PHT TRIN TH TRNG KHOA HC V CễNG NGH:
KINH NGHIM CA TRUNG QUC V VIT NAM
Vin Nghiờn cu Qun lý Kinh t TW
I- Phỏt trin th trng khoa hc v cụng ngh: Kinh nghim ca Trung
Quc v thc t Vit Nam
1. Khỏi nim th trng khoa hc v cụng ngh
Khỏi nim v th trng khoa hc v cụng ngh do cỏc hc gi Trung
Quc a ra khụng khỏc bit nhiu so vi khỏi nim ang c tha nhn
Vit Nam. V c bn theo cỏc tỏc gi Trung Quc, th trng khoa hc v
cụng ngh cng ging nh cỏc th trng khỏc, c hỡnh thnh trờn c s ba
iu kin sau: (i) phi cú hng hoỏ, õy c coi l iu kin thit yu nht
cho th trng hỡnh thnh v phỏt trin; (ii) phõn cụng lao ng xó hi phi
phỏt trin tng ng sao cho tn ti quan h cung-cu gia cỏc thnh viờn
trong xó hi v gia cỏc loi hỡnh sn xut trong xó hi, tc l phi cú ngi
cú nhu cu i vi hng hoỏ khoa hc v cụng ngh v ngi cú kh nng
cung ng nhng hng hoỏ ny; (iii) phi cú phng tin thanh toỏn ỏp ng
nhu cu ca ngi bỏn. Mc dự coi th trng khoa hc v cụng ngh cng l
mt dng th trng hng hoỏ nhng cỏc chuyờn gia Trung quc v Vit Nam
u thng nhất cho rằng th trng khoa hc và công nghệ l mt loi th
trng c bit. Tớnh c bit ny c to ra do c tớnh ca hng hoỏ
khoa hc v cụng ngh. Khỏc vi cỏc hng hoỏ khỏc, hng hoỏ khoa hc v
cụng ngh cú nhng c tớnh c bit sau: (i) hng hoỏ ca khoa hc v cụng
ngh thc cht l kin thc c th hin di mt dng vt cht hu hỡnh
nh bng sỏng ch nhng cng cú th vụ hỡnh di dng cỏc ý tng cụng
ngh; (ii) vic xỏc nh giỏ tr ca hng hoỏ rt khú khn do lao ng c
kt tinh trong hng hoỏ l lao ng trớ úc v tn ti s bt i xng thụng tin
gia ngi bỏn v ngui mua. Trong ú, thụng thng trong trng hp ny,
ngi bỏn (nh phỏt minh sỏng ch) v th mc c kộm hn ngi mua; (iii)
hng hoỏ khoa hc v cụng ngh mang tớnh cht tỏc ng ngoi lai
(externality) tớch cc m ú, li ớch xó hi do hng hoỏ em li ln hn li
ớch cỏ nhõn; (iv) so vi cỏc hng hoỏ khỏc, hng hoỏ khoa hc v cụng ngh
c sn xut v phỏt trin muộn hơn so với cỏc hng hoỏ vt th thụng
thng. Xut phỏt t nhng c thự ú m th trng khoa hc v cụng ngh
hỡnh thnh v phỏt trin mun hn cỏc th trng hng hoỏ thụng thng
khỏc, ng thi cho thy s cn thit v vai trũ ca Nh nc trong vic hỡnh
thnh v phỏt trin loi th trng ny.
Tuy nhiờn, trờn th gii, khỏi nim th trng khoa hc v cụng ngh hu
nh khụng c s dng m ch cú Trung quc (đợc gọi với thuật ngữ
1
chính thống là thị trờng công nghệ) v Vit Nam (sử dụng thuật ngữ thị
trờng khoa học và công nghệ). iu ny bt ngun t vic hai nc Vit
Nam v Trung quc u mang c im chung l chuyn i t c ch qun
lý k hoch hoỏ tp trung bao cp sang c ch th trng cú s qun lý ca
Nh nc. Do ú, điều này dn n hai im sau: (i) hot ng nghiờn cu
khoa hc v cụng ngh cũn mang du n ca c ch k hoch hoỏ trớc đây
cần đợc chuyn i cho phự hp vi c ch kinh t th trng; (ii) So vi
cỏc nc công nghiệp phỏt trin khỏc, Vit Nam v Trung quc cũn trỡnh
phỏt trin thp. Vỡ vy, theo c tớnh phỏt trin sau ca th trng khoa
hc v cụng ngh so vi cỏc th trng hng hoỏ thụng thng khỏc thỡ n
mt giai on phỏt trin nht nh, th trng khoa hc v cụng ngh mi bt
u hỡnh thnh v phỏt trin. Thờm vo ú, do du n ca c ch c li m
hnh vi ca mt s ch th tim nng cú th tham gia vo th trng khoa hc
v cụng ngh cn phi cú nhng thay i cho phự hp vi tỡnh hỡnh mi. Hai
im ch yu trờn ó lm cho khỏi nim th trng khoa hc v cụng ngh
c s dng ti Vit nam v Trung quc.
Nh vy, thc cht, vic hỡnh thnh v phỏt trin th trng khoa hc v
cụng ngh Trung quc v Vit Nam l quỏ trỡnh gia tng cỏc giao dch liờn
quan n cụng ngh gia cỏc ch th tim nng (giao dch gia doanh nghip
vi vin nghiờn cu, gia doanh nghip vi doanh nghip, gia trong nc
v ngoi nc, v.v.) nhm tng cng úng gúp ca khoa hc v cụng ngh
vo mc tiờu phỏt trin kinh t v xó hi. Trng tõm ca phỏt trin th trng
khoa hc v cụng ngh Vit nam v Trung quc l thit lp "mụi trng"
cn thit cỏc ch th cú th giao dch trờn th trng, khuyn khớch lng
cu trờn th trng thụng qua i mi v nõng cao nng lc cụng ngh ca
doanh nghip, tng cung hng hoỏ thụng qua thỳc y quỏ trỡnh thng mi
hoỏ cỏc kt qu nghiờn cu v gia tng tớnh nh hng th trng ca hot
ng nghiờn cu, khuyn khớch phỏt trin h thng cỏc dch v trung gian
(mụi gii, t vn cụng ngh, cung cp thụng tin, v.v.).
i vi mt vn cũn ang c tranh lun nhiu hin nay Vit nam
l nờn s dng khỏi nim "th trng cụng ngh" hay "th trng khoa hc v
cụng ngh", cỏc tỏc gi Trung Quc cho rng khụng nờn hiu tỏch bit gia
khoa hc v cụng ngh. Lý do chớnh l hin nay khong cỏch gia nghiờn cu
khoa hc v phỏt trin cụng ngh ngy cng c rỳt ngn. Ranh gii gia
khoa hc v cụng ngh tr nờn khú tỏch bch v do vy v mt thc tin th
trng khoa hc v cụng ngh hay th trng cụng ngh u mang ý ngha
nh nhau.
1
Nh vy, v khỏi nim th trng khoa hc v cụng ngh, nhỡn chung
khụng cú s khỏc bit ln gia cỏc hc gi Trung Quc v Vit Nam. Tuy
1
Cỏc tỏc gi Vit Nam cng ó a ra lun c tng t, xem Phỏt trin th trng khoa hc v cụng ngh
Vit Nam, NXB KHKT, 2004, tr. 17.
2
nhiên, các học giả Trung Quốc có cách nhìn động đối với thị trường khoa học
và công nghệ và đã đặt thị trường khoa học và công nghệ trong một bối cảnh
tổng thể của các thị trường hàng hoá nói chung và do vậy khẳng định sự liên
hệ mật thiết, sự phụ thuộc chặt chẽ của thị trường khoa học và công nghệ vào
trình độ phát triển của các thị trường khác. Chính cách nhìn bao quát và sống
động này đã đưa đến các tập hợp chính sách tổng thể và phối hợp hài hoà hơn
trong việc phát triển thị trường khoa học và công nghệ ở Trung Quốc. Cách
nhìn nhận thị trường khoa học và công nghệ như vậy nên được áp dụng ở
Việt nam bởi theo đó việc hình thành và phát triển thị trường khoa học và
công nghệ của Việt Nam hiện nay bị ảnh hưởng rất nhiều từ kết quả của các
chương trình cải cách các khu vực kinh tế như đổi mới doanh nghiệp nhà
nước, tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế, cải thiện môi trường kinh doanh
cạnh tranh lành mạnh.
2. Phát triển thị trường KH&CN và vai trò của Nhà nước
Đánh giá chung về tình hình phát triển thị trường KH&CN ở Trung quốc
cho thấy, thị trường này đã được quan tâm phát triển tại Trung quốc ngay từ
giữa những năm 1980. Sau gần 20 năm, thị trường này đã phát triển đến một
mức độ nhất định. Trong năm 2003, 267.997 hợp đồng công nghệ đã được ký
trên toàn quốc (trừ Tây Tạng do thiếu số liệu), tăng 13% so với năm trước.
Doanh thu của các hợp đồng công nghệ tăng đáng kể, đạt kỷ lục đầu tiên vượt
100 tỷ nhân dân tệ (NDT) (108.47 tỷ năm 2003), tăng 22.7% so với năm
trước. Doanh thu trung bình của mỗi hợp đồng công nghệ là 404,700 NDT,
tăng 9.4% so với năm trước. Như vậy, số lượng các giao dịch trên thị trường
KH&CN Trung quốc đã tương đối nhiều và liên tục tăng theo các năm.
Ở Việt Nam, lượng giao dịch trên thị trường KH&CN còn rất ít và đơn
điệu (chủ yếu diễn ra giữa đối tác nước ngoài và Việt Nam). Từ năm 1990 tới
năm 2002, chỉ có khoảng 150 hợp đồng chuyển giao công nghệ nhập khẩu
vào Việt Nam.
2
Con số này mặc dù có thể chưa thống kê hết lượng giao dịch
thực tế trên thị trường
3
do nhiều lý do khác nhau (trong đó lý do lớn nhất có
thể là lợi ích mang lại của việc đăng ký giao dịch hợp đồng công nghệ không
bù đắp được chi phí bỏ ra) mà các chủ thể thực hiện giao dịch không muốn
đăng ký. Tuy nhiên, nó cũng phần nào chỉ ra rằng so với Trung quốc thị
trường KH&CN ở Việt Nam còn mới hình thành và phát triển ở mức độ rất
sơ khai. Thực trạng này cũng cho thấy khung khổ thể chế để tạo điều kiện
cho các chủ thể tiềm năng tham gia giao dịch chính thức trên thị trường chưa
2
Xem Kinh tế Việt Nam 2003, NXB Chính trị quốc gia, 2004, tr. 90.
3
Ví dụ như theo số liệu thống kê chính thức của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (nay là Bộ
KH&CN) thì trong giai đoạn 1997-2000 không có một giao dịch công nghệ nào được thực hiện giữa các tổ
chức KH&CN và doanh nghiệp (Viện NCQLKTTW, 2003). Điều này không phản ánh đúng thực tế vì theo
số liệu điều tra năm 2001 của Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, nguồn thu từ hoạt dộng chuyển
giao công nghệ cho các doanh nghiệp chiếm một tỷ trọng đáng kể trong doanh thu hàng năm của một số viện
nghiên cứu.
3
hoàn thiện. Trong trường hợp của Trung quốc, các chủ thể tham gia đăng ký
hợp đồng công nghệ là do họ có những lợi ích nhất định như được hưởng ưu
đãi về thuế theo chính sách khuyến khích của nhà nước, được bảo vệ trước
pháp luật khi có những tranh chấp (sẽ phân tích ở các phần sau) đồng thời
những thủ tục đăng ký hợp đồng công nghệ cũng đơn giản và thuận lợi.
Những thành công trong quá trình phát triển thị trường khoa học và công
nghệ ở Trung Quốc nói trên bắt nguồn từ những thay đổi về nhận thức, tư
duy và cách thức quản lý của Nhà nước, được thể hiện ở những điểm sau đây:
Thứ nhất, việc Nhà nước chuyển từ vai trò người chỉ huy và tham gia trực
tiếp sang vai trò người tạo môi trường thuận lợi và khuyến khích các hoạt
động khoa học và công nghệ là một thay đổi có tính đột phá trong tư duy
quản lý Nhà nước đối với các hoạt động khoa học và công nghệ tại Trung
Quốc. Đối với thị trường KH&CN, Nhà nước Trung quốc đã khá thành công
trong việc đảm nhiệm vai trò thiết lập một khuôn khổ cần thiết để thị trường
vận hành bao gồm: (i) tạo điều kiện cho sự xuất hiện của hàng hoá trên thị
trường công nghệ thông qua xác lập và đảm bảo thực thi quyền sở hữu công
nghiệp; (ii) tạo dựng "văn hoá" giao dịch chính thức trên thị trường công
nghệ; (iii) tạo điều kiện hình thành các dịch vụ hỗ trợ thị trường (như hệ
thống thông tin, môi giới công nghệ) (cụ thể sẽ xem xét ở các mục sau).
Chính sự thay đổi kịp thời này đã mở lối, tạo ra không gian cho các giao dịch
trên thị trường đồng thời thúc đẩy các tổ chức nghiên cứu của Nhà nước
chuyển sang cơ chế hoạt động mang tính thị trường hơn và do vậy thiết lập
được mối quan hệ giữa các tổ chức này và nhu cầu thị trường.
Thứ hai, Nhà nước Trung Quốc đã nhận thức một cách kịp thời vai trò
động lực của khoa học và công nghệ, tầm quan trọng của sự gắn kết mật thiết
giữa khoa học và công nghệ với phát triển kinh tế. Khoa học và công nghệ đã
thực sự được coi là lực lượng sản xuất hàng đầu. Trên cơ sở tư duy này, Nhà
nước đã một mặt gia tăng đầu tư từ ngân sách nhà nước cho phát triển khoa
học và công nghệ, đặc biệt tập trung theo hướng gắn kết khoa học và công
nghệ với phát triển kinh tế. Có thể thấy rõ điều này qua tốc độ tăngtrung bình
14.5% mỗi năm trong đầu tư từ ngân sách nhà nước cho khoa học và công
nghệ giai đoạn 1990-2001. Hầu hết các chương trình khoa học và công nghệ
đều được định hướng tập trung vào phục vụ phát triển kinh tế thông qua việc
đẩy mạnh thương mại hoá các kết quả nghiên cứu. Mặt khác, Nhà nước tạo
môi trường kinh doanh cạnh tranh và hướng tới đổi mới công nghệ (sẽ xem
xét cụ thể ở mục sau).
Thứ ba, bắt nguồn từ nhận thức về vai trò động lực của khoa học và công
nghệ đối với phát triển kinh tế, Nhà nước trung ương Trung quốc đã khá
thành công trong việc thẩm thấu và biến những nhận thức đó thực sự trở
thành định hướng cho việc ban hành và thực thi chính sách ở hầu hết các địa
4
phương và ở các bộ ngành. Bằng chứng là trong năm 2003, đã có 19 tỉnh,
vùng tự trị và thành phố trực thuộc trung ương đạt doanh thu từ hợp đồng
công nghệ trên 1 tỉ nhân dân tệ, tăng gấp đôi so với năm 2002. Các cơ quan
quản lý Nhà nước khác nhau đều phải thực hiện những nhiệm vụ nhằm mục
tiêu phát huy vai trò động lực của khoa học và công nghệ trong phát triển
kinh tế-xã hội. Ví dụ:
* Uỷ ban Kế hoạch có nhiệm vụ:
Tối ưu hoá quá trình hiện đại hoá và cơ cấu các ngành công nghiệp
truyền thống thông qua gia tăng đóng góp của khoa học và công nghệ.
Chuyển hoá các thành tựu khoa học và công nghệ thành năng suất thực
tế, sử dụng những thành tựu công nghệ cao để định hướng cơ cấu các ngành
công nghiệp.
Mở rộng quy mô những kết quả nghiên cứu đang trong quá trình thử
nghiệm.
Chuyển các chương trình phục vụ quân sự thành phục phụ các mục tiêu
dân sự.
Nâng cao năng lực nghiên cứu cơ bản của Trung Quốc.
* Uỷ ban Khoa học:
Áp dụng khoa học và công nghệ cải thiện kinh tế nông thôn.
Đưa những thành tựu khoa học và công nghệ vào phát triển các ngành
công nghiệp trên cả nước.
Định hướng các hoạt động nghiên cứu và triển khai trong các viện
nghiên cứu, các trường đại học và các khu phát triển công nghệ cao.
Nâng cao trình độ khoa học và công nghệ nhằm phát triển xã hội.
Bám sát những thành tựu của thế giới trong những lĩnh vực công nghệ
cao quan trọng nhằm phục vụ phát triển kinh tế và quốc phòng.
Định hướng và khuyến khích các hoạt động kinh doanh trong các viện
nghiên cứu.
Xác định các mục tiêu, định hướng và nội dung chiến lược của nghiên
cứu cơ bản.
* Uỷ ban kinh tế và thương mại:
Nâng cao năng lực đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp.
Định hướng phát triển các sản phẩm mới.
* Uỷ ban nhà nước về Nền tảng khoa học tự nhiên:
Định hướng, điều phối, và tài trợ các nghiên cứu cơ bản và một số
nghiên cứu ứng dụng, phát triển đội ngũ làm nghiên cứu.
Như vậy, có thể nói thành công của Trung Quốc là đã biến những nhận
thức về vai trò quan trọng của khoa học và công nghệ trong phát triển kinh tế
- xã hội thành những hành động chính sách thực tiễn và nhất quán.
5
Ở Việt Nam, ngay từ đầu những năm 1980 cho đến nay, Đảng và Nhà
nước ta đã nhận thức rất rõ vai trò quan trọng của khoa học và công nghệ
trong phát triển kinh tế. Những năm gần đây, vấn đề chuyển đổi vai trò của
Nhà nước từ người trực tiếp cung cấp sản phẩm khoa học và công nghệ sang
vai trò tạo môi trường thuận lợi để các chủ thể tiềm năng tham gia trao đổi
trên thị trường cũng đã bắt đầu được thực hiện như tiến hành xây dựng khung
khổ luật pháp, thực hiện đổi mới cơ chế quản lý hoạt động khoa học và công
nghệ
4
, v.v.. Tuy nhiên, những gì Việt Nam đạt được còn rất mờ nhạt. So với
Trung quốc, Việt Nam đã chưa biến được những nhận thức về vai trò quan
trọng của khoa học và công nghệ đối với phát triển kinh tế - xã hội thành
hành động thực tiễn và do đó chưa thực sự đạt được những kết quả như mong
muốn. Các địa phương, các cấp, các ngành chưa thực sự chủ động quan tâm
đến phát triển khoa học và công nghệ của ngành và địa phương mình để từ đó
tạo động lực phát triển ngành và kinh tế địa phương. Một trong những
nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do cơ chế phân công phân cấp hiện
hành trong quản lý nhà nước về phát triển khoa học và công nghệ còn tạo ra
hướng suy nghĩ nhiệm vụ phát triển khoa học và công nghệ là chức năng của
Bộ Khoa học và Công nghệ mà không phải là nhiệm vụ của các bộ, ngành và
địa phương. Một trong những dẫn chứng điển hình là cho đến nay, trong kế
hoạch và báo cáo phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương hàng năm vẫn
chưa có phần đánh giá và kế hoạch về sự đóng góp của khoa học và công
nghệ vào phát triển kinh tế - xã hội. So với Trung quốc, những khung khổ
pháp luật cũng như môi trường cần thiết để huy động sự tham gia của các chủ
thể vào thị trường khoa học và công nghệ ở Việt Nam đã bước đầu hình
thành nhưng còn rất nhiều vướng mắc và hạn chế. Việc chuyển các tổ chức
nghiên cứu của Việt Nam sang hoạt động theo định hướng thị trường đã được
đặt ra nhưng cho đến nay theo nhận xét của nhiều nhà quản lý và nhà nghiên
cứu, chúng ta vẫn còn chưa thực sự khởi động (các vấn đề này sẽ lần lượt
được phân tích kỹ hơn ở các phần sau).
3. Doanh nghiệp: chủ thể chính trên thị trường khoa học và công nghệ
Một trong những thành công lớn nhất của Trung quốc là đã tạo ra những
điều kiện cần thiết để doanh nghiệp trở thành chủ thể chính trên thị trường
khoa học và công nghệ. Hơn thế nữa, doanh nghiệp không chỉ là bên mua
trên thị trường mà còn là bên bán. Trong năm 2003, khu vực doanh nghiệp đã
ký kết 73.390 hợp đồng, tăng 27,7% so với năm 2002. Tổng doanh thu do các
hợp đồng công nghệ này mang lại là 51,87 tỉ nhân dân tệ, chiếm 47% so với
tổng doanh thu từ hợp đồng công nghệ trên cả nước
5
. Số đơn đăng ký phát
minh sáng chế do khu vực doanh nghiệp chiếm 64,7% trong tổng số đơn đăng
ký và số văn bằng được cấp chiếm 46,5% trong tổng số văn bằng được cấp
4
Xem TS.Lê đăng Doanh, 2003
5
Trong khi đó, tỷ trọng này của các tổ chức nghiên cứu và triển khai là 18%, của trường đại học 10%, của cá
nhân 1%, của các tổ chức thương mại công nghệ 14% và của các tổ chức khác 10%.
6