Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Nghiên cứu về lạm phát của trung quốc và việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (307.21 KB, 34 trang )

BÀI THẢO LUẬN
Môn: Tiền tệ-Ngân hàng.
Đề tài: Nghiên cứu về lạm phát của Trung Quốc & Việt Nam.
Nhóm thảo luận: Leaders. Lớp: QTMA-K9.
Bố cục bài:
Phần 1: Lý luận chung về lạm phát, nguyên nhân và giải pháp…….2
Phần 2: Nghiên cứu về lạm phát ở Trung Quốc trong 2 năm 2007, 2008.
1. Thực trạng………………………………………………………5
2. Nguyên nhân……………………………………………………8
3. Giải pháp……………………………………………………… 11
Phần 3: Nghiên cứu về lạm phát ở Việt Nam trong 2 năm 2007, 2008.
1. Thực trạng……………………………………………………….15
2. Nguyên nhân…………………………………………………….21
3. Giải pháp…………………………………………………………27
4. Một số ảnh hưởng của lạm phát đến nền kinh tế……………… 31
Phần 1: Lý lụân chung về lạm phát
1. Khái niệm và các loại lạm phát
1.1 Khái niệm lạm phát
Có 2 cách tiếp cận
- Thứ nhất: xuất phát từ việc xem xét các nguyên nhân của lạm phát.
Lạm phát là quá nhiều tiền đi săn quá ít hàng.
Hoặc Lạm phát là khi tiền lương danh nghĩa tăng nhanh hơn năng suất
lao động.
 chỉ đưa ra các cách giải thích khác nhau về nguyên nhân lạm phát,
chưa phải là một định nghĩa lạm phát theo đúng nghĩa.
- Thứ hai: tập trung vào những ảnh hưởng của lạm phát.
Lạm phát là mức giá cả chung (mức giá bình quân ) tăng lên.
 Đây là hiện tượng phổ biến hiện nay và xảy ra ở tất cả các nước với
mức biến động giá khác nhau.
1.2 Các loại lạm phát
Căn cứ vào tốc độ lạm phát, chia ra làm 3 loại khác nhau:


1.2.1. Lạm phát vừa phải:
Lạm phát vừa xảy ra khi tốc độ tăng giá chậm, ở mức 1 con số.
1.2.2. Lạm phát phi mã:
Là loại lạm phát xảy ra khi giá cả bắt đầu tăng ở mức hai, ba con số như
20%, 100% hoặc 200%/ năm.
1.2.3. Siêu lạm phát:
Xảy ra khi tốc độ tăng giá vượt xa mức lạm phát phi mã có thể lên tới
hàng nghìn tỷ lần.
Đặc trưng cơ bản của các cuộc siêu lạm phát:
- siêu lạm phát có sức phá huỷ mạnh toàn bộ mọi hoạt động của nền
kinh tế và thường đi kèm với suy thoái kinh tế nghiêm trọng.
- lạm phát thường xảy ra do các biến cố lớn dẫn đến đảo lộn trật tự xã
hội như chiến tranh, khủng hoảng chính trị.
- Nguyên nhân duy nhất của mức tăng giá khủng khiếp là do phát hành
tiền giấy không hạn chế nhằm bù đắp thiếu hụt NSNN.
2. Nguyên nhân lạm phát
2.1. Lạm phát cầu kéo
Đây là nguyên nhân do tổng cầu (AD )- tổng chi tiêu của xã hội tăng lên -
vượt qua mức cung ứng hàng hoá của xã hội dẫn đến áp lực làm tăng giá cả.
Các lý do cụ thể:
- Chi tiêu của chính phủ tăng lên
- Chi dùng của các hộ gia đình tăng lên
- Nhu cầu đầu tư của các doanh nghiệp tăng lên
- Do chính sách tiền tệ mở rộng
- Các yếu tố liên quan đến nhu cầu của nước ngoài
2.2. Lạm phát chi phí đẩy
Đặc điểm quan trọng của loại lạm phát chi phí đẩy là áp lực làm tăng giá
cả xuất phát từ sự tăng lên của chi phí sản xuất vượt quá mức tăng của năng
suất lao động và làm giảm mức cung ứng hàng hoá của xã hội. Chi phí sản
xuất có thể tăng lên do:

- Mức tăng tiền lương vượt quá mức tăng của năng suất lao động.
- Sự tăng lên của mức lợi nhuận ròng của người sản xuất đẩy giá cả
hàng hoá lên.
- Do giá nội địa của hàng nhập khẩu tăng lên, có thể do áp lực lạm phát
của nước xuất khẩu, hoặc do giá trị nội tệ giảm so với ngoại tệ hoặc
do ảnh hưởng của khủng hoảng
- Do sự tăng lên của thuế và các khoản nghĩa vụ với NSNN ảnh hưởng
tới mức sinh lời của hoạt động đầu tư, giá cả tăng lên là tất yếu nhằm
duy trì mức sinh lời thực tế.
3. Hậu quả của lạm phát
3.1. Lạm phát có thể dự tính được
Mức lạm phát thực tế phù hợp với dự tính nên lạm phát không gây ảnh
hưởng gì đến sản lượng, hiệu quả và phân phối thu nhập.
3.2. Lạm phát không thể dự tính
Khi tỷ lệ lạm phát biến động ngoài dự tính, nó tạo nên sự biến động bất
thường về giá trị tiền tệ và làm sai lệch toàn bộ thước đo các quan hệ giá trị,
ảnh hưởng đến mọi hoạt động kinh tế xã hội:
- Lạm phát tạo nên sự bất ổn định cho môi trường kinh tế xã hội
- Phân phối lại thu nhập quốc dân và của cải xã hội
- Lãi suất tăng lên
- Ảnh hưởng đến cán cân thanh toán quốc tế
- Ảnh hưởng đến tỷ lệ thất nghiệp
4. Các giải pháp kiềm chế lạm phát
4.1. Giá của chính sách chống lạm phát
4.2. Các giải pháp giảm tỷ lệ lạm phát
4.2.1. Nhóm giải pháp tác động vào tổng cầu
Các giải pháp này nhằm hạn chế sự gia tăng quá mức của tổng cầu, gồm:
- chính sách tiền tệ khan hiếm
- kiểm soát chi tiêu của NSNN
- thực hiện chính sách khuyến khích tiết kiệm giảm tiêu dùng

4.2.2. Nhóm giải pháp tác động vào cung
Giải pháp quan trọng nhất là tác động vào mối quan hệ giữa mức tăng
tiền lương và mức tăng của năng suất lao động xã hội.
4.2.3. Nhóm giải pháp nhằm mở rộng khả năng cung ứng hàng hoá
- Giải pháp tình thế : nhập khẩu hàng hóa, nhất là các hàng hoá khan
hiếm góp phần giảm áp lực đối với giá cả.
- Chiến lược dài hạn: tăng khả năng sản xuất hàng hoá trong nước.
Phần 2. Nghiên cứu tình trạng lạm phát ở Trung Quốc.
Lạm phát đang công phá nhiều nền kinh tế, nhưng đáng lo ngại hơn cả là
bệnh dịch này không còn dừng lại ở Mỹ hay ở châu Âu mà nay đã tràn sang
cả Trung Quốc - nơi tăng trưởng kinh tế là hi vọng, động lực của kinh tế
toàn cầu.
Lạm phát ở Trung Quốc vẫn đang tăng bất chấp các giải pháp cấp bách
của chính phủ nhằm “hạ nhiệt” nền kinh tế, như chính sách khuyến khích
nông dân tăng cường nuôi lợn, hay quyết định tăng lãi suất lên gấp 6 lần của
chính phủ hồi năm ngoái.

I.Thực trạng lạm phát đó của Trung Quốc được thể hiện rất rõ.
BẢNG THỐNG KÊ
Tỷ lệ lạm phát của Trung Quốc từ 2003 2008
Nguồn:
Năm 2007 và 2008 là 2 năm mà Trung Quốc đối mặt với tình hình lạm
phát căng thẳng nhất. Đây là một số số liệu về lạm phát 8 tháng đầu năm
2008:
Tháng/2008 1 2 3 4 5 6 7 8
Tỷ lệ lạm phát
(%)
7.1 8.7 8.3 8.5 7.7 7.11 6.3 4.9
Trung Quốc, một trong những nền kinh tế được coi là “cứu tinh” của
kinh tế châu Á, đã kết thúc tháng 1/2008 với tỷ lệ lạm phát cao nhất trong

vòng 11 năm qua, một phần do ảnh hưởng của thời tiết khắc nghiệt.
Thời tiết quá lạnh làm hỏng mùa màng, nông nghiệp, khiến giá thực
phẩm tiếp tục leo thang, qua đó đẩy lạm phát tiếp tục tăng dữ dội. Do vậy,
chỉ số giá tiêu dùng của Trung Quốc (CPI) đã tăng 7,1% so với cùng kỳ năm
ngoái, theo như con số chính thức của Tổng cục Thống kê nước này đưa ra
ngày 19/2/2008. Thời gian qua tại Trung Quốc, giá gạo, trứng gà, rau quả đã
tăng mạnh mẽ, liên tục. Trong đó, đặc biệt tăng mạnh là giá thịt, nhất là thịt
lợn, với việc ở nhiều nơi tăng tới gần 50%. Riêng thực phẩm tăng tới 18%
tính về giá trong tháng 1/2008. Trong đó, tăng dữ dội nhất và cũng dễ nhìn
thấy nhất là mặt hàng thịt lợn, tăng tới 59%. Cùng thời gian, dầu ăn tăng
37% và rau xanh tăng tới 14%. Các mặt hàng phi thực phẩm tăng 1,5% so
với cùng kỳ năm ngoái.
Lạm phát của Trung Quốc tiếp tục leo thang như vậy, bất chấp các nỗ
lực kiềm chế lạm phát của chính phủ nước này.Chủ tịch Trung Quốc Hồ
Cẩm Đào hôm 3/2 đã chủ trì một cuộc họp khẩn cấp của Bộ chính trị để bàn
về những nỗ lực giải cứu. Đây là cuộc họp thứ 2 kiểu này trong vòng một
tuần.
Trong khi đó, các nhà xuất khẩu của Trung Quốc, đất nước được mệnh
danh là “công xưởng của thế giới’, đã buộc phải tăng giá hàng, khiến “bão
giá” lan sang cả Mỹ và châu Âu.Giá cả của khu vực dịch vụ tại Trung Quốc
cũng đã tăng 2,6%, phản ánh chi phí nhân công ở nước này đang có xu
hướng tăng.Tỷ lệ lạm phát 7,1% của Trung Quốc trong tháng 1/2008 là mức
cao nhất kể từ tháng 9/1996, khi lạm phát lập ngưỡng 7,4%.
Theo ICBC, chỉ số CPI của Trung Quốc sẽ vào khoảng 8,2% trong
tháng 3, giảm nhẹ so với tháng 2, khi tác động của đợt bão tuyết đã tàn phá
Trung Quốc hồi đầu năm không còn đeo đẳng nữa . Lạm phát ở Trung Quốc
trong tháng 2 năm 2008 đã tăng lên 8,7% so với cùng kỳ năm trước, mức
tăng cao nhất trong gần 12 năm qua. Giá lương thực, thực phẩm tăng 23,3%,
trong khi giá những loại hàng hóa khác chỉ tăng 1,6% so với cùng kỳ năm
trước. Một đợt tăng giá ngũ cốc mới trên thế giới trong đó có giá gạo và lúa

mỳ, có thể sẽ gia tăng thêm sức ép đối với nỗ lực chống lạm phát của Chính
phủ Trung Quốc.
Tuy nhiên, các nhà kinh tế đã dự đoán tỷ lệ lạm phát của Trung Quốc có
thể sẽ bắt đầu giảm trong nửa cuối năm 2008, khi biện pháp kiểm soát vĩ mô
của chính phủ phát huy tác dụng
Quả thật, lạm phát của Trung Quốc đã giảm vào tháng 7 theo số liệu
mới được thông báo, giúp Trung Quốc đẩy mạnh tăng trưởng của nền kinh
tế khi đang có dấu hiệu chậm lại.Tổng cục Thống kê ở Bắc Kinh thông báo
rằng giá tiêu dùng trong tháng 7 tăng 5,6% so với cùng kỳ năm 2007. Hãng
tin Reuters cho hay: giá thịt ở Trung Quốc tăng 45% so với năm 2007 và giá
lương thực tính chung tăng hơn 15%.
Một khó khăn lớn nữa với kinh tế Trung Quốc là tình trạng giá dầu leo
thang, đã lên 128 USD/thùng, trong khi nhu cầu dầu của Trung Quốc đang
tăng mạnh. Để tránh rơi vào tình trạng thiếu nhiên liệu, Trung Quốc gần đây
đã phải áp dụng các biện pháp trợ giá tới 45 tỷ USD (tương đương 1,1%
GDP và khoảng 5,2% tổng thu ngân sách). Để không xảy ra tình trạng mất
điện trong mùa hè này, Trung Quốc có thể cần phải áp dụng các biện pháp
trợ giá tốn kém hơn.
Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo cho hay, nước này đặt ra mục tiêu
giữ CPI vào khoảng 4,8% năm nay. Nhiệm vụ ưu tiên của chính sách điều
chỉnh kinh tế vĩ mô năm 2008 là ngăn chặn tăng trưởng kinh tế quá nóng và
giữ cấu trúc giá tăng hợp lý. "Đồng thời, chúng ta xem xét khả năng chịu
đựng mức giá tăng của cá nhân, doanh nghiệp và toàn thể xã hội, đồng thời
cố gắng tránh tăng giá đột ngột’’, ông Ôn Gia Bảo nói.
Thủ tướng Trung Quốc thừa nhận, nước này đang phải đối mặt với ’’áp
lực lạm phát ngày một gia tăng’’ và nhiệm vụ giảm lạm phát là ’’rất khó
khăn’’.
Tất cả những dấu hiệu trên báo hiệu tình trạng giảm tốc đang đến gõ cửa
Trung Quốc. Trung Quốc đã phát triển quá nhanh để giữ được tốc độ 10%
mà họ đã duy trì 30 năm, và sẽ giảm xuống 8% vào năm sau.

II. Nguyên nhân gây ra lạm phát ở Trung Quốc
1. Lạm phát cầu kéo
Giá thực phẩm tăng cao được xem như là nguyên nhân chính đẩy tỷ lệ
lạm phát của Trung Quốc từ mức 6,5% của tháng 12/2007 lên 7,1% trong
tháng đầu tiên của năm 2008. Mùa đông tồi tệ nhất trong nhiều thập kỷ kỷ
qua ở đất nước đông dân nhất thế giới đã gây ảnh hưởng nghiên trọng đến
nguồn cung thực phẩm, dẫn đến việc giá cả tăng 18%. Các trận bão tuyết lớn
đã khiến giao thông đình trệ, mùa vụ thất thu, gia súc gia cầm chết hàng loạt.
Nguyên nhân CPI tăng mạnh chủ yếu là do giá thực phẩm tăng mạnh,
nhất là các sản phẩm thịt. Nhóm thực phẩm đã tăng giá tới 15,4%, trong khi
các nhóm khác chỉ tăng khoảng 0,9%. Nhất là giá thịt lợn, ở nhiều nơi tăng
tới gần 50%.
Tuy nhiên, giới phân tích cho rằng thời tiết khắc nghiệt không phải là
nguyên nhân duy nhất đằng sau tình trạng giá thực phẩm leo thang. Giá hàng
tiêu dùng tại TQ đã tăng 1,2% chỉ trong 1 tháng, từ tháng 12/2007 đến tháng
1/2008.
Đợt bão tuyết tồi tệ nhất vào đầu tháng 2/2008 ở TQ đã làm hư hại
khoảng 10% diện tích canh tác của nước này, tàn phá nhiều công trình, gây
cản trở giao thông, đẩy giá cả nhu yếu phẩm tăng cao. Một số chuyên gia đã
nâng dự báo lạm phát của Trung Quốc năm 2008 từ 4,5% lên 5%.
Ngày 20/2, Bộ Nông nghiệp Trung Quốc (MOA) cho biết, khoảng
11,87 triệu ha cây trồng của nước này bị hỏng. Khoảng 7 triệu ha đất canh
tác đã bị ảnh hưởng do bão tuyết, trong đó hơn 700 triệu ha mất trắng hoa
màu khiến cho nguồn cung lương thực – thực phẩm bị sụt giảm.
Trung Quốc còn buộc phải chi nhiều khoản tiền đầu tư để sửa chữa hệ
thống giao thông, điện, viễn thông bị hư hại. Vì vậy, bão tuyết không chỉ
làm gia tăng lạm phát, mà còn ảnh hưởng chính sách thắt chặt đầu tư, hạn
chế tình trạng kinh tế phát triển quá nóng của Trung Quốc.
2. Lạm phát chi phí đẩy
Áp lực tăng giá cả xuất phát từ sự tăng lên của chi phí sản xuất vượt

qua mức tăng của sức lao động và làm giảm mức cung ứng hàng hóa của xã
hội.
Tình trạng lạm phát gia tăng chủ yếu do giá lương thực phẩm và giá
năng lượng trên thị trường toàn cầu tăng và do tác động của một số nhân tố
trong nước, trong đó có chi phí đầu vào và nhu cầu tăng mạnh. Một đợt tăng
giá ngũ cốc mới trên thế giới trong đó có giá gạo và lúa mỳ, có thể sẽ gia
tăng thêm sức ép đối với nỗ lực chống lạm phát của Chính phủ Trung Quốc.
Có một số ý kiến cho rằng công nghiệp hoá, đô thị hoá đã đẩy nhanh
tốc độ thu hẹp diện tích đất trồng mới là nguyên nhân cơ bản của lần lạm
phát mang tính xu hướng này.
Về cung lương thực, công nghiệp hoá, đô thị hoá đã từng bước đẩy
nhanh việc chiếm dụng một khối lượng lớn tư liệu sản xuất, dẫn tới khó
khăn cho tăng trưởng lương thực.
Một là chiếm dụng đất làm giảm diện tích đất canh tác. Từ 2003-
2006, diện tích đất canh tác thuần giảm ở Trung Quốc là 60.0915 triệu mẫu,
bình quân hàng năm giảm trên 10 triệu mẫu. Theo xu thế hiện nay, đến năm
2020, đất canh tác ở Trung Quốc sẽ thiếu hụt từ 100 triệu mẫu trở lên.
Hai là chuyển dịch khối lượng lớn sức lao động trẻ của nông thôn,
khiến sản xuất ở nông thôn bị suy giảm, tăng trưởng năng suất lao động
chậm
Ba là, công nghiệp hoá, đô thị hoá từng bước đẩy giá lương thực tăng
nhanh. Quá trình này đã đẩy nhanh tốc độ tăng nhu cầu sử dụng đất cùng với
sự suy giảm nhanh chóng của diện tích đất canh tác đã khiến giá đất sử dụng
cho công nghiệp tăng vọt, kéo theo giá đất nông nghiệp. Cùng lúc đó hiệu
suất trồng trọt giảm sút khiến thành phẩm lương thực có cơ tăng giá. Đây lại
là lạm phát do chi phí đẩy.
Sự phát triển của công nghiệp hoá và đô thị hoá còn kéo theo sự tăng
giá của dầu thô, nguyên liệu và các sản phẩm thiết yếu khác, đồng thời nó
làm tăng giá tư liệu sản xuất, khiến giá các vật dụng phải đầu tư vào sản xuất
lương thực cùng các dịch vụ có liên quan tăng giá rõ rệt.

Chi phí sản xuất tăng do các nguyên nhân sau:
Thứ nhất, lương nhân công tăng nhanh. Năm 2005, giá nhân công rẻ
khiến Trung Quốc nhanh chóng trở thành công xưởng của thế giới nhưng
giờ đây lương trả cho người lao động ở thành thị đã tăng tới mức hai con số,
tính riêng 6 tháng đầu năm 2007, mức lương trả cho nhân công Trung Quốc
đã tăng 18%.
Thứ hai, Trung Quốc đang khuyến khích các địa phương như Bắc Kinh,
Thượng Hải, Thẩm Quyến, Quảng Châu và Nam Ninh tăng tối đa lương tối
thiểu của người lao động vì vậy sự tăng lương đã góp phần làm cho hàng
hóa Trung Quốc tăng giá.
Thứ ba, giá của các loại nguyên liệu thô đầu vào đều tăng khiến giá sản
phẩm phải đội lên theo.
Thứ tư, là nhân dân tệ đang mạnh lên rõ rệt khiến hàng hóa Trung Quốc
lên giá khi xuất khẩu.
III. Một số bài học từ Trung Quốc trong kiềm chế lạm phát
Sau thời gian nỗ lực, hiện nay Trung Quốc thành công trong việc kiểm
soát và giữ tỷ lệ lạm phát ở mức như mục tiêu đề ra trong năm 2008 là 4,8%.
Và lạm phát thấp nhất trong 14 tháng qua cho phép chính phủ Trung Quốc
cắt giảm các khoản chi phí vay mượn, đồng thời bảo vệ công ăn việc làm
trong nền kinh tế lớn thứ 4 thế giới. Vậy, Trung Quốc đã làm những gì để
kiềm chế lạm phát?
Nhận thấy lạm phát đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống kinh tế
cũng như xã hội, ngay khi bước sang năm 2008, các nhà lãnh đạo Trung
Quốc khẳng định, chống lạm phát là ưu tiên kinh tế hàng đầu của đất nước.
Không như Mỹ, nước thường xuyên chú trọng tăng lãi suất khi khối lượng
đồng đô la Mỹ quá lớn, đến nay Trung Quốc không tăng lãi suất, một phần
vì sợ thu hút đồng tiền đầu cơ vào nội địa. Trái lại, từ đầu năm tới nay Trung
Quốc đã triển khai một chiến lược nhiều hướng, nhiều mũi để ngăn chặn lạm
phát, trong đó nổi lên một số biện pháp sau.
1. Bắt buộc các ngân hàng quản lý tiền mặt chặt chẽ.

Trong năm , một lần nữa Ngân hàng Trung ương yêu cầu các ngân hàng
tăng khoản dự trữ từ 16,5% lên 17,5%. Kể từ giữa năm 2006 đến nay, đây là
lần thứ 18 Ngân hàng Trung ương yêu cầu các ngân hàng tăng tỷ lệ dự trữ
bắt buộc. Tuy nhiên, sau khi các ngân hàng tăng khoản dự trữ mới, các thị
trường chứng khoán ở Trung Quốc giảm đáng kể, do đó chiến thuật này ít
hiệu quả. Ngân hàng Trung ương cũng yêu cầu các ngân hàng phải thường
xuyên kiểm tra số lượng các khoản vay mới, bởi vì đây là một thách thức lớn
trong quá trình đáp ứng nhu cầu tái thiết sau khi xảy ra trận động đất.
2. Tăng vốn đầu tư ra nước ngoài
Hiện chính phủ Trung Quốc đang khuyến khích các nguồn vốn đầu tư
ra nước ngoài. Để thực hiện chủ trương này, các nhà chức trách đã giảm bớt
các quy định đối với các khoản đầu tư nước ngoài của các công ty Trung
Quốc, một biện pháp nhằm giảm bớt lượng tiền mặt nhàn rỗi quá lớn trong
hệ thống tài chính nội địa. Chính phủ cũng khuyến khích mạnh mẽ các tổ
chức tài chính Trung Quốc phát triển ra thế giới và cung cấp tài chính cho
các công ty nội địa nào muốn hoạt động kinh doanh ở các nước trên thế giới.
3. Thiết lập các khoản dự trữ
Năm 2008, giá lương thực tăng mạnh so với năm 2007. Để hạn chế giá
lương thực không vượt khỏi vòng kiểm soát, Trung Quốc tiếp tục duy trì các
khoản dự trữ lương thực chiến lược gồm năm loại sản phẩm : ngũ cốc, dầu
thực vật, đường, thịt, chè và tăng các nguồn cung cấp khi cần thiết để kiểm
soát giá. Trong thời gian diễn ra các trận bão tuyết lớn mùa đông năm 2007,
Chính phủ còn thiết lập các khoản dự trữ tạm thời. Bộ Thương mại Trung
Quốc cho biết, Trung Quốc sẽ tăng số lượng các loại hàng hoá nông nghiệp
hiện có trong các khoản dự trữ nhà nước và mở rộng quy mô các khoản dự
trữ để bảo đảm các nguồn cung cấp trong nước khi cần thiết.
4. Kiểm soát chặt chẽ giá và tăng trợ cấp
Từ lâu, Chính phủ Trung Quốc đã kiểm soát chặt chẽ giá của một số mặt
hàng như xăng dầu và các nhiên liệu khác. Bước sang năm 2008, Uỷ ban Cải
cách và Phát triển Quốc gia quyết định kiểm soát giá của hàng loạt sản

phẩm, trong đó có ngũ cốc, dầu lửa, thịt, trứng, hơi đốt tự nhiên. Theo quyết
định của Uỷ ban này, các công ty lớn phải trình kế hoạch tăng giá cho Chính
phủ xem xét 10 ngày trước khi họ tăng giá sản phẩm. Ngoài ra, Chính phủ
còn áp dụng nhiều biện pháp khác để ổn định giá và trừng phạt nghiêm khắc
theo Luật Giá cả các tổ chức và cá nhân tích trữ và đầu cơ các loại hàng hoá
cơ bản. Tất cả các nhà sản xuất hàng hoá tiêu dùng quy mô lớn phải được sự
chấp thuận của Chính phủ trước khi tăng giá bất cứ loại hàng hoá nào, kể cả
bán buôn và bán lẻ.
Để khuyến khích và hỗ trợ người nông dân, từ năm 2007 đến nay,
Chính phủ tăng gấp đôi các khoản trợ cấp nhiên liệu cho nông dân và các
ngành sản xuất khác bị ảnh hưởng do chi phí nhiên liệu tăng.
Ngoài ra, Chính phủ còn áp dụng một loạt các biện pháp khác để ngăn
chặn lạm phát tăng. Tháng 4/2008, Chính phủ tăng 100% thuế xuất nhập
khẩu phân bón; tăng thuế xuất khẩu ngũ cốc và một số hàng hoá khác nhằm
tăng thêm các nguồn cung cấp và ổn định giá trong nước. Đáng chú ý là
tháng 7/2008, Ngân hàng Trung ương giảm bớt hạn chế đối với việc cho
vay của các ngân hàng.
Ngân hàng Trung ương nâng chỉ tiêu vay năm 2008 của các ngân hàng
quốc gia khoảng 5% và các ngân hàng khu vực khoảng 10%. Do tình hình
lạm phát giảm xuống mức thấp nhất, ngày 15/9/2008, Ngân hàng Trung
ương quyết định giảm lãi suất cơ bản bằng đồng tệ từ 7,47% xuống 7,20%
để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Từ ngày 25/9/2008,Ngân hàng cũng giảm
bớt dự trữ bắt buộc 1% từ 17,5% xuống 16,5%, sau 5 lần liên tục tăng từ đầu
năm đến nay.
Với ý kiến cho rằng đô thị hóa là nguyên nhân sâu xa của lạm phát thì
để kiềm chế được nó, Trung Quốc phải giải quyết vấn đề từ gốc. khởi
nguyên của cuộc lạm phát lần này ở Trung Quốc - một tiến trình đô thị hoá
thiếu sự điều tiết. Nắm lấy điểm đầu ấy để giải quyết quyết liệt mới là cách
xử trị cả gốc lẫn ngọn, còn nếu chỉ dựa vào những biện pháp giải quyết trong
chính sách tiền tệ, chính sách tỷ giá thì chỉ có thể xử lý được phần ngọn mà

thôi.
Tuy nhiên, dư luận cho rằng, các nhà hoạch định chính sách của Trung
Quốc vẫn phải cân bằng các biện pháp để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
chống nguy cơ lạm phát tăng trở lại.
Phần 2. Nghiên cứu tình trạng lạm phát ở Việt Nam.
I. Thực trạng lạm phát Việt Nam
12 là con số được lặp lại nhiều lần khi nói đến lạm phát trong những ngày
cuối năm 2007. Theo ước tính mới nhất của Tổng cục Thống kê, chỉ số
giá tiêu dùng (CPI) của Việt Nam vào tháng 12/2007 đã tăng 12,6% so
với tháng 12/2006. Đây là mức tăng giá tiêu dùng cao nhất trong vòng 12
năm qua.
Lạm phát giai đoạn 1995-2007, tính theo chỉ số
giá tiêu dùng tháng 12 mỗi năm so với tháng 12
năm trước. (Nguồn: Tổng cục Thống kê)
Năm 2008, tình hình lạm phát của VN có chiều hướng gia tăng trong 8
tháng đầu năm vượt xa những gì đã được dự tính trong năm 2007. Bản
thân sự bất ổn của giá cả các tháng trong năm cũng làm cho nhiều nhà
nghiên cứu bất ngờ.
Tuy nhiên trong các tháng cuối năm với sự điều chỉnh của giá cả hàng
hóa thế giới mà đặc biệt là giá dầu và tâm lý lo ngại về sự bất ổn lương
thực toàn cầu qua đi đã làm giảm áp lực và tâm lý chung của người tiêu
dùng đối với các loại hàng hóa
Chỉ số giá tiêu dùng của một số nhóm măt hàng từ tháng 1 đến tháng 9
Tháng 1
Nhu cầu tiêu dùng tháng giáp Tết nguyên đán tăng mạnh, cùng với sức
mua tăng do tăng lương, tiền thưởng và lượng kiều hối cuối năm về nhiều
đã ảnh hưởng đến tốc độ tăng giá ở hầu hết các nhóm hàng hoá và dịch vụ.
Giá tiêu dùng cả nước tháng này tăng 2,38% so với tháng trước, trong đó :
- Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng cao nhất ở mức 3,76%;
- Giá thực phẩm tăng 3,75%

- Nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 2,88%;
- Đồ uống và thuốc lá tăng 1,77%;
- Các nhóm hàng chủ yếu khác tăng nhẹ ở mức từ 0,06% đến 0,85%; So
với tháng 01/2007, giá tiêu dùng tháng này tăng 14,11%, cao hơn hai
lần mức tăng 6,5% của cùng kỳ năm trước.
Tháng 2
So với tháng trước giá tiêu dùng tháng 02/2008 tăng 3,56%, cao hơn mức
tăng giá tiêu dùng 2,38% của tháng 01/2008 so với tháng 12/2007. Trong
các nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng, nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống
tăng cao nhất, ở mức 6,18% và là mức tăng giá cao nhất so với mức tăng
giá của nhóm này các tháng gần đây. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu
dùng khác tăng không nhiều, chỉ từ 0,1% cho tới 2,34%; Riêng giá phân
nhóm dịch vụ bưu chính viễn thông tiếp tục giảm 0,22% so với tháng
trước.
So với tháng 12/2007, giá tiêu dùng tháng 02/2008 tăng 6,02% và
bình quân hai tháng đầu năm giá tiêu dùng đã tăng 14,89% so với cùng kỳ
năm trước, trong đó tăng cao nhất vẫn là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống
(hàng thực phẩm tăng 26,82%; ăn uống ngoài gia đình tăng 22,03%; hàng
lương thực tăng 17,43%).
Tháng 3
So với tháng trước, giá tiêu dùng tháng 3/2008 tăng 2,99% (tháng 02 tăng
3,56% và tháng 01 tăng 2,38%). Tuy nhiên, đây vẫn là mức tăng cao và bất
thường so với mức tăng giá tiêu dùng tháng 3 của các năm trước đây.

Chỉ số giá tiêu dùng
%
2004 2005 2006 2007 2008
Tháng trước = 100
Tháng 1 101,1 101,1 101,2 101,05 102,38
Tháng 2 103,0 102,5 102,1 102,17 103,56

Tháng 3 100,8 100,1 99,5 99,78 102,99
Tháng 12 năm
trước=100

Tháng 1 101,1 101,1 101,2 101,05 102,38
Tháng 2 104,1 103,6 103,3 103,24 106,02
Tháng 3 104,9 103,7 102,8 103,02 109,19
Trong các nhóm hàng hóa và dịch vụ tháng này, tăng mạnh đẩy giá lên là
các nhóm hàng lương thực; phương tiện đi lại, bưu điện; nhà ở và vật liệu
xây dựng với các mức tăng so với tháng trước lần lượt là:
- Lương thực tăng 10,5%;
- Phương tiện đi lại, bưu điện tăng 5,76%;
- Nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 3,55%;
So với tháng 12/2007, giá tiêu dùng ba tháng đã tăng 9,19%, trong đó :
- Hàng lương thực tăng 17,91%;
- Thực phẩm tăng 13,08%;
- Nhà ở, vật liệu xây dựng tăng 8,01%;
- Phương tiện đi lại, bưu điện tăng 7,32%;
- Các nhóm khác tăng phổ biến từ 0,6% đến 4,4%.
Bình quân mỗi tháng trong quí I năm nay, giá tiêu dùng đã tăng ở mức
16,38% so với quí I năm trước, trong đó hàng thực phẩm tăng 28,41%;
lương thực tăng 21,53%; nhà ở, vật liệu xây dựng tăng 17,94%; phương
tiện đi lại, bưu điện tăng 10,05%; các nhóm khác tăng phổ biến từ 2%
đến 7,7%.
Tháng 4
Giá tiêu dùng tháng 4/2008 đã tăng thấp hơn mức tăng của các tháng
trước nhưng vẫn còn tăng và nhiều mặt hàng đứng ở mức giá cao.
So với tháng trước, giá tiêu dùng tháng 4/2008 tăng 2,2% (tháng
1/2008 tăng 2,38%; tháng 2 tăng 3,56%; tháng 3 tăng 2,99%).
So với tháng 12 năm 2007, giá tiêu dùng tháng 4 tăng 11,6%, trong đó

hàng lương thực tăng 25,1%; thực phẩm tăng 15,6%; nhà ở, vật liệu xây
dựng tăng 10,8%. So với tháng 4 năm 2007, giá tiêu dùng tháng 4 năm
2008 tăng 21,42%. Giá tiêu dùng bình quân 4 tháng đầu năm 2008 tăng
17,6% so với 4 tháng đầu năm trước.
Tháng 5
Giá cả thị trường đang diễn biến phức tạp. Giá tiêu dùng tháng 5/2008 so với
tháng trước tăng 3,91%, tăng cao nhất trong 5 tháng đầu năm nay. Giá nhóm
hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng cao nhất với 7,25%, trong đó lương thực
tăng đột biến ở mức 22,19%; giá thực phẩm tăng 2,28%
So với tháng 12/2007, giá tiêu dùng tháng 5/2008 tăng 15,96%, trong
đó nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 26,56%; nhà ở và vật liệu xây
dựng tăng 12,17%; phương tiện đi lại và bưu điện tăng 10,2%.
So với cùng kỳ năm 2007, giá tiêu dùng tháng này tăng 25,2%. Giá tiêu
dùng bình quân 5 tháng đầu năm 2008 tăng 19,09% so với 5 tháng đầu
năm 2007.
Tháng 6
Giá tiêu dùng tháng 6/2008 đã tăng chậm lại, ở mức tăng 2,14% so với
tháng trước. Đây là tháng có mức tăng thấp nhất trong 6 tháng đầu năm nay,
nhưng vẫn là mức tăng cao nhất so với chỉ số giá tháng 6 của một số năm
gần đây. Trong các nhóm hàng hoá và dịch vụ, giá lương thực tháng 6 năm
2008 tuy tăng thấp hơn nhiều so với mức tăng 22,19% của tháng trước
nhưng vẫn là nhóm hàng có mức tăng cao nhất với 4,29%. Các nhóm hàng
hoá, dịch vụ có giá tăng cao hơn mức tăng của tháng 5/2008 gồm: Thực
phẩm tăng 3,05%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 1,93%; thiết bị và đồ
dùng gia đình tăng 1,28%; dược phẩm, y tế tăng 0,66%; giáo dục tăng
0,67%; đồ dùng và dịch vụ khác tăng 0,96%.
So với tháng 12 năm 2007, giá tiêu dùng tăng 18,44% (cùng kỳ năm
trước tăng 5,2%), trong đó các nhóm hàng hoá có giá tăng cao là: Lương
thực tăng 59,44%; thực phẩm tăng 21,83%; nhà ở và vật liệu xây dựng
tăng 14,34%; phương tiện đi lại, bưu điện tăng 10,58%; các nhóm hàng

hóa và dịch vụ khác tăng từ 2,12% đến 8,21%.
So với giá tiêu dùng bình quân 6 tháng đầu năm 2007, giá tiêu dùng bình
quân 6 tháng đầu năm nay tăng 20,34% (cùng kỳ năm trước tăng 7%).
Tháng 7
Giá tiêu dùng tháng 7/2008 tăng 1,13% so với tháng trước (chưa bao gồm
tác động của giá xăng dầu trong nước tăng vào ngày 21/7/2008), là tháng
có tốc độ tăng giá thấp nhất trong vòng 7 tháng đầu năm nay. Trong đó giá
các nhóm hàng hoá và dịch vụ khác giảm hoặc tăng thấp hơn mức tăng
chung, gồm: Giáo dục tăng 1,02%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng
0,99%.
So với cùng kỳ năm trước, giá tiêu dùng tháng 7/2008 tăng 27,04%; so
với tháng 12/2007, giá tiêu dùng tháng 7/2008 tăng 19,78%. Giá tiêu dùng
bình quân 7 tháng năm 2008 so với 7 tháng năm 2007 tăng 21,28%.
Đến thời điểm này, các giải pháp kiềm chế lạm phát của Chính phủ tiếp
tục phát huy tác dụng, giá tiêu dùng đã giảm dần. Tuy nhiên, giá xăng dầu
tăng sẽ tác động đến giá của nhiều hàng hoá và dịch khác trong những
tháng tới.
Tháng 8
Giá tiêu dùng tháng 8/2008 tăng 1,56% so với tháng trước, cao hơn mức
tăng 1,13% của tháng 7 do giá xăng dầu tăng cuối tháng 7 đã ảnh hưởng đến
giá tiêu dùng tháng này, trong đó giá nhóm phương tiện đi lại, bưu điện chịu
tác động trực tiếp nên tăng mạnh ở mức 9,07% .
So với cùng kỳ năm trước, giá tiêu dùng tháng 8/2008 tăng 28,32%; so
với tháng 12/2007, giá tiêu dùng tháng 8/2008 tăng 21,65%. Giá tiêu dùng
bình quân 8 tháng năm 2008 so với 8 tháng năm 2007 tăng 22,14%.
II. Vậy đâu là những nguyên nhân lạm phát Việt Nam trong những
năm gần đây. Sau đây là những nguyên nhân cơ bản:
- Thứ nhất, do cầu kéo. “Tập quán” của nền kinh tế nước ta là đầu
năm “đủng đỉnh”, cuối năm “vắt giò lên cổ” để hoàn thành kế hoạch. Còn
trong tiêu dùng của dân thì “dốc túi” chi tiêu khi “năm hết, tết đến”. Do đó,

sẽ tạo ra áp lực tăng giá rất lớn trong những tháng cuối năm.
- Năm 2007 là năm đầu tiên nước ta gia nhập “ngôi nhà chung” WTO
hứa hẹn triển vọng phát triển sáng sủa hiếm có. Trong bối cảnh như vậy, cho
dù nền kinh tế đã đạt được tốc độ tăng trưởng kỷ lục so với cùng kỳ nhiều
năm trở lại đây, nhưng để đạt được mục tiêu tăng 8,5%, tốc độ tăng những
tháng cuối năm sẽ phải đẩy lên trên 9%. Thực tế này tất yếu dẫn đến nhu cầu
nguyên vật liệu của nền kinh tế tăng mạnh, tạo ra sức ép tăng giá.
Bên cạnh đó, tăng trưởng kinh tế cao đồng nghĩa với thu nhập và sức mua xã
hội tăng cao. Cộng với việc tết Nguyên đán năm nay đến sớm khiến một bộ
phận rất đông đảo dân cư dốc túi chi tiêu cũng tạo ra áp lực tăng giá ngay từ
tháng 12 tới.
Những điều nói trên có nghĩa là, những tháng cuối năm bao giờ cũng
là những tháng xuất hiện lạm phát do cầu kéo.
- Thứ hai, Giá lương thực – thực phẩm và nguyên liệu thế giới đã tăng
cao trong hai năm nay. Theo số liệu thống kê, sự tăng giá hàng hoá lương
thực, thực phẩm và dịch vụ ăn uống chiếm 68,6 % tổng mức tăng giá chung
hay lạm phát.
Đặc thù của một nền kinh tế phụ thuộc khoảng 80% vào nguồn nguyên
liệu nhập khẩu từ thị trường thế giới như nước ta, việc thị trường nguyên
liệu thế giới sốt nóng như thế nào chắc chắn sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự
biến động của giá cả trong nước.
Cũng như những quốc gia châu Á khác, do đồng USD suy yếu trong
những năm gần đây đã tạo ra những cú sốc về tăng giá xăng dầu, giá vàng,
giá lương thực thực phẩm… từ đó tác động xấu đến giá cả ở VN. Đồng thời
những mặt hàng nước ta xuất khẩu (gạo, cà phê, cao su, hạt tiêu, điều…)
cũng xuất với giá tăng rất cao, đặc biệt là giá lương thực phẩm tăng trên
30%, nên giá thu mua cũng tăng, từ đó làm ảnh hưởng lớn đến giá cả chung
trong nước.
Nhưng nếu giá lương thực – thực phẩm và giá dầu lửa thế giới là
nguyên nhân chính, thì các nước trong khu vực như Thái Lan và Trung Quốc

cũng phải chịu sức ép tăng giá tương tự. Tuy nhiên, trong khi tỷ lệ lạm phát
của Việt Nam năm 2007 lên tới 2 chữ số, thì Trung Quốc chỉ chịu lạm phát ở
mức 6,5% và Thái Lan 2,9 nên đây không phải là nguyên nhân chính gây ra
lạm phát tại Việt Nam.
Lạm phát bùng lên trong năm 2007 có thể còn bắt nguồn từ mức chênh
lệch giữa tăng trưởng GDP và tăng cung tiền của Việt Nam đã ngày một dãn
rộng trong vòng 3 năm qua.
So
sánh tốc độ tăng trưởng cung tiền và tăng trưởng GDP của ba nước,
lấy mốc năm 2004 bằng 100%. Cung tiền đo bằng M2 (gồm tổng tiền
mặt và tiền gửi ngân hàng)
(Nguồn: Số liệu Thống kê tài chính quốc tế của Tổ chức Tiền tệ
Quốc tế, riêng số liệu tăng trưởng GDP 6 tháng đầu năm 2007 của
Việt Nam và Trung Quốc lấy từ nguồn Economist Intelligent Unit.)
Trong khoảng thời gian 2 năm rưỡi, tính từ đầu năm 2005 cho đến
cuối tháng 6 năm 2007, GDP của Việt Nam tăng 22%, còn mức cung tiền
mặt cho lưu thông và tiền gửi ngân hàng đã tăng lên đến 110%. Trong
cùng giai đoạn này, GDP của Trung Quốc tăng 29%, nhưng mức cung
tiền chỉ tăng 50%. Chênh lệch giữa tăng GDP và tăng cung tiền của Thái
Lan là hầu như không đáng kể.
Việt Nam tăng trưởng kinh tế thấp hơn so với Trung Quốc, nhưng tăng
cung tiền lại cao hơn rất nhiều. Đó chính là lý do chính để giải thích tại
sao lạm phát ở Việt Nam cao hơn hẳn những nước khác. Giá gạo hay giá
dầu thế giới có tăng cao bao nhiêu, thì sức ép của các yếu tố này tới lạm
phát ở Việt Nam, Trung Quốc và Thái Lan không thể khác nhau nhiều.
Điều này hàm ý rằng chúng ta đeo đuổi một chính sách tiền tệ (CSTT)
nới lỏng. Chính sách này có thể có tác dụng kích thích tăng trưởng kinh
tế trong ngắn hạn. Nhưng trong trung hạn và dài hạn chính nó lại là yếu
tố làm giảm tăng trưởng kinh tế do lạm phát cao thì lãi suất tăng lên, đầu
tư giảm đi, hiệu quả của đầu tư cũng giảm.

Đặc biệt ở VN, trong điều kiện lãi suất tăng, vốn NH sẽ dồn vào các
DN lớn, dự án lớn khu vực DNNN (thường là hiệu quả thấp). Kết quả là
các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V) càng khó tiếp cận vốn NH hơn,
hiệu quả tối đa hoá đầu tư bị giảm sút. Lạm phát 8,4% trong 7 tháng đầu
năm 2007 ở VN là cao so mức trung bình của thế giới và khu vực (2,5%-
3,5%).
- Trong năm 2007, và đầu năm 2008 Nhà nước chủ động thực hiện lộ
trình điều chỉnh theo giá thị trường đối với một số loại hàng hóa, vật tư
cơ bản như: điện, xăng dầu, than,… làm ảnh hưởng đến việc tăng giá các
hàng hóa khác.
- Nguyên nhân thứ năm và cũng là nguyên nhân chính theo sự đánh giá
của các chuyên gia kinh tế đó là do tốc độ tăng cung tiền quá mạnh.
Khác biệt rõ rệt nhất giữa Việt Nam với các quốc gia có lạm phát thấp
hơn, như Trung Quốc và Thái Lan, đó là tốc độ tăng cung tiền. Tính tới
cuối tháng 6 năm 2007, lượng tiền mặt trong lưu thông và tiền gửi ngân
hàng ở Việt Nam đã tăng tới 21,1% so với đầu năm. Con số tương ứng
của Trung Quốc và Thái Lan lần lượt là 10,0% và 1,4%.
Nguồn: IMF, WB.
Những nguyên nhân dẫn đến cung tiền ở Việt Nam tăng mạnh trong
năm 2007 là :
o Do vốn nước ngoài chảy vào tăng đột biến, từ đó buộc Ngân
hàng Nhà nước phải đóng vai trò người mua ngoại tệ cuối cùng và đưa
thêm tiền đồng vào lưu thông.
Lượng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào VN năm 2007 lên tới con
số kỷ lục 15 tỷ USD, tương đương 25% GDP của năm 2006. Năm nay
con số này có thể vượt 40 tỷ USD. Điều này đã làm cho tất cả các dấu
hiệu “bội thực” ngoại tệ hiển hiện trong nền kinh tế VN: bùng nổ tiêu
dùng và xây dựng, đầu dựng đất đai và chứng khoán
oCũng do dòng vốn ngoại chảy vào VN quá nhiều, Ngân hàng Nhà
nước đã phải bỏ ra hàng trăm nghìn tỷ VND để hút ngoại tệ ổn định

tương đối tỷ giá hối đoái có lợi cho xuất khẩu và đấu tư. Ước tính dự

×