ghi sâu ân tình của cách mạng,...”.
Dùng cấu trúc câu “Bên cạnh A cịn có B” để chuyển ý khi giữa ý trên và ý dưới
có quan hệ ngang hàng. Ví dụ:
“Bên cạnh viên quản ngục cịn có viên thơ lại cũng là một người làm nhầm nghề,
sống nhẩm nơi. Ơng hẳn cũng là người có tấm lịng “biệt nhỡn liên tài” như chủ nên
đã để ý đến cái tài của Huấn Cao, nhất nhất làm theo những phép đối xử đặc biệt mà
viên quản ngục dành cho người tử tù nổi tiếng,...”.
Dùng câu có cấu trúc “Do A nên dẫn đến B”, “Sở dĩ A là vì có B” nếu ý trước và
ý sau có quan hệ nhân – qủa. Ví dụ:
“Bởi có tấm lịng “Biệt nhỡn liên tài” như vây nên viên quản ngục đã không nề
hà nguy hiểm, phá bỏ những phép tắc thông thường trong nhà ngục để biệt đãi Huấn
Cao. Ngày ngày, ngoài những thức ăn thường Huấn Cao còn được thêm phần rượu
thịt,...”.
- Dùng câu có cấu trúc “Hơn cả A là B”, “Khơng chỉ A mà còn B” nếu ý sau ở

mức độ cao hơn ý trước.
“Khơng chỉ có khí phách hiên ngang, kiên cường và sự tài hoa phóng khống,
mà nhân vật Huấn Cao cịn có cái tâm trong sáng, cao thượng. Điều đó được thể hiện
23


ở nhiều chi tiết,...”,
Dùng một câu triết lí hoặc câu thơ, câu văn, ý kiến nhận định để thay lời chuyển
ý. Ví dụ:
“Mỗi tác phẩm là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung”
(Lê- ơ-nít Lê-ơ-nốp). “Chiếc thuyền ngồi xa” của Nguyễn Minh Châu khơng chỉ là

sự khám phá, sáng tạo so với các nhà văn khác mà còn là sự sáng tạo trong chính sáng
tác của nhà văn. Tác phẩm cho thấy một hướng quan niệm mới, tiến bộ hơn trong
hành trình đi tìm cái đẹp ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn mỗi con người của ông, cái đẹp
không mang màu sắc lãng mạn nữa mà gắn với hiện thực trần trụi”.
Trong một bài văn, nên đồng thời kết hợp nhiều cách chuyển ý linh hoạt để tạo
nên sự hấp dẫn cho bài viết. (Tr 17-Rèn luyện kỹ năng làm bài thi tốt nghiệp và đại
học môn Văn-NXB ĐHQG Hà Nội)
5. Hành văn trong văn nghị luận
a) Khái niệm:Hành văn là cách diễn đạt ý (ý lớn, ý nhỏ), những cảm xúc, suy nghĩ
thành lời văn của người viết.
b) Cách hành văn
* Đảm bảo tính chuẩn xác:
Yêu cầu này được hiểu là phản ánh đúng tính chất, ý nghĩa của đối tượng nghị
luận. Khơng nói q nhưng cũng khơng nói giảm. Chẳng hạn, với "Truyện Kiều" của
Nguyễn Du hay “Chí Phèo” của Nam Cao, có thể dùng từ “kiệt tác” khi đánh giá về
giá trị tác phẩm cũng như vị trí của chúng trong nền văn học dân tộc. Nhưng từ “kiệt
tác” lại không thể được dùng cho nhiều tác phẩm khác: “Rừng xà nu” của Nguyễn
Trung Thành, “Vợ nhặt” của Kim Lân,...
* Đảm bảo tính truyền cảm:
- Câu văn có tính triết lí tạo nên tính suy ngẫm và tính tư tưởng sâu sắc trong bài
Muốn lí lẽ sàu sắc phải biết viết những câu văn triết lí. Đó là những câu văn thể hiện
quan niệm chung của con người về các vấn đề nhân sinh và xã hội. Lí lẽ muốn sâu sắc
còn phải biết biện luận; biện luận là đưa ra lí lẽ ý kiến khác để tranh luận phải trái,
khẳng định ý kiến mà mình cho là đúng.
Chẳng hạn, trong bài viết về truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyên
Minh Châu, có thể có những câu văn triết lí như sau, chú ý câu văn in nghiêng:
Để có được cái đẹp đích thực, nghệ thuật lại phải một lần nữa hành trình để kiếm
tìm và cuộc hành trình này tất nhiên cũng không hề dễ dàng. Nếu không có một tâm
hồn lớn, một sự đồng cảm sâu sắc nhà văn sẽ khơng tìm thấy viên ngọc ẩn giấu sau
lớp vỏ hiện thực trần trụi kia. Điều đó cũng giống như việc người nghệ sĩ trong tác

phẩm, sau sự ngộ nhận đầu tiên nếu như không khám phá ra vẻ đẹp tiềm ẩn trong
24


người đàn bà làm nghề chài lưới kia có lẽ sẽ vĩnh viễn mất đi niềm tin vào sự tồn tại
của cái đẹp trong cuộc sống”.
- Câu văn giàu hình ảnh
+ Muốn viết câu văn giàu hình ảnh phải tưởng tượng phong phú, phải biết diễn
đạt sự tưởng tượng ấy bằng các phép so sánh.
+ Tưởng tượng tái tạo là tưởng tượng ra thế giới hình tượng của câu thơ, câu văn
rồi tái hiện nó như một bức tranh có đường nét, màu sắc, âm thanh bằng ngôn ngữ của
riêng mình.
+ Tưởng tượng sáng tạo là dùng phép liên tưởng để làm sự vật trước mắt phải
hiện ra, phải cho người ta cái kính viễn vọng để nhìn xa hơn, nhìn vào cả lương lai,
phải tượng ra cái phẩn ở ngoài của câu chữ nhưng phù hợp với quy luật của đời sống.
Có thể tham khảo ví dụ dưới đây, chú ý những từ ngữ được in nghiêng:
“Trên hành trình đến chân trời tương lai của sự nghiệp, một ngày kia Hộ gặp
Từ, một cô gái dịu dàng đoan trang thuỳ mị, thuỷ chung, xinh đẹp, chịu thương, chịu
khó đang rơi vào cảnh khốn cùng. Là con người giàu lòng nhân hậu, Hộ đã sẵn sàng
chìa bàn tay niềm mại của mình ra cứu vớt, dìu dắt cuộc dời Từ ra khỏi chốn bơ vơ.
Từ khi Hộ ghép cuộc đời Từ vào cuộc đời hắn, hắn có cả một gánh nặng vật chất gia
đinh phải chăm lo.”
- Câu văn giàu cảm xúc

+ Viết văn là viết ra những điều mình hằng quan tâm, suy nghĩ và cảm xúc về
cuộc đời. Chỉ có hiểu và đồng cảm với tác giả, với nhân vật thì mới viết được những
câu văn có cảm xúc; người viết phải biết khóc, biết cười với tác phẩm, phải có niềm
tin vào vấn đề mình đang nghị luận. Khi nhiệt tình ca ngợi hay bênh vực một vấn đề
nào đó thì câu văn sẽ là lời tâm huyết tự đáy lịng và khi ấy mới có cảm xúc thật sự và
chân thành.

+ Cảm xúc bộc lộ trực tiếp thể hiện qua những câu, những từ cảm thán để bày tỏ
cảm xúc của mình.
+ Cảm xúc bộc lộ gián tiếp được thể hiện qua những câu văn tỏ ra đồng cảm với
nhân vật, với những gì nhà văn trăn trở.
Vídụ
“Tây Bắc hiện lên trong câu thơ Chế Lan Viên thật đẹp, một vẻ đẹp huyền ảo, có
cái gì đó heo hút mà văn kỳ vĩ rất tiêu biểu cho vẻ đẹp núi rừng miền Tây. Phải quen
thuộc và gắn bó nhiều với Tây Bắc mới tạo ra được một hình ảnh thơ đơn sơ mà gợi
cảm và đúng đến thế!
- Câu văn có giọng điệu, nhịp điệu.
25


×